QĐND - Ngày 13-9-2011, Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ đã công bố báo
cáo phúc trình thường niên về tự do tôn giáo quốc tế, trong đó công bố tên các
nước nằm trong danh sách CPC (các nước cần theo dõi đặc biệt về tự do tôn
giáo). Đồng thời, báo cáo còn đưa ra danh sách các quốc gia khác đề nghị Chính
phủ Hoa Kỳ đưa vào danh sách CPC nhằm “răn đe” những quốc gia này. Danh sách
CPC công bố năm nay gồm 8 nước trong đó có: Trung Quốc, Miến Điện, Triều Tiên,
I-ran, Ả-rập Xê-út, Xu-đăng, Ê-ri-tơ-ri-a và U-dơ-bê-ki-xtan. Ngoài 8 quốc
gia được nêu trong danh sách CPC, Ủy hội Hoa Kỳ về tự do tôn giáo quốc tế còn
đề nghị Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ đưa thêm vào danh sách CPC 6 nước khác gồm:
Ai-cập, Ni-giê-ri-a, I-rắc, Tuốc-mê-ni-xtan, Pa-ki-xtan và Việt Nam. Lý do
được ủy hội này đưa ra là chính phủ của tất cả những nước trên đều vi phạm
quyền tự do tín ngưỡng của người dân một cách nghiêm trọng.
Trợ lý Ngoại trưởng Hoa Kỳ phụ trách dân chủ, nhân quyền và
lao động, ông Mai-cơn Pốt-nơ (Michael Posner) nhận định về tình hình tự do
tôn giáo ở Việt Nam như sau: Ở Việt Nam “nếu theo một tôn giáo không được chính
phủ công nhận, họ còn bị đặt trước nguy cơ bị kỳ thị, bị ngược đãi bằng bạo lực
và có khi còn bị bắt bớ”… Trong báo cáo này, Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ còn đưa ra
nhiều thông tin sai lạc, không đúng sự thật, nhất là đối với một số chức sắc có
những hành vi vi phạm pháp luật như tuyên truyền xuyên tạc chính sách của Nhà
nước, kích động giáo dân gây mất trật tự công cộng… bị Nhà nước ta xử lý theo
đúng quy định của pháp luật.
Ngày 14-9-2011, trả lời câu hỏi của phóng viên liên quan đến
phản ứng của Việt Nam đối với các nhận xét của Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ về tự do
tôn giáo ở Việt Nam, người phát ngôn Bộ Ngoại giao Việt Nam Lương Thanh Nghị
nêu rõ: Báo cáo tự do tôn giáo quốc tế của Bộ Ngoại giao Hoa
Kỳ cho giai đoạn từ tháng 7-2010 đến tháng 12-2010, mặc
dù đã ghi nhận những thành tựu của Việt Nam trong lĩnh vực này,
nhưng vẫn tiếp tục đưa ra những đánh giá không khách quan; trích dẫn những
thông tin sai lệch về Việt Nam.
Vì sao khi nhận xét về Việt Nam, Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ
lại viết như vậy? - Đó là vì: Một mặt, Hoa Kỳ tự xem mình là mẫu mực về
quyền tự do tôn giáo, đồng thời muốn áp đặt mô hình đó cho các nước, trong đó
có Việt Nam. Mặt khác, Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ đã lấy thông tin từ những kẻ chuyên
“hành nghề” chống Cộng ở Mỹ cũng như ở Việt Nam. Những người này vốn là những
giáo dân hoặc chức sắc có hận thù với cách mạng, như Linh mục Nguyễn Hữu Lễ,
một trong những kẻ cầm đầu cái gọi là “Phong trào quốc dân đòi trả tên Sài
Gòn”, hoặc Linh mục Nguyễn Văn Khải… chẳng hạn. Trên thực tế họ đã bỏ bê công
việc thờ Chúa, đi làm chính trị với tham vọng dựa vào giáo dân để lật đổ Nhà
nước Cộng hòa XHCN Việt Nam.
Những ai có cái nhìn khách quan thì không thể không nhận
thấy: Trong lịch sử Việt Nam chưa có thời kỳ nào lại có chính sách tôn trọng tự
do tôn giáo, tín ngưỡng như thời kỳ từ sau Cách mạng Tháng Tám thành công đến
nay, thời kỳ Nhà nước Việt Nam do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh
đạo. Lịch sử còn ghi lại rằng, vào thế kỷ XVII, XVIII, chúa Nguyễn
và chúa Trịnh đã từng trục xuất các Thừa sai và đàn áp Thiên Chúa giáo. Ngược
lại, sau khi bình định áp đặt chế độ thống trị của mình ở Việt Nam, thực dân
Pháp đã thực hiện chính sách phân biệt đối xử giữa các tôn giáo - ưu
đãi Thiên Chúa giáo. Dưới chế độ cai trị của thực dân Pháp, nhiều cơ sở
Giáo hội đã trở thành nơi tích tụ ruộng đất([1]).
Tương tự như vậy, ở miền Nam khi đế quốc Mỹ cai trị, nhiều cuộc đàn áp các tôn
giáo đã từng diễn ra, nhất là đối với Phật giáo, điển hình là cuộc đàn áp Phật
giáo ở Sài Gòn và Huế (tháng 5-1963). Hòa thượng Thích Quảng Đức đã tự thiêu để
phản đối chính sách bất công của Mỹ và chính quyền tay sai ([2]).
Sau khi Việt Nam được giải phóng, đất nước được thống nhất,
các quyền tự do tín ngưỡng của các tôn giáo không chỉ được ghi nhận trong Hiến
pháp mà còn được Nhà nước giúp đỡ, khuyến khích, phát huy vai trò xã hội của
mình vào sự nghiệp chung của cả dân tộc. Nghị quyết Hội nghị Ban Chấp hành
Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam lần thứ Bảy (khóa IX) đã khẳng định: “Tín
ngưỡng, tôn giáo là tinh thần của một bộ phận nhân dân, đang và sẽ tồn tại cùng
dân tộc trong cả nước ta”, “Nghiêm cấm sự phân biệt đối xử với công dân vì lý
do tín ngưỡng, tôn giáo. Đồng thời, nghiêm cấm lợi dụng tín ngưỡng, tôn giáo để
hoạt động mê tín, dị đoan, hoạt động trái pháp luật và chính sách của Nhà nước,
kích động chia rẽ nhân dân, chia rẽ dân tộc, gây rối, xâm phạm an ninh quốc
gia”([3]).
Theo Tổng cục Thống kê, hiện nay Việt Nam có 6 tôn giáo lớn,
gồm: Phật giáo, Thiên Chúa giáo, Tin lành, Cao Đài, Phật giáo Hòa Hảo, Hồi
giáo với số giáo dân lên tới hơn 20 triệu người, chiếm khoảng 25% dân số ([4]).
Cũng theo Tổng cục Thống kê, tỷ lệ tăng giáo dân tương tự như tỷ lệ tăng dân
số. Như vậy, ở Việt Nam không có chuyện “vi phạm nghiêm trọng” các quyền tự do
tôn giáo, tín ngưỡng…, không có chuyện “bắt bớ, đàn áp giáo dân”… Nhà nước Việt
Nam không có lợi ích gì để chống lại 20 triệu giáo dân - đồng bào ruột thịt của
mình.
Dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, trong thời kỳ
đổi mới, các tôn giáo đã có những đóng góp to lớn và sự nghiệp xây dựng đất
nước, nhất là trên lĩnh vực xã hội, nhân đạo, từ thiện. Nhiều cơ sở khám bệnh,
chữa bệnh, sử dụng y học dân tộc miễn phí; nhiều lớp học tình thương, dạy nghề
cho người khuyết tật, người nhiễm HIV, nuôi dưỡng trẻ mồ côi hoặc bị bố mẹ bỏ
rơi, cứu giúp đồng bào vùng bị thiên tai,… do các tôn giáo đảm nhận đã góp phần
giảm bớt khó khăn cho Nhà nước. Như vậy, ở Việt Nam, cộng đồng các tôn giáo là
một thành tố tích cực của chế độ xã hội XHCN. Đó là một thực tế không dễ gì bác
bỏ được.
Còn nhớ, năm 2010, cũng vào dịp công bố báo cáo này, Hạ nghị
sĩ Mỹ, ngài Eni F.H.Faleomaveaga không đồng tình về cách đánh giá phiến
diện về tự do tôn giáo ở Việt Nam của Bộ Ngoại giao Mỹ. Ngài Faleomaveaga nói:
“Tôi không biết những người ở trong Bộ Ngoại giao Mỹ viết bản báo cáo này lấy
thông tin từ đâu, bởi vì trong chuyến thăm gần đây đến Việt Nam, tôi đã tham dự
một buổi lễ của người theo đạo Thiên Chúa ở ngay giữa trung tâm TP Hồ Chí Minh
và không có bất cứ nơi nào mà tôi phải chứng kiến cảnh người ta bị cấm đoán vì
lý do tín ngưỡng. Ngay cả chúng tôi cũng đã tiến hành một số hoạt động tôn giáo
và hành lễ ngay tại Việt Nam mà không bị Chính phủ Việt Nam gây khó khăn, cản
trở gì… Trong các chuyến thăm đến Việt Nam, không có bất cứ nơi nào mà tôi phải
chứng kiến cảnh người ta bị cấm đoán vì lý do tín ngưỡng”… Chính ngài Hạ nghị
sĩ này đã khuyên Chính phủ Việt Nam: “Trước tiên, … Chính phủ Việt Nam
cần có những phản ứng thẳng thắn đối với những thông tin được viết trong báo
cáo này…”. Vậy mà, theo báo cáo của Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ năm nay, tình hình về
tự do tôn giáo cũng chẳng có gì khác năm ngoái cả.
Không phủ nhận rằng, ở Việt Nam vẫn còn có một số chức sắc và
giáo dân bị bắt và phạt tù. Nhưng họ bị xử phạt không phải vì lý do tôn giáo mà
vì họ đã lợi dụng tôn giáo, vi phạm pháp luật; tuyên truyền chống Nhà nước Cộng
hòa XHCN Việt Nam; phá hoại chính sách đoàn kết, chống chính quyền nhân dân,
kích động, lôi kéo, tụ tập đông người phá rối an ninh, trật tự công cộng...
Cũng như ở nhiều quốc gia khác, tại Việt Nam các tôn giáo
bình đẳng với nhau và bình đẳng với những người không có đạo trước pháp luật.
Không có chuyện người có đạo được ưu tiên hơn người không có đạo, hoặc tôn giáo
này được ưu tiên hơn tôn giáo kia…; không có chuyện một tôn giáo nào đó đòi hỏi
Nhà nước phải tuân theo một mô hình tôn giáo ở nước ngoài.
Lại nói về quan hệ Việt Nam và Hoa Kỳ, đáng tiếc vẫn có một
số người vừa thiếu thông tin lại vừa cổ hủ và thiển cận. Thiếu thông tin vì họ
chỉ lấy thông tin ở những người chống đối Nhà nước; cổ hủ vì họ vẫn cho rằng
Hoa Kỳ luôn là siêu cường số một, là người có quyền ban phát và ra lệnh cho các
quốc gia khác. Những người này không hiểu rằng, trong thời đại ngày nay, sự
phát triển của mỗi quốc gia đều tùy thuộc lẫn nhau, kể cả Hoa Kỳ. Thiển cận là
vì người ta không thấy một thực tế là trong quan hệ với Việt Nam không chỉ có
Việt Nam được hưởng lợi mà cả Hoa Kỳ cũng được hưởng lợi về nhiều phương diện.
Cũng như các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, sự
khác biệt về mô hình nói chung, quan niệm về tín ngưỡng, tôn giáo nói riêng
giữa các quốc gia là điều bình thường. Hoa Kỳ không nên và không có quyền áp
đặt mô hình của mình cho các quốc gia khác. Từ những cơ sở cả về lý luận và
thực tiễn trên, chắc sẽ giúp những người soạn thảo bản báo cáo trên từ bỏ
sự kỳ thị đối với chính sách tôn giáo của Việt Nam. Vì, điều đó chỉ làm tổn hại
đến lợi ích của hai dân tộc; tổn hại đến quan hệ giữa Hoa Kỳ và Việt Nam đang
trong quá trình tiến triển tích cực.
Phương Nhi
[1] .
Trần Tam Tính, “Thập giáo và lưỡi gươm”, NXB Trẻ, TP Hồ Chí Minh, 1988, tr.78.
[2] .
Viện Sử học, “Việt Nam những sự kiện”, Tập I, NXB KHXH, HN.1975, tr.306, 307.
[3] .
Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Hội nghị lần thứ Bảy... NXB CTQG. HN. 2003,
tr.46,49.
[4] Bộ
Tư pháp “Việt Nam với vấn đề quyền con người HN.2005, tr.251 – 256.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét