Thứ Tư, 8 tháng 5, 2013

Bảo vệ chế độ chính trị, thể chế quốc gia là tôn trọng phẩm giá của dân tộc


QĐND - Thời đại ngày nay được người ta diễn đạt bằng nhiều thuật ngữ khác nhau - nào là “thời đại thông tin”; “thời đại toàn cầu hóa”, “thời đại cách mạng khoa học công nghệ”, “thời đại kinh tế tri thức”…; hoặc có người còn gọi thế giới ngày nay là “ thế giới phẳng”…
Tuy nhiên, cho dù diễn đạt theo cách nào, dựa trên quan điểm gì thì cũng không thể phủ nhận được một thực tế là, thế giới ngày nay vẫn là một cộng đồng gồm các quốc gia, dân tộc với những khác biệt về hệ tư tưởng, truyền thống lịch sử, bản sắc văn hóa, chế độ chính trị và thể chế quốc gia. Đồng thời, giữa các quốc gia vẫn đang diễn ra các cuộc cạnh tranh, đấu tranh với nhau dưới các hình thức chiến tranh nóng, chiến tranh lạnh, chiến tranh không có khói súng, các cuộc “cách mạng sắc màu” và cả những cuộc chính biến hiện nay ở Trung Đông, Bắc Phi, như có người gọi là “cách mạng hoa nhài”. Nếu người ta có cách nhìn khách quan, sáng suốt thì đều nhận thấy rằng những mâu thuẫn, xung đột và chiến tranh đó là vì các lợi ích vật chất và tinh thần của mình, chứ đâu phải vì các giá trị dân chủ, nhân quyền chung chung của nhân loại.
Theo các chuyên gia nghiên cứu về nhà nước và pháp luật, hơn 190 quốc gia trên thế giới ngày nay đang tồn tại với nhiều chế độ - thể chế khác nhau, như: Cộng hòa dân chủ; Quân chủ; Quân chủ nghị viện; Cộng hòa tổng thống; Cộng hòa đại nghị và Nhà nước tôn giáo (Va-ti-căng). Ở mỗi quốc gia, việc lựa chọn hệ tư tưởng nào - chủ nghĩa tư bản hay chủ nghĩa xã hội; thể chế chính trị nào - đa đảng hay một đảng lãnh đạo, cầm quyền; mô hình kinh tế nào - chủ nghĩa tự do hay kinh tế thị trường xã hội, cũng như việc định đoạt các nguồn tài nguyên, của cải của mình đều thuộc quyền của mỗi dân tộc mà không ai có quyền can thiệp, kể cả Liên hợp quốc. Mặt khác, ở các quốc gia, cho dù là quốc gia phát triển hay đang phát triển, ở phương Tây hay ở phương Đông, trong chế độ chính trị, thể chế quốc gia đều có những biểu tượng tinh thần của mình. Ví dụ như vai trò của hoàng gia (như ở Vương quốc Anh, Nhật Bản, Đan Mạch, Thụy Điển, Thái Lan…) hoặc vai trò của các chức sắc tôn giáo (nhất là đạo Hồi). Chế độ chính trị cùng với những biểu tượng này hình thành trong lịch sử, được nhân dân tôn trọng, hiến pháp và pháp luật bảo vệ.
Ở Việt Nam, chế độ Dân chủ cộng hòa nay là Cộng hòa  XHCN ra đời từ cuộc cách mạng do Đảng Cộng sản Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh lãnh đạo, giành lại độc lập dân tộc, xóa bỏ chế độ thuộc địa, phong kiến kéo dài hàng trăm năm. Chế độ đó được bảo vệ và củng cố bằng xương máu, sức lực của cả dân tộc trong các cuộc chiến tranh xâm lược chống lại những đế quốc hung bạo nhất thế kỷ. Thành quả của các cuộc đấu tranh với bao nhiêu hy sinh, mất mát kéo dài trên một nửa thế kỷ đó được ghi nhận trong Hiến pháp. Hiến pháp 1992 không chỉ là đạo luật gốc, mà còn là giá trị tinh thần của dân tộc.
Thật đáng tiếc, trong xã hội ta có một số ít người đã nhận thức lệch lạc về quyền công dân và quyền con người. Người ta đã tuyệt đối hóa quyền của cá nhân mà quên đi lợi ích của cộng đồng, của quốc gia, dân tộc. Mỗi khi quyền và lợi ích của cá nhân bị xâm phạm thì người ta bức xúc, thậm chí có thể sử dụng ngay cả bạo lực. Còn đối với lợi ích quốc gia, phẩm giá của dân tộc thì chẳng khác gì câu tục ngữ “cha chung không ai khóc” hoặc “lắm sãi chẳng ai đóng cửa chùa”. Thậm chí, có người còn không tiếc lời xúc phạm, phỉ báng, miệt thị chế độ xã hội. Lợi dụng Điều 19 về quyền tự do ngôn luận, “Công ước quốc tế các quyền dân sự, chính trị”, năm 1966, có người cho rằng mình có quyền tuyên truyền các quan điểm cá nhân - mà thực chất là phỉ báng, bôi nhọ chế độ xã hội, thể chế quốc gia. Về các cơ quan Nhà nước của Việt Nam họ nói: “Cả Lập pháp, Tư pháp và Hành pháp chỉ là công cụ cai trị của Đảng Cộng sản”; “ Điều 4 Hiến pháp Việt Nam là hoàn toàn phi lý vì vậy dứt khoát phải xóa bỏ”.  Còn hệ thống pháp luật Việt Nam thì họ dám gọi là “một quái trạng pháp luật”…(!)
Những ai đã nghiên cứu các công ước quốc tế về quyền con người thì đều hiểu rằng, Điều 19 (Công ước nói trên) còn cho phép các quốc gia thành viên có quyền đưa ra những hạn chế luật định nhằm:
 “ a) Tôn trọng uy tín và các quyền của người khác;
b) Bảo vệ an ninh quốc gia hoặc trật tự công cộng, sức khỏe hoặc đạo đức của công chúng”.
Về các quyền liên quan đến tự do tư tưởng, tự do ngôn luận, tự do báo chí, pháp luật Việt Nam đã có những quy định như sau: Điều 88, Bộ luật Hình sự, 1999, về “ Tội tuyên truyền chống Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam:
Người nào có một trong những hành vi sau đây nhằm chống Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, thì bị phạt tù từ ba năm đến mười hai năm:
a) Tuyên truyền xuyên tạc, phỉ báng chính quyền nhân dân;
b) Tuyên truyền những luận điệu chiến tranh tâm lý, phao tin bịa đặt gây hoang mang trong nhân dân;
c) Làm ra, tàng trữ, lưu hành các tài liệu, văn hóa phẩm có nội dung chống Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
1. Phạm tội trong trường hợp nghiêm trọng thì bị phạt tù từ mười năm đến hai mươi năm”.
Điều 13, Luật An ninh quốc gia quy định như sau: "1. Tổ chức hoạt động câu kết, xúi giục, khống chế, kích động,… nhằm chống chính quyền nhân dân, xóa bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam”.
Điều 14 Quy định nhiệm vụ bảo vệ an ninh như sau:
1. Bảo vệ chế độ chính trị và Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam;
2. Bảo vệ an ninh về tư tưởng và văn hóa… quyền và lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức, cá nhân.
Điều 10, Luật Báo chí, quy định “những điều không được thông tin trên báo chí…:
“1. Không được kích động nhân dân chống Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam…
3. Không được đưa tin sai sự thật, xuyên tạc, vu khống xúc phạm danh dự, nhân phẩm của công dân”...
Như vậy là những quy định nói trên của pháp luật Việt Nam không trái với pháp luật quốc tế.
Về  mối quan hệ giữa pháp luật quốc gia với pháp luật quốc tế, cho đến nay các công ước quốc tế về quyền con người không chỉ có những quyền tuyệt đối mà còn có những quyền bị hạn chế (trong đó có quyền tự do ngôn luận) đủ sự mềm dẻo để cho các quốc gia, dân tộc vận dụng vào hoàn cảnh đặc thù của mình. Luật quốc tế về quyền con người không phải là những quy định pháp luật trực tiếp áp đặt cho các quốc gia - dân tộc. Đơn giản vì thế giới ngày nay không phải một quốc gia, Liên hợp quốc không là chính phủ trung ương, các quốc gia không phải là chính quyền địa phương. Tương tự như vậy, trên lĩnh vực pháp lý - pháp luật quốc gia không phải là hương ước, lệ làng, đó là ý chí của cả dân tộc.  Luật  quốc tế đối với các quốc gia thành viên trên thực tế đó là các hiệp ước, nó chỉ phát sinh hiệu lực pháp lý khi quốc gia nào đó gia nhập, ký kết, phê chuẩn công ước. Tôn trọng độc lập dân tộc, chủ quyền quốc gia luôn là nguyên tắc hàng đầu của Liên hợp quốc.
Không phủ nhận rằng xã hội ta đang còn nhiều vấn đề như nhiều quốc gia khác, thậm chí còn là nhức nhối cần phải giải quyết - đó là phân hóa giàu nghèo, tình trạng quan liêu, tham nhũng, suy thoái về đạo đức lối sống của một bộ phận cán bộ, công chức; ở nơi này, nơi khác quyền của người dân còn bị vi phạm… Song, để giải quyết những vấn đề đó cần phải dựa trên các nguyên tắc chính trị, tư tưởng đúng đắn và nguyên tắc nhà nước pháp quyền, chứ không là việc tuyên truyền các quan điểm cá nhân (thực chất là phỉ báng, bôi nhọ, miệt thị chế độ xã hội). Nền dân chủ Việt Nam vẫn đang trên đường phát triển và hoàn thiện, tuy nhiên, điều đó không thuộc về các “chiến sĩ dân chủ, nhân quyền dũng cảm”, càng không phải là việc download (tải về) nền chính trị phương Tây như có người đã nói, mà là công việc của cả hệ thống chính trị và của toàn dân.
Đối với dân tộc ta, độc lập dân tộc, chủ quyền quốc gia, gắn liền với chế độ xã hội, là giá trị cao nhất của dân tộc. Bảo vệ các nguyên tắc Hiến định, trong đó có Điều 4, Hiến pháp 1992 quy định về vai trò lãnh đạo Nhà nước và xã hội của Đảng Cộng sản Việt Nam không chỉ là bảo vệ thành quả cách mạng mà còn là tôn trọng phẩm giá của dân tộc.
Phương Nhi

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét