QĐND
- Chiều ngày 2-8-2011, sau 6 giờ làm việc, Tòa phúc thẩm Tòa án nhân dân tối
cao đã bác toàn bộ đơn chống án của Cù Huy Hà Vũ, đồng thời tuyên phạt Vũ 7 năm
tù và 3 năm quản chế tại địa phương. Thật là đáng tiếc cho một trí thức đã để
mất đi 10 năm trong cuộc đời ngắn ngủi của một con người vì một sai lầm không
đáng có bởi một sự ngộ nhận về quyền tự do ngôn luận!
Trên
phạm vi lịch sử nhân loại và ở cấp độ đặc trưng cơ bản, phân biệt giữa con
người với phần còn lại của thế giới, nhu cầu về tự do được xem là một thuộc
tính của loài người, là một quyền tự nhiên (natural rights) của con người.
Không có tự do thì không có khám phá, không có phát minh sáng chế, không có
phát triển... Nhưng ở bình diện cá nhân trong cộng đồng thì nhu cầu về tự do
không thể không bị hạn chế vì những lợi ích nhiều mặt của quốc gia, dân tộc,
trước hết là ở sự ổn định xã hội – mà thiếu nó thì mọi phát minh, sáng tạo đều
trở nên vô nghĩa. Cuộc sống còn chỉ ra rằng, quyền tự do của người này nếu
không có những hạn chế nhất định thì có thể xâm hại đến quyền, lợi ích của
người khác, trước hết đó là nhân phẩm, danh dự của họ.
Sự
kiện khủng hoảng xã hội dẫn đến bạo động ở Đan Mạch bởi họa sĩ Kút (Kurt
Westergaard) vẽ tranh châm biếm nhà Tiên tri Mohammed của Hồi giáo và vụ việc
Mục sư Giôn (Tery Jones) ở bang Phlo-ri-đa (Florida), Mỹ có ý định đốt kinh
Cô-ran ở Mỹ là những ví dụ về hậu quả tai hại đối với xã hội khi người ta (và
cả pháp luật quốc gia) đã quan niệm không đúng quyền tự do của cá nhân. Tất
nhiên những người có hành vi xúc phạm đạo Hồi ở Đan Mạch và ở Mỹ nói rằng họ có
cơ sở pháp lý để làm việc đó. Đó là “quyền tự do của cá nhân được pháp luật bảo
vệ”. Tất nhiên pháp luật của một quốc gia quy định như thế nào là quyền của cơ
quan lập pháp nước đó, không ai có quyền phê phán.
Ở
Việt Nam từ sau khi cách mạng thành công, quyền tự do ngôn luận đã được quy
định nhất quán trong các Hiến pháp của nước Việt Nam dân chủ cộng hòa, nay là
nước CHXHCN Việt Nam (các Hiến pháp 1946, 1959, 1980 và 1992). Điều 69 - Hiến
pháp 1992 quy định “Công dân có quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí…”. Để bảo
đảm quyền này nhiều bộ luật và luật đã có những quy định cụ thể về quyền và
nghĩa vụ cá nhân, trong đó có Bộ luật Hình sự, Luật Báo chí.
Công
ước quốc tế về các quyền dân sự, chính trị năm 1966 (Việt Nam đã gia nhập năm
1982) cũng đã quy định về quyền này tại Điều 19 “1: Mọi người đều có quyền giữ
quan điểm của mình mà không ai được can thiệp; 2: Mọi người có quyền tự do ngôn
luận…”.
Cù
Huy Hà Vũ và nhiều luật sư bào chữa cho ông ta nói rằng, Cù Huy Hà Vũ không
phạm luật vì ông ta đã sử dụng quyền tự do ngôn luận của mình - mà quyền
này đã được pháp luật (quốc gia và quốc tế ) bảo vệ. Phải chăng đây là một lập
luận đúng đắn?
Vấn
đề là ở chỗ, trong luật quốc gia và luật quốc tế, quyền tự do ngôn luận (và
nhiều quyền khác) không phải là quyền “tuyệt đối” mà là những quyền có giới
hạn, nói cách khác là những quyền bị hạn chế. Trong Công ước quốc tế về quyền
con người, tại khoản 3, Điều 19 quy định “Việc thực hiện những quy định tại mục
2 của điều này kèm theo những nghĩa vụ và trách nhiệm đặc biệt. Do đó, có thể
phải chịu một số hạn chế nhất định… để: Tôn trọng các quyền hoặc uy tín của
người khác; Bảo vệ an ninh quốc gia hoặc trật tự công cộng, sức khỏe hoặc đạo
đức của công chúng).
Như
vậy là việc Cù Huy Hà Vũ dựa vào Luật quốc tế về Quyền con người để biện hộ cho
mình là sai, vì ông ta đã “quên” hay "cố tình quên" khoản 3, Điều 19.
Liên
quan đến tội lợi dụng quyền tự do ngôn luận của Cù Huy Hà Vũ, Điều 88, Bộ luật
Hình sự 1999 quy định: “Tội tuyên truyền chống Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ
nghĩa Việt Nam:
1.
Người nào có một trong những hành vi sau đây nhằm chống Nhà nước Cộng hòa xã
hội chủ nghĩa Việt Nam, thì bị phạt tù từ ba năm đến 12 năm:
a.
Tuyên truyền xuyên tạc, phỉ báng chính quyền nhân dân;…
c.
Làm ra, tàng trữ, lưu hành các tài liệu, văn hóa phẩm có nội dung chống Nhà
nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
2.
Phạm tội trong trường hợp đặc biệt nghiêm trọng thì bị phạt tù từ 10 năm đến 20
năm”.
Việc
Cù Huy Hà Vũ và luật sư cho rằng không có bằng chứng về hậu quả của hành vị
phạm tội của Vũ là không có cơ sở pháp lý. Tội “tuyên truyền” vốn là tội phạm
mang tính chất “bất bạo động” theo cách nói của mấy nhà luật học “lề trái”.
Bằng chứng về hậu quả của tội phạm này ư? - Đó chính là bạo loạn, là nội chiến,
là sự sụp đổ chính quyền hiện hữu, thậm chí là sự can thiệp, tấn công bằng quân
sự của nước ngoài như ở Trung Đông, Bắc Phi… Như có người đã nói “chẳng lẽ chờ
đến khi có “cách mạng hoa sen” mới kết tội Cù Huy Hà Vũ hay sao?
Trên
thế giới không có một quốc gia nào quy định chứng cứ về hậu quả xã hội của loại
tội phạm này. Còn nhớ, Hoa Kỳ và nhiều quốc gia phương Tây đòi truy cứu trách
nhiệm hình sự đối với ông chủ mạng WikiLeaks cũng chỉ cho rằng với những thông
tin của mạng này “có thể” gây nguy hiểm cho quân đội Hoa Kỳ. Như vậy là chỉ với
chứng cứ Cù Huy Hà Vũ “Làm ra, tàng trữ, lưu hành các tài liệu… có nội dung
chống Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam” đã đủ cấu thành tội phạm.
Với
các chứng cứ Cù Huy Hà Vũ đã có một số bài viết, bài trả lời phỏng vấn và nhiều
tài liệu lưu giữ tại máy tính xách tay và USB có nội dung đòi xóa bỏ Điều 4,
Hiến pháp 1992; xuyên tạc đường lối, chính sách của Đảng, phỉ báng Quốc hội,
Chính phủ, Cơ quan tư pháp – xem những tổ chức này “chỉ là tay sai của Đảng”;
pháp luật quốc gia chỉ là một “quái trạng pháp luật”… bản án dành cho Cù Huy Hà
Vũ là đích đáng. Đây còn là một bài học đắt giá cho những ai ngộ nhận pháp luật
quốc gia với pháp luật quốc tế, ngộ nhận về quyền tự do nói chung, tự do ngôn
luận, báo chí nói riêng và cả sự ngộ nhận về mối quan hệ quốc tế nào đó có thể
đóng vai trò bảo kê cho những hành vi vi phạm pháp luật của mình.
THANH TUYỀN
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét