Chủ Nhật, 23 tháng 11, 2014

Truyền thông Đức ca ngợi tốc độ tăng trưởng của Việt Nam

(TNO) Khoảng 750 đại diện doanh nghiệp Đức đã tham dự một hội nghị tại TP.HCM vào giữa tuần này và các chuyên gia phân tích tại hội nghị đều cho rằng Việt Nam đang trên đà phát triển mạnh, đài Deusche Welle (Đức) cho biết.
Bài báo nhận định về tang trưởng kinh tế Việt Nam trên trang web của đài phát thanh Deusche Welle (Đức)
Trong bài xã luận có tựa đề “Việt Nam: Quốc gia trên đà phát triển” đăng tải trên trang web của mình, Deusche Welle cho biết doanh số bán xe hơi tại Việt Nam đã tăng mạnh 40% hồi năm 2013.
Đây là tốc độ tăng trưởng ấn tượng nếu so với bất kỳ tỷ lệ tăng trưởng tiêu chuẩn nào, nhưng thương hiệu xe sang Mercedes thậm chí còn làm tốt hơn thế, với doanh số bán xe tăng vọt đến 60%, đài phát thanh Đức bình luận.
Tuy nhiên, Deusche Welle cũng chỉ ra rằng thị trường Việt Nam đang tăng trưởng từ một nền tảng còn thấp. Chỉ có 150.000 xe hơi được bán hồi năm 2013 tại Việt Nam, theo thống kê của đài Đức.
Phương tiện di chuyển phổ biến nhất vẫn là xe 2 bánh và chính phủ Việt Nam ước tính riêng TP.HCM đã có hơn 6 triệu xe 2 bánh, Deusche Welle cho biết.
‘Người Việt Nam rất cần cù và kỷ luật’
Đài truyền thanh Đức cho hay doanh nghiệp nước ngoài cảm thấy háo hức với sự năng động và tràn trề năng lượng của thanh niên Việt Nam.
Tobias Gruemmer hiện là giám đốc điều hành của Rhenus Logistics, một công ty cung cấp dịch vụ hậu cần Đức có khoảng 24.000 nhân viên trên toàn thế giới. Ông đã sống tại Việt Nam 9 năm.
“Người Việt Nam rất cần cù và kỷ luật. Cái họ thiếu là kinh nghiệm quốc tế. Nhưng thanh niên Việt Nam đang dần bắt kịp”, Deusche Welle dẫn lời ông Gruemmer nói.
Doanh nhân Đức này cũng rất lạc quan với sự phát triển của Việt Nam. “Nhiều người đã vào được tầng lớp trung lưu. Sự năng động tại Việt Nam rất tuyệt, giống như tại toàn bộ vùng Đông Nam Á vậy”, ông bình luận.
Tuy nhiên, ông Gruemmer cũng cảnh báo rằng có những yếu tố có thể cản trở đà tăng trưởng của Việt Nam và yếu tố khiến ông đặc biệt quan ngại chính là sự phát triển của cơ sở hạ tầng ở Việt Nam “có lẽ đang gặp khó khăn trong việc bắt kịp tốc độ tăng trưởng của nền kinh tế”.
Chính phủ Việt Nam nên có nhiều biện pháp hơn để khắc phục vấn đề này, nhưng nhìn chung chính phủ rất thân thiện với doanh nghiệp, theo ông Gruemmer.
‘Việt Nam là trung tâm của sự năng động trong khu vực’
Tổ chức Hợp tác và Phát triển Kinh tế (OECD) mới đây đã công bố báo cáo cập nhật về “Triển vọng kinh tế tại Đông Nam Á”, Deusche Welle cho hay. OECD dự đoán tốc độ tăng trưởng của kinh tế Việt Nam sẽ là 5,7% vào năm 2015.
Phát biểu tại hội nghị doanh nghiệp Đức ở TP.HCM hôm 20.11, ông Stefan Kapferer, phó tổng thư ký OECD, đã đánh giá: “Đông Nam Á đang trở thành thế lực kinh tế của nền kinh tế thế giới”,
Ông đưa ra số liệu về sự gia tăng của tầng lớp trung lưu và các báo cáo kinh tế khả quan để chứng minh cho nhận xét của mình. Tốc độ tăng trưởng kinh tế bình quân của nhiều nước Đông Nam Á là vào khoảng hơn 6% và Việt Nam là trung tâm của sự năng động trong khu vực, theo ông Kapferer.
Hoàng Uy

APEC đánh giá cao việc triển khai hội nhập hiệu quả của Việt Nam

(TNO) Thứ trưởng Bộ Ngoại giao Bùi Thanh Sơn cho biết như vậy trên khi trả lời phỏng vấn báo giới về kết quả chuyến tham dự Hội nghị cấp cao APEC lần thứ 22 của Chủ tịch nước Trương Tấn Sang cùng đoàn cấp cao Việt Nam tại Bắc Kinh, Trung Quốc.
Xin ông cho biết kết quả nổi bật và ý nghĩa của Hội nghị cấp cao APEC 2014 vừa kết thúc tại Bắc Kinh, Trung Quốc?
Thứ trưởng Bùi Thanh Sơn - Ảnh: Minh Giản

Hội nghị Cấp cao Diễn đàn hợp tác kinh tế châu Á - Thái Bình Dương (APEC) năm nay có ý nghĩa đặc biệt, đánh dấu chặng đường 25 năm hình thành và phát triển của APEC (1989 - 2014) và 20 năm thực hiện các Mục tiêu Bô-go về thuận lợi hóa và tự do hóa thương mại và đầu tư (1994 - 2014).
Với chủ đề “Định hình tương lai thông qua quan hệ đối tác châu Á - Thái Bình Dương”, Hội nghị đã thông qua hai Tuyên bố và 4 văn kiện kèm theo, đề ra những định hướng lớn cho liên kết và quyết định thiết lập một số cơ chế hợp tác.
Kết quả nổi bật là việc các nhà Lãnh đạo khẳng định lợi ích và quyết tâm chung duy trì vai trò của APEC là diễn đàn hợp tác kinh tế hàng đầu ở khu vực và trên thế giới.
Các nhà Lãnh đạo nhất trí, trên cơ sở những thành tựu nổi bật trong 25 năm qua, cần nỗ lực nâng tầm hợp tác, liên kết để đề cao vị thế của Diễn đàn trong giai đoạn phát triển mới và góp phần duy trì châu Á - Thái Bình Dương là động lực của tăng trưởng và liên kết toàn cầu. Đại diện cho khoảng 40% dân số thế giới, đóng góp 55% GDP và  44% thương mại toàn cầu, APEC đang đem lại những lợi ích thiết thực cho từng nền kinh tế thành viên và cuộc sống của người dân trong khu vực.
Thứ hai, Hội nghị đã thông qua “Kế hoạch tổng thể về kết nối APEC giai đoạn 2015 - 2025”. Đây là lần đầu tiên APEC đề ra các biện pháp tăng cường kết nối tổng thể với tầm nhìn dài hạn, đặc biệt là kết nối cơ sở hạ tầng, nhằm tạo thêm động lực hình thành một thị trường chung rộng lớn và không gian thống nhất cho tăng trưởng và phát triển của cả khu vực.
Thứ ba, Hội nghị đã nhất trí về “Lộ trình đóng góp của APEC trong hình thành Khu vực thương mại tự do châu Á - Thái Bình Dương (FTAAP)”. Như vậy, chỉ trong gần một thập kỷ, ý tưởng về Khu vực thương mại tự do châu Á - Thái Bình Dương nay đã trở thành mục tiêu cụ thể của APEC.
Thứ tư, các nhà Lãnh đạo thông qua “Thỏa thuận của APEC về phát triển sáng tạo, cải cách và tăng trưởng kinh tế”, để tăng trưởng mạnh mẽ, bền vững, cân bằng, đồng đều và phát huy tiềm năng mới của kinh tế mạng, hợp tác đại dương, ứng phó với các thách thức toàn cầu, an ninh lương thực, ứng phó với thiên tai, cứu hộ cứu nạn, thu hẹp khoảng cách phát triển, nâng cao năng lực cho các thành viên đang phát triển...
Với những kết quả đó, Hội nghị tiếp tục khẳng định tiềm năng và vai trò quan trọng của APEC trong việc xây dựng quan hệ đối tác vì một châu Á - Thái Bình Dương hòa bình, ổn định, gắn kết và thịnh vượng.
Việt Nam đã có những đóng góp gì vào thành công chung của Hội nghị Cấp cao APEC năm nay và các hoạt động quan trọng khác?
Đoàn đại biểu cấp cao nước ta do Chủ tịch nước Trương Tấn Sang dẫn đầu đã tham dự Hội nghị Cấp cao APEC, Hội nghị Thượng đỉnh doanh nghiệp APEC, Cuộc họp cấp cao Hiệp định đối tác xuyên Thái Bình Dương và Đối thoại với Hội đồng tư vấn kinh doanh APEC. Chủ tịch nước là khách mời đặc biệt tại phiên thảo luận của Hội nghị Thượng đỉnh doanh nghiệp APEC về vấn đề đầu tư và phát triển cơ sở hạ tầng.
Đoàn ta đã có nhiều đóng góp tích cực trong tất cả các vấn đề lớn của các Hội nghị, thúc đẩy nhiều quan tâm chung. Các thành viên đánh giá cao các đề xuất của ta, nhất là đề cao nhu cầu duy trì hòa bình, ổn định để phục hồi kinh tế, hợp tác và phát triển.
Chúng ta cũng đã đề xuất gắn kết chặt chẽ cải cách kinh tế, tăng trưởng, liên kết với phát triển bền vững, các Mục tiêu Thiên niên kỷ và Chương trình nghị sự phát triển sau năm 2015 cũng như ứng phó với các thách thức toàn cầu, trong đó có an ninh lương thực, an ninh nguồn nước, ứng phó thiên tai, cứu hộ, cứu nạn...
Đồng thời, chúng ta cũng nhấn mạnh hợp tác cần được triển khai trên cơ sở cùng có lợi, tính đến trình độ phát triển của các thành viên, hỗ trợ nâng cao năng lực, đặc biệt trong các vấn đề kinh tế, thương mại thế hệ mới. Nhiều thành viên tán thành đề nghị của chúng ta về việc APEC cần đẩy mạnh hợp tác giáo dục và đào tạo, đối tác công tư, hợp tác ngư nghiệp, ứng dụng khoa học - công nghệ, trợ giúp liên kết tiểu vùng, trong đó có ASEAN, ASEAN lục địa và tiểu vùng Mê Kông….
Các thành viên APEC đánh giá cao những kết quả đạt được tại Hội nghị Bộ trưởng APEC lần thứ 6 về phát triển nguồn nhân lực tổ chức thành công tại Việt Nam tháng 9 vừa qua.
Chúng ta cũng đã nêu bật những tiềm năng hợp tác, các ưu tiên phát triển của ASEAN và Việt Nam cũng như vai trò của ASEAN trong việc khởi xướng ý tưởng, thúc đẩy liên kết, kết nối trong APEC và ở châu Á - Thái Bình Dương. Nhiều thành viên cùng các doanh nghiệp khẳng đinh sẽ tiếp tục đồng hành và hỗ trợ triển khai các ưu tiên của ta trong tái cơ cấu kinh tế và hội nhập quốc tế, trong đó có việc phát triển cơ sở hạ tầng, nguồn vốn, công nghệ và nâng cao năng lực.
Xin Thứ trưởng cho biết những thỏa thuận quan trọng đạt được qua các cuộc gặp song phương giữa Chủ tịch nước Trương Tấn Sang với Lãnh đạo các thành viên APEC trong dịp tham dự các Hội nghị trên? 
Chủ tịch nước Trương Tấn Sang và Đoàn ta đã tiếp xúc rộng rãi với nhiều Nguyên thủ và lãnh đạo các thành viên APEC, trong đó có Tổng bí thư, Chủ tịch nước Trung Quốc Tập Cận Bình, Tổng thống các nước: Indonesia, Philippines, Chile, Peru; Thủ tướng các nước New Zealand, Nhật Bản, Malaysia, Thái Lan, Papu New Ghine...
Chủ tịch nước cũng đã tiếp Hội hữu nghị đối ngoại nhân dân quốc tế Trung Quốc, và gặp gỡ, trao đổi với các tập đoàn thuộc Liên minh doanh nghiệp Hoa Kỳ trong APEC.
Chủ tịch nước và lãnh đạo các thành viên APEC đã trao đổi sâu rộng về tăng cường quan hệ song phương và phương hướng phối hợp tại các diễn đàn đa phương trong bối cảnh có nhiều vấn đề an ninh, phát triển đang nổi lên ở khu vực và trên thế giới. Lãnh đạo các nước nhất trí, để tận dụng cơ hội phục hồi và liên kết kinh tế sôi động ở khu vực, cần cùng triển khai các biện pháp đẩy mạnh hợp tác song phương thiết thực hơn nữa về kinh tế, thương mại, đầu tư, kết nối doanh nghiệp, phát triển cơ sở hạ tầng, chuyển giao công nghệ...
Các thành viên APEC đánh giá cao những bước triển khai hội nhập quốc tế hiệu quả của Việt Nam trên mọi lĩnh vực, góp phần duy trì hòa bình, ổn định, thúc đẩy xu thế đối thoại và liên kết khu vực. Các thành viên khẳng định tiếp tục phối hợp chặt chẽ và sẵn sàng chia sẻ kinh nghiệm với chúng ta để chuẩn bị đăng cai tổ chức Năm APEC Việt Nam 2017 cũng như đảm nhận vai trò nước điều phối ASEAN trong APEC năm 2015.

Bảo Cầm (ghi)

Báo Nga ca ngợi cách thoát khủng hoảng kinh tế của Việt NamTừ chỗ thiếu đói, Việt Nam đã vươn lên là nước xuất khẩu gạo lớn thứ hai trên thế giới (65 triệu tấn/năm).Từ chỗ thiếu đói, Việt Nam đã vươn lên là nước xuất khẩu gạo lớn thứ hai trên thế giới (65 triệu tấn/năm).

"Trong số các nước được gọi là 'con hổ châu Á', thì Việt Nam vẫn thực sự nổi bật. Đây có lẽ là nước duy nhất vẫn giữ được bước đi vững chắc và có mức tăng trưởng ổn định".

Bài viết về kinh tế Việt Nam đăng trên tạp chí chính trị "Thế giới đa cực" của Nga.
Ngày 30/10, tạp chí chính trị "Thế giới đa cực" của Nga đăng tải một bài viết dài, tác giả chính là Tổng biên tập Pavel Vinogradov, có tiêu đề "Việt Nam đã bảo vệ nền kinh tế khỏi khủng hoảng như thế nào?". Bài báo phân tích chi tiết những quyết sách, giải pháp mà chính phủ Việt Nam đã sử dụng để duy trì tốc độ tăng trưởng ổn định của cả nền kinh tế trong bối cảnh cả thế giới phải "điêu đứng". Dưới đây là nội dung bài viết.
Gọi là "khủng hoảng" chưa biết có chính xác hay không vì thời gian của năm 2014 vẫn còn nên khó có thể nói trước điều gì. Nhưng hiện nay, cả châu Á và châu Âu đều đang thất vọng vì tốc độ tăng trưởng giảm mạnh so với trước đây. Đơn cử như mức tăng trưởng ở Trung Quốc là 7% chứ không phải 10% như mong đợi. Ngay cả Ấn Độ, Indonesia hay Malaysia cũng vậy.
Các chuyên gia phân tích nhận xét rằng, trong số các nước được gọi là "con hổ châu Á", dù mới hay cũ, lớn hơn hay nhỏ, thì Việt Nam vẫn thực sự nổi bật. Đây có lẽ là nước duy nhất tuy tham gia vào quá trình hội nhập phát triển kinh tế nhưng vẫn giữ được bước đi vững chắc, tự tin và có mức tăng trưởng ổn định trong suốt giai đoạn "khủng hoảng".
Có thể vì thế mà hiện nay Việt Nam đang được các chuyên gia phân tích của Nga cũng như của các nước khác quan tâm nhiều hơn. Điều này không có gì đáng ngạc nhiên. Việt Nam đã là đối tác kinh tế và thương mại quan trọng của Nga tại khu vực châu Á - Thái Bình Dương hơn nửa thế kỷ. Nhiều năm trôi qua, mối quan hệ hai nước lại ngày thêm bền vững.
Mối quan hệ này dựa trên một văn kiện quan trọng liên chính phủ là Tuyên bố hợp tác chiến lược được ký từ chuyến thăm đầu tiên của Tổng thống Putin tới Hà Nội năm 2001. Hè 2012, cuộc gặp giữa Tổng thống Nga Vladimir Putin với Chủ tịch nước Việt Nam Trương Tấn Sang ở Sochi đã nâng quan hệ hợp tác hai nước lên tầm cao hơn, "Đối tác chiến lược toàn diện".
Tổng thống Vladimir Putin và Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng tại cuộc gặp ngày 12/11/2013.
Những ngày này cũng là dịp vừa tròn một năm Tổng thống Putin quay trở lại thăm Việt Nam, và hai nước đã tiến thêm một bước lớn trong xây dựng hợp tác song phương mọi phương diện - kinh tế, thương mại, văn hóa, nhân đạo… 
Theo lời mời của Tổng thống Nga, ngày 24/11 Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng sẽ tiến hành chuyến thăm chính thức Moscow. Chắc chắn hai bên đều mong đợi sẽ có thêm những văn kiện quan trọng để củng cố quan hệ hữu nghị truyền thống Nga - Việt và tạo bước tiến mới để tiếp tục phát triển và hoàn thiện mối quan hệ này.
Theo thống kê của Liên Hợp Quốc, hiện nay Việt Nam nằm trong top 10 nước phát triển năng động nhất thế giới: tốc độ tăng trưởng kinh tế những năm gần đây trung bình khoảng 7-8% và chỉ xếp sau Trung Quốc. Đất nước này, cách đây không lâu còn phải đối diện với nạn nghèo đói, mà bây giờ đã giải quyết xong vấn đề thiếu hụt lương thực. Không những vậy, còn là nước xuất khẩu gạo lớn thứ hai trên thế giới (65 triệu tấn/năm).
Từ chỗ thiếu đói, Việt Nam đã vươn lên là nước xuất khẩu gạo lớn thứ hai trên thế giới (65 triệu tấn/năm).
5 năm trước Việt Nam là nước có tốc độ lạm phát thấp nhất khu vực châu Á - Thái Bình Dương (dưới 4%). Thu nhập bình quân đầu người tăng từ 128 USD năm 1995 lên 1200 USD năm nay (2014). Đầu tư nước ngoài đạt 65 tỷ USD dù đã bị giảm đôi chút do giai đoạn khủng hoảng.
Các nước tài trợ (đầu tư) chính của Việt Nam là Trung Quốc, Mỹ, Đài Loan, Singapore, Hàn Quốc, Nhật Bản và các nước thuộc Liên minh châu Âu (EU). Nhiều nước lớn trong lĩnh vực công nghệ cao sẵn sàng chuyển hoạt động sản xuất đến Việt Nam vì giá nhân công tương đối rẻ. Nếu mức lương trung bình phải trả cho công nhân ở Trung Quốc là 237 USD/tháng, ở Thái Lan là 257 USD thì ở Việt Nam chỉ có 101 USD.
Ngoài ra, các lĩnh vực cũng đang phát triển rất nhanh là khai thác và chế biến dầu, chế tạo máy, điện tử. Xét về tốc độ tăng trưởng trong lĩnh vực Công nghệ thông tin (IT), Việt Nam đứng thứ 5 trên thế giới với mức 16% sau Trung Quốc, Argentina, Ấn Độ và Thổ Nhĩ Kỳ. Năm ngoái Đài Loan đã chi tới 12 tỷ USD để chuyển toàn bộ nhà máy sản xuất máy tính sang Việt Nam.
Hội nghị thượng đỉnh APEC 2013 ở đảo Bali (Indonesia) cho biết, tại thời điểm đó, Việt Nam là nước thu hút đầu tư lớn nhất. Tổng kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam ở Đông Nam Á là 75%, EU là 15%. Trong khi đó, cho tới đầu những năm 90, Nga gần như là thị trường độc quyền ở Việt Nam thì giờ lại khiêm tốn với vị trí ở cuối danh sách. Kim ngạch của hai nước chúng ta khó khăn lắm mới đạt mức 3 tỷ USD trong khi với Mỹ là 20 tỷ USD. Tổng vốn đầu tư của các doanh nghiệp Mỹ vào kinh tế Việt Nam năm nay đã tăng lên mức 25 tỷ USD.
Hơn nữa, cách đây không lâu, Phòng Thương mại của Mỹ tại Singapore đã xếp Việt Nam vào vị trí thứ hai trong số các nước thành viên ASEAN về mức độ thu hút các doanh nghiệp Mỹ. Như vậy có thể thấy môi trường kinh doanh ở Việt Nam tăng dần qua mỗi năm. Đất nước này đã cải cách thành công ở các lĩnh vực như thuế, luật hải quan, thu hút đầu tư và bảo hiểm nước ngoài.
Các chuyên gia cho rằng chính những biện pháp này đã thu hút thêm các nhà đầu tư quốc tế. Mới đây, Tổ chức xếp hạng tín nhiệm Moody’s đã nâng mức xếp hạng trái phiếu không bảo đảm của Việt Nam từ B2 lên B1. Còn Hãng đánh giá tín dụng Fitch Rating cho biết sẽ nâng mức xếp hạng của Việt Nam từ B+ lên ВВ+ nhờ khôi phục thành công nền kinh tế và giảm thiểu rủi ro.
Tất nhiên trong bối cảnh nền kinh tế thế giới đang trải qua cuộc khủng hoảng như thế này, Việt Nam cũng không thể tránh được. Tham gia hội nhập quốc tế, họ đã phải trải qua mọi khó khăn và phải "đỡ các đòn khá mạnh" từ của cuộc khủng hoảng chung.
Ngành công nghiệp phụ thuộc lớn vào các doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp từ nước ngoài (chiếm gần 70% kim ngạch xuất khẩu của đất nước). Trong số đó có nhiều doanh nghiệp không thể chống đỡ được các khó khăn nên đã từ bỏ thị trường. Năm 2014 đã có gần 50 nghìn doanh nghiệp tuyên bố phá sản, hơn 13,8% so với năm 2013. Nhưng khi dự đoán về tương lai, các chuyên gia của các công ty quốc tế như WB, ADB, HSBC, S&P, Moody’s, Ernst&Young đều khẳng định nền kinh tế Việt Nam sẽ tiếp tục tăng trưởng dù có thể tốc độ không được cao. Như vậy, năm nay tăng trưởng GDP sẽ đạt 5,6% và sẽ quay trở lại mức 7% vào năm 2015-2017.
Phát biểu tại Hội nghị thượng đỉnh Á-Âu (ASEM 10) ở Milan (Italy), Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng đã đề cập đến các mối đe dọa toàn cầu như xung đột vũ trang, tranh chấp lãnh thổ, sử dụng hay đe dọa sử dụng vũ lực, nạn khủng bố cũng như các mối đe dọa an ninh.

Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng tại Hội nghị thượng đỉnh Á-Âu (ASEM 10) ở Milan.
Thủ tướng cũng nói rằng châu Á - Thái Bình Dương - khu vực chiếm gần 55% GDP toàn thế giới đang phải đối mặt với nhiều chuyển biến phức tạp tại các điểm nóng như: bán đảo Triều Tiên, tranh chấp lãnh thổ ở Biển Đông và Biển Hoa Đông.
Bất cứ quốc gia nào cũng đều nhận thấy mối quan tâm mà vị lãnh đạo Việt Nam muốn bày tỏ: cần phải chú ý đến các vấn đề chung của thế giới cũng như các nước khác. Và ưu tiên hàng đầu của Việt Nam là duy trì ổn định, hòa bình thế giới để phát triển đất nước và cải thiện đời sống nhân dân.
Quan điểm này của Việt Nam nhận được sự đồng thuận từ phía châu Âu. Bằng chứng là thỏa thuận giữa Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng và Chủ tịch Ủy ban châu Âu José Manuel Barroso về Hiệp định Tự do Thương mại sắp ký kết giữa Việt Nam và EU.
Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng và Chủ tịch Ủy ban châu Âu José Manuel Barroso.
Đối với Việt Nam, EU là thị trường xuất khẩu lớn thứ 2, là đối tác thương mại lớn thứ 2 và cũng là một trong những nhà đầu tư nước ngoài lớn nhất. Tới năm 2020, EU sẽ cấp cho Việt Nam 400 triệu euro (gần 500 triệu USD) trong khuôn khổ chương trình trợ giúp phát triển toàn diện. Và sẽ chủ yếu ưu tiên cho phát triển năng lượng, bồi dưỡng quản lý và củng cố các quy định pháp luật. Phần lớn nguồn vốn sẽ được dùng để hỗ trợ dân sự và tạo dựng một môi trường đầu tư thu hút. Đồng thời, chương trình định hướng hợp tác giữa EU và Việt Nam giai đoạn 2014-2020 cũng đã được ký kết ở Brussels (Bỉ).
Căn cứ vào đó, có thể thấy rằng Việt Nam đẩy mạnh việc ký kết hiệp định về khu vực tự do thương mại với EU hơn là với Nga và các quốc gia trong Liên minh Hải quan. Cùng vấn đề này, các cuộc đàm phán diễn ra vài năm trước ở cả Moscow và Hà Nội, nhưng vẫn chưa đi đến kết luận cuối cùng. Lần đàm phán gần đây cả hai bên đều bày tỏ hy vọng văn kiện sẽ sẵn sàng được ký kết vào đầu năm 2015.
Có thể vấn đề này sẽ được nêu ra trong buổi đón tiếp của Tổng thống Nga Putin với Tổng Bí thư Việt Nam Nguyễn Phú Trọng tại điện Kremlin diễn ra cuối tháng 11. Chủ đề này chắc chắn sẽ là mối quan tâm của cả hai lãnh đạo. Năm ngoái ở Hà Nội, ông Putin đã nhận định rằng quan hệ Nga -Việt có điểm đặc biệt riêng, chứ không chỉ đơn thuần là đối tác chiến lược.
Theo Huỳnh Linh/Infonet

Tổng Thư ký LHQ đánh giá cao thành tựu phát triển của Việt Nam

(Chinhphu.vn) - Tổng Thư ký Liên Hợp quốc (LHQ) hoan nghênh sự đóng góp tích cực và cảm ơn sự ủng hộ của Việt Nam đối với các hoạt động của LHQ.
Đại sứ Nguyễn Phương Nga trình Thư ủy nhiệm lên Tổng Thư ký LHQ Ban Ki-moon. Ảnh: TTXVN
Ngày 5/11/2014, Đại sứ Đặc mệnh Toàn quyền, Đại diện thường trực Việt Nam tại LHQ Nguyễn Phương Nga đã trình Thư ủy nhiệm của Chủ tịch nước Trương Tấn Sang lên Tổng Thư ký LHQ Ban Ki-moon.
Tại cuộc gặp ngay sau Lễ trình Thư ủy nhiệm, Tổng Thư ký LHQ Ban Ki-moon đánh giá cao thành tựu phát triển về mọi mặt của Việt Nam thời gian qua. Tổng thư ký LHQ Ban Ki-moon bày tỏ vui mừng trước sự phát triển ngày càng sâu rộng của quan hệ hợp tác giữa Việt Nam và LHQ, trong đó có việc triển khai Sáng kiến Một LHQ tại Việt Nam.
Tổng Thư ký LHQ hoan nghênh sự đóng góp tích cực và cảm ơn sự ủng hộ của Việt Nam đối với các hoạt động của LHQ, như đóng góp tích cực vào quá trình thực hiện Mục tiêu thiên niên kỷ (MDG), xây dựng các mục tiêu phát triển bền vững sau năm 2015 (SGD) và tham gia lực lượng gìn giữ hòa bình của LHQ.
Đại sứ Nguyễn Phương Nga cảm ơn Tổng Thư ký LHQ Ban Ki-moon đã luôn quan tâm thúc đẩy quan hệ hợp tác giữa LHQ và Việt Nam, khẳng định Việt Nam trân trọng và biết ơn sự hỗ trợ hiệu quả của LHQ đối với Việt Nam trong các lĩnh vực phát triển kinh tế-xã hội.
Đại sứ Nguyễn Phương Nga chuyển lời chào và những lời chúc mừng tốt đẹp nhất của các vị lãnh đạo Việt Nam tới Tổng Thư ký LHQ Ban Ki-moon, nhấn mạnh, Việt Nam đánh giá cao những đóng góp của cá nhân Tổng Thư ký trong việc thúc đẩy phát triển bền vững, xử lý các vấn đề toàn cầu và tăng cường hiệu quả hoạt động của tổ chức LHQ.
Bà Nguyễn Phương Nga khẳng định, Việt Nam tiếp tục thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hòa bình vì hợp tác và phát triển, chủ trương chủ động và tích cực hội nhập quốc tế, trong đó ngoại giao đa phương và quan hệ với LHQ là một trong những ưu tiên hàng đầu.
Thời gian tới, Việt Nam sẽ tiếp tục đóng góp tích cực vào việc xây dựng các chiến lược, chương trình hành động của LHQ trong các lĩnh vực, với các trọng tâm là các mục tiêu phát triển bền vững (SDG) và chương trình nghị sự năm 2015, gìn giữ hòa bình, an ninh quốc tế và khu vực, cùng chung tay giải quyết các thách thức toàn cầu.
Nhân dịp này, Đại sứ Nguyễn Phương Nga trân trọng chuyển lời mời của lãnh đạo Việt Nam mời Tổng Thư ký LHQ sang thăm Việt Nam.

PV

Việt Nam lọt top 20 nước đáng sống nhất thế giớiChất lượng chăm sóc trẻ em là một trong những hạn chế của Việt Nam

Theo xếp hạng mới nhất của tạp chí danh tiếng hàng đầu nước Mỹ - Business Insider – Việt Nam đứng thứ 16 trong tổng số 20 quốc gia đáng sống nhất hành tinh.

Việc đưa ra một xếp hạng chính xác dựa vào tất cả các tiêu chí trong cuộc sống là điều rất khó, vì vậy Business Insider cho biết họ chủ yếu dựa vào kinh nghiệm sống, nền kinh tế, môi trường và mức sống của người dân để đánh giá một quốc gia.

Cảnh sắc thiên nhiên tươi đẹp là một trong những điểm cộng giúp Việt Nam lọt Top 20 này
Theo đó, “Top 20 quốc gia đáng sống nhất thế giới” là những “miền đất hứa” dành cho những ai đang muốn thay đổi môi trường sống nhàm chán hiện tại mà chưa thể quyết định sẽ  di chuyển tới đâu.
Đứng ở vị trí thứ 16, đất nước chúng ta vượt mặt cả những quốc gia nổi tiếng có mức sống cao như Nhật Bản, Nga hay Bỉ. Điểm cộng lớn nhất đưa Việt Nam lên vị trí này là chi phí dịch vụ thấp, từ giao thông vận tải với vui chơi giải trí, mọi thứ đều hợp túi tiền.
Bánh mì Việt Nam là một trong những món ăn đường phố rất được lòng các du khách nước ngoài
Bên cạnh đó, khung cảnh tươi đẹp, thiên nhiên tuyệt hảo và thức ăn ngon, đa dạng, hương vị đặc trưng cũng là những ưu điểm lớn của Việt Nam trong mắt bạn bè quốc tế. Theo cuộc khảo sát của tạp chí này, 87% người nước ngoài tới Việt Nam đều đánh giá tốt và tỏ ra thích thú với những món ăn bản địa, vì vậy về đồ ăn, nước ta đứng ở vị trí thứ 3.
Chi phí giao thông công cộng ở nước ta vô cùng rẻ
Ngoài ra, về chế độ ăn uống, Việt Nam đứng thứ sáu trên thế giới theo bảng xếp hạng, đứng thứ nhất về sự thân thiện, dễ kết bạn và đứng thứ tư về mảng đời sống xã hội.
Tuy nhiên, hạn chế lớn nhất của Việt Nam khiến chúng ta chưa thể vươn lên một vị trí cao hơn theo Business Insider đó là dịch vụ y tế và chất lượng chăm sóc trẻ em thấp. Về hai tiêu chí này, nước ta đứng ở vị trí gần cuối bảng xếp hạng.
Chất lượng chăm sóc trẻ em là một trong những hạn chế của Việt Nam
Những nước nằm trong Top 20 quốc gia đáng sống nhất thế giới theo xếp hạng của Business Insider bao gồm: Thụy Sĩ, Singapore, Trung Quốc, Đức, Bahrain, New Zealand, Thái Lan, Đài Loan, Ấn Độ, Hong Kong, Canada, Úc, Qatar, Oman, Các tiểu Vương quốc Ả Rập thống nhất, Việt Nam, Nga, Nhật Bản, Malaysia, Bỉ.
Theo Nguyễn Bình (Theo Business Insider) (Khám phá)

Phụ Nữ News: LỢI DỤNG FACEBOOK – MỘT TRÒ HÁI TIẾN CỦA RẬN CHỦ

Phụ Nữ News: LỢI DỤNG FACEBOOK – MỘT TRÒ HÁI TIẾN CỦA RẬN CHỦ: Hiện nay, mạng xã hội facebook đang được giới trẻ rất ưa dùng và đang trở nên khá phổ biến trong thế giới ảo. Đây cũng là môi trường để ch...

Quản lý "xã hội ảo" trên Internet: Khó cũng phải làm

Internet là một "thế giới ảo" nhưng lại tác động không nhỏ vào đời sống thật. Bước vào thế giới này, người ta không phải xuất trình… hộ chiếu hay visa. Chẳng ai biết ai là ai nên từ đó đã nảy sinh những vấn đề phức tạp, rắc rối không chỉ trong đời sống xã hội, mà còn tác động đến cả lĩnh vực an ninh quốc gia. Do vậy, việc quản lý "xã hội ảo" trên Internet là việc làm cần thiết, dù khó đến mấy cũng phải thực hiện bằng được. 
Thông tin trên Internet cần được quản lý chặt chẽ, phù hợp với quy định của pháp luật. Ảnh: N.Đ. Hùng
Nhiều vấn đề đáng lo
Những năm qua, công nghệ Internet ở nước ta đã có những bước phát triển nhảy vọt. Theo một thống kê, Việt Nam hiện đứng trong top 20 quốc gia có người sử dụng Internet nhiều nhất trên thế giới, trong đó, chủ yếu lớp trẻ, tuổi đời từ 15-25 chiếm khoảng 42%, từ 25-34 khoảng 32%. Trong bối cảnh các thế lực phản động đã và đang xây dựng, duy trì rất nhiều các trang thông tin trên mạng Internet có nội dung khiêu khích, lôi kéo, kích động, chống phá Nhà nước ta, thì những con số trên cho thấy, có nhiều điều đáng lo bởi, bên cạnh mặt tích cực của "tấm huy chương Internet", mặt trái của nó còn chứa đựng rất nhiều vấn đề gây phương hại cho an ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội.
Trong thời gian gần đây, không chỉ các tổ chức phản động lưu vong ở nước ngoài lợi dụng Internet để chống đối, phá hoại Nhà nước, Chính phủ Việt Nam, mà các phần tử bất mãn, chống đối trong nước cũng lợi dụng công cụ này để hoạt động. Chúng thường lợi dụng quyền tự do ngôn luận, quyền tự do báo chí để thu thập, đăng tải những thông tin "đen" dựng chuyện, bịa đặt, xuyên tạc để vu cáo Đảng, Nhà nước Việt Nam.
Với sự đồng lõa, tiếp tay của các tổ chức, cơ quan truyền thông nước ngoài thiếu thiện chí với Việt Nam, các trang thông tin phản động do các đối tượng trong nước duy trì trái phép tràn ngập các tin, bài kích động sự hằn thù dân tộc, vu cáo Việt Nam vi phạm dân chủ, nhân quyền và tự do tín ngưỡng. Đặc biệt, chúng triệt để lợi dụng các tệ nạn xã hội, nhất là nạn tham nhũng, suy thoái đạo đức của một bộ phận cán bộ, đảng viên, để khai thác, khoét sâu, thổi phồng lên nhằm chống phá, bôi đen chế độ ta. Sự thù địch lộ rõ ở các trang web phản động này là cố tình bỏ qua những thành tựu to lớn cả về chính trị và kinh tế của những năm đổi mới ở Việt Nam, chuyển tải những thông tin xuyên tạc, gây hoài nghi trong nhân dân.
Thủ đoạn "câu view" của các trang web "đen" rất đa dạng và tinh vi, ví dụ như được thiết kế với hình thức bắt mắt, đăng tải nhiều hình thức thông tin theo kiểu "quý hiếm" để lôi kéo người dân trong nước truy cập vào, rồi sau đó cài vào các thông tin phản động. Đôi khi, các thông tin đánh lạc hướng là những thông tin rất có giá trị như các tin tức kinh tế, thương mại, các tài liệu tra cứu, sách vở... trong kho tàng tri thức chung nhằm làm cho người đọc mất cảnh giác khi đến với các nội dung độc hại. Mục đích lớn nhất của những người sở hữu và duy trì các trang web "đen" là bóp méo, xuyên tạc dẫn đến làm sai lệch cách nhìn nhận của cộng đồng quốc tế cũng như dư luận xã hội trong nước về Đảng, Nhà nước và xã hội Việt Nam.
Một vấn đề hết sức nghiêm trọng là hiện nay, người sử dụng Internet có thể truy cập tất cả các nguồn thông tin trên mạng một cách dễ dàng, trong đó có cả thông tin độc hại. Trong khi đó, các cơ quan quản lý Nhà nước chưa có biện pháp ngăn chặn triệt để hiện tượng này. Từ những kẽ hở đó, đã có nhiều đối tượng, tổ chức lợi dụng Internet để hoạt động tuyên truyền chống phá Đảng và Nhà nước ta, gây ảnh hưởng đến an ninh quốc gia trong thời gian qua mà điển hình là Tạ Phong Tần, Nguyễn Văn Hải (Điếu Cày), Nguyễn Hữu Vinh (Anh Ba Sàm)... về các hội, nhóm thì có cái gọi là  "Hội Nhà báo độc lập", "Văn đoàn độc lập Việt Nam"...
Cần tăng sức đề kháng
Theo một báo cáo khảo sát của Trung tâm nghiên cứu dư luận xã hội, thì có tới 33% đối tượng cán bộ, 45% đối tượng nhân dân được hỏi cho rằng, các thông tin xuyên tạc, vu cáo, bịa đặt, nói xấu Đảng, chế độ, bôi nhọ lãnh đạo của các thế lực thù địch đã tác động không nhỏ dẫn đến sự phai nhạt lý tưởng cách mạng xã hội chủ nghĩa trong xã hội ta. Như vậy, rõ ràng, việc nhận diện các trang web phản động độc hại, để đấu tranh ngăn chặn là một đòi hỏi rất bức xúc của dư luận.
Tuy nhiên, với ưu thế của kỹ thuật hiện đại, thông tin trên các trang web độc hại dễ dàng xâm nhập, lan truyền với tốc độ nhanh trên mạng internet khiến công tác quản lý của các cơ quan chức năng gặp nhiều khó khăn, bởi sự phát triển của công nghệ thông tin luôn tìm cách vượt qua sự kiểm soát, biến đổi tinh vi và khôn lường. Song, không thể vì khó mà chúng ta "buông tay", trái lại, cần phải tích cực vào cuộc để đảm bảo an ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội.
Đặc biệt, khi các thế lực thù địch đang triệt để lợi dụng văn hóa, công nghệ thông tin, văn học nghệ thuật để tiến hành âm mưu "Diễn biến hòa bình" nhằm phá hoại tư tưởng, văn hóa, cần nhanh chóng hoàn thiện môi trường pháp lý, rà soát lại các văn bản qui phạm pháp luật hiện hành, bổ sung và sửa đổi nhằm tăng cường hiệu quả, hiệu lực của công tác thực thi pháp luật trong lĩnh vực an ninh mạng, quản lý thông tin trên Internet.
Bên cạnh đó, các bộ, ngành chức năng cần tăng cường công tác phối hợp trong quản lý thông tin trên Internet, bảo đảm an ninh mạng, trong đó, công tác tuyên truyền, giáo dục phải được xác định là khâu then chốt, giúp người dân phân biệt, chọn lọc các sản phẩm văn hóa có lợi, nâng cao nhận thức và cách ứng xử trước những thông tin độc hại. Trong giáo dục, cần chú ý bồi dưỡng giá trị thẩm mỹ, những giá trị văn hóa tốt đẹp truyền thống, lòng yêu nước và sâu xa hơn là cuộc đấu tranh tạo sức đề kháng bảo vệ nền văn hóa dân tộc.
Cùng với những mặt công tác trên, biện pháp quan trọng để tăng tính hiệu quả trong phòng chống các hoạt động "Diễn biến hoàn bình" của các thế lực thù địch thông qua mạng Internet là cần tiếp tục đẩy mạnh hơn nữa việc giáo dục, tăng cường tính tự giác, cảnh giác của người sử dụng, chủ động đưa thông tin của Việt Nam lên mạng Internet để góp phần tuyên truyền đường lối, chính sách đúng đắn của Đảng và Nhà nước. Chính những thông tin chính thống này sẽ đánh bại sự xuyên tạc, gây hiểu nhầm về chính sách của Đảng và Nhà nước ta, đồng thời, có tác dụng làm suy yếu những thủ đoạn của các thế lực thù địch chống phá Việt Nam thông qua "Diễn biến hòa bình"... 
Nguyễn Đình Hùng

Câu chuyện khó tin

QĐND - Mới đây trên một trang web có tên “Hãy bảo vệ người bảo vệ nhân quyền” (riêng cái tên của trang web này sẽ có dịp chúng tôi bàn sau) có đăng bài nói chuyện giữa một blogger với một bà dân biểu Hoa Kỳ tên là Zoe Lofgren. Câu chuyện đại loại xoay quanh vấn đề “dân chủ, nhân quyền ở Việt Nam” và đòi thả các phạm nhân mà họ gọi là “tù nhân lương tâm”. Thú thật khi đọc bài viết này, tôi không tin lắm vào nội dung của cuộc nói chuyện giữa hai người. Bởi với một số người tự nhận là “nhà đấu tranh cho dân chủ” đang ngồi tận… Hoa Kỳ thì họ có thể vẽ ra những gì mà họ tưởng tượng và cũng không ai có thể kiểm chứng. Điều này họ đã làm và làm thường xuyên. Thế nhưng cứ coi như câu chuyện trên là có thật thì cũng có thể bàn một số vấn đề sau.
Thứ nhất là ở Việt Nam, không có cái gọi là “tù nhân lương tâm” để bà dân biểu Hoa Kỳ phải sốt sắng quan tâm đến thế. Ở Việt Nam chỉ có các phạm nhân vi phạm pháp luật và được tòa án phân xử công minh, đúng người, đúng tội. Còn những người mượn cớ “đấu tranh cho dân chủ” để chống lại Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, phá hoại khối đại đoàn kết toàn dân tộc, hòng làm rối loạn đất nước để “đục nước béo cò” thì dù kẻ đó là ai cũng không thể tha thứ được. Một đất nước muốn ổn định và phát triển thì phải có luật pháp nghiêm minh làm rường cột. Ở Hoa Kỳ hay bất cứ đất nước nào cũng đều như thế. Thêm nữa, có lẽ ở tất cả các nước trên thế giới, thực hiện bảo đảm quyền dân chủ thực sự của con người chính là duy trì quyền dân chủ đó trong khuôn khổ của luật pháp, không có quyền dân chủ nằm ngoài luật pháp. Nếu ai đó mong muốn và đòi hỏi kiểu tự do dân chủ đứng trên luật pháp, hoặc nằm ngoài luật pháp thì xưa nay người ta gọi đó là kiểu “dân chủ quá trớn” và chưa từng thấy được chấp nhận ở đâu.
Thứ hai là tôi thấy bà Zoe Lofgren (như trong bài trao đổi của bà với blogger) là một chính khách và hiểu biết về luật pháp Hoa Kỳ. Thế nhưng trong câu chuyện của bà, tôi thấy bà nhận định, đánh giá, kết luận các vấn đề liên quan tới chính trị, ngoại giao lại rất hời hợt, tùy hứng. Khi muốn bàn về những vấn đề nghiêm túc như: Thể chế, hệ thống luật pháp của một đất nước, hệ tư tưởng của nhân loại, mối quan hệ của các quốc gia… thì phải nghiên cứu thật thấu đáo. Vậy nhưng, chỉ ngồi trao đổi chốc lát với một blogger, trong một câu chuyện gói gọn chưa đến nghìn chữ mà bà đã vội dốc hết những vốn liếng hiểu biết của mình về những phạm trù đó thì thật… hài hước.
Từ hai vấn đề trên có thể nói rằng, câu chuyện của một blogger với bà Zoe chỉ là trò cũ và thiếu nghiêm túc của những người mượn danh “đấu tranh cho dân chủ”. Những người có suy nghĩ chắc sẽ không bao giờ tin vào những câu chuyện như thế.

TRẦN THÔN

“Nền chính trị ổn định tạo cho Việt Nam có được một nền hòa bình và thịnh vượng”

QĐND - Âm mưu và sự chống phá Đảng Cộng sản Việt Nam, chống phá Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam của các thế lực thù địch thông qua chiến lược “diễn biến hòa bình” suy cho cùng hòng làm cho tình hình chính trị ở Việt Nam mất ổn định. Đây là “bài học” mà các thế lực thù địch, cơ hội chính trị đã dành nhiều thời gian, công sức “nghiên cứu, đúc kết” từ những cuộc xung đột chính trị xảy ra ở một số quốc gia, vùng lãnh thổ trên thế giới những năm gần đây. Tuy nhiên, trên thực tế, không cần phải mất quá nhiều thời gian nghiên cứu, phân tích cũng đủ thấy: Sự bất ổn về chính trị xảy ra ở một số quốc gia, vùng lãnh thổ trên thế giới thời gian qua, nguyên nhân sâu xa đều “khởi nguồn” từ việc tranh giành quyền lực chính trị; mâu thuẫn lợi ích giữa các đảng phái hoặc ngay nội bộ của đảng cầm quyền. Hậu quả việc bất ổn chính trị không chỉ là nguyên nhân trực tiếp ảnh hưởng lớn đến sự phát triển kinh tế của mỗi quốc gia mà còn gây ra rất nhiều đau thương, bất hạnh cho nhân dân, thậm chí còn dẫn đến cảnh “huynh đệ tương tàn”. Ở những quốc gia, vùng lãnh thổ không giữ được sự ổn định về chính trị thì người gánh chịu hậu quả nặng nề nhất chính là nhân dân, những người lao động trong xã hội.
Đề cập đến vài nét khái quát như trên để thấy rõ những hậu quả nặng nề, tác hại ghê gớm do sự bất ổn về chính trị gây ra đối với mỗi quốc gia, dân tộc. Nói như vậy để hiểu rõ hơn một điều là vì sao sự chống phá của các thế lực thù địch, cơ hội chính trị lại hướng trọng tâm vào mục tiêu xóa bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam đối với Nhà nước Việt Nam, đối với xã hội Việt Nam. Chiêu thức nhằm xóa bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam mà các thế lực thù địch, cơ hội chính trị tiến hành là tập trung thực hiện các đòn chiến tranh tâm lý, xuyên tạc đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước; lợi dụng những hạn chế, yếu kém trong quản lý xã hội và những vấn đề bức xúc trong đời sống nhân dân để lôi kéo, kích động gây ra sự bất ổn ở cơ sở. Chúng tác động vào nhận thức, tư tưởng, tình cảm của một bộ phận nhân dân, với nhiều chiêu bài, như “hỗ trợ kinh phí để thực hiện việc khiếu kiện”; “hỗ trợ nhân đạo kèm theo những điều kiện bắt buộc như tham gia hội hè, tham gia tọa đàm, hội thảo...”; “kích động những người bất mãn với xã hội viết bài xuyên tạc, bôi nhọ cán bộ, công kích cấp ủy, chính quyền địa phương với mức trả thù lao rất cao”… Tóm lại, các thế lực thù địch, cơ hội chính trị tập trung lợi dụng việc nhận thức hạn chế của một bộ phận nhân dân; kích động, gây bức xúc, hoặc lợi dụng sự bức xúc trong đời sống của một bộ phận cán bộ, đảng viên; dùng các thủ đoạn tác động vào lợi ích trước mắt để mua chuộc lòng tham của con người, hòng đạt tới mục tiêu gây ra sự bất ổn về chính trị, gây sự hoài nghi về vị trí, vai trò, khả năng lãnh đạo xã hội của Đảng Cộng sản Việt Nam, từng bước hạ thấp vai trò của Đảng, phủ nhận lịch sử; tiến đến xóa bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam đối với xã hội, từ đó làm thay đổi chế độ chính trị, nhằm tạo ra cơ hội chính trị và lợi ích cho chính bản thân họ mà không hề mang lại lợi ích gì dù là nhỏ nhất cho tuyệt đại bộ phận các tầng lớp nhân dân trong xã hội.
Đề cập đến vị trí, vai trò của sự ổn định chính trị đối với sự phát triển của đất nước, mới đây, khi trả lời báo chí nhân dịp dự Diễn đàn Phát triển châu Á lần thứ 5 được tổ chức tại Hà Nội, Chủ tịch Ngân hàng Phát triển châu Á (ADB) Takehiko Nakao đã đánh giá cao sự ổn định chính trị và ổn định về kinh tế vĩ mô ở Việt Nam. Ông cho rằng đó là điều kiện, là cơ sở vững chắc để Việt Nam đạt được tốc độ tăng trưởng kinh tế cao và tăng trưởng đồng đều. Từ những thành quả đạt được trong phát triển kinh tế mà nền tảng bắt nguồn từ sự ổn định chính trị, Chủ tịch Ngân hàng Phát triển châu Á hy vọng, Việt Nam sẽ tăng trưởng ở mức 5,6% trong năm 2014; đồng thời khuyến khích đạt mục tiêu trở lại mức tăng trưởng 7-8% trong những năm tiếp theo.
Sự phối hợp chặt chẽ của các lực lượng ở cơ sở góp phần đảm bảo an ninh-quốc phòng, giữ vững ổn định chính trị trên địa bàn Tây Nam Bộ. Ảnh minh họa. Nguồn: qdnd.vn.
Cũng đề cập đến vai trò, vị trí của sự ổn định chính trị đối với quá trình phát triển kinh tế-xã hội ở Việt Nam, trả lời phỏng vấn phóng viên Đài Tiếng nói Việt Nam, Tiến sĩ kinh tế người Pháp Philippe Delalande khẳng định: Sự ổn định chính trị là một trong những yếu tố không thể thiếu, góp phần giúp Việt Nam có thể kiên trì chính sách phát triển kinh tế. Nền chính trị ổn định tạo cho Việt Nam có được một nền hòa bình và thịnh vượng. Nếu nhìn sang một số quốc gia trong khu vực, dễ thấy rằng, trừ Xin-ga-po, thì từ năm 1990 trở lại đây, hầu hết các nước trong khu vực đều trải qua các cuộc đảo chính hay khủng hoảng chính trị. Trong khi đó, nền chính trị của Việt Nam luôn ổn định, đây là một đảm bảo cho sự gắn kết để thực hiện chính sách kinh tế nhất quán. Tiến sĩ Philippe Delalande cho rằng: Thành công của sự nghiệp đổi mới ở Việt Nam cũng là dựa trên sự ổn định chính trị.
Chúng ta không phủ nhận những hạn chế, yếu kém vẫn còn tồn tại hiện nay. Những hạn chế, yếu kém cả trong phát triển kinh tế, chăm lo đời sống nhân dân; cả trong xây dựng Đảng, xây dựng hệ thống chính trị, xây dựng đội ngũ cán bộ đều đã được Đảng nhận rõ, thẳng thắn nêu lên. Nhận rõ những hạn chế, yếu kém trong đời sống xã hội, Đảng, Nhà nước, Quốc hội đã ban hành nhiều chủ trương, chính sách, giải pháp cụ thể để sửa chữa, để khắc phục. Những trường hợp cán bộ, đảng viên thoái hóa, biến chất, vi phạm pháp luật ở mọi cấp đều được điều tra, xử lý kịp thời đúng người, đúng tội mà không có trường hợp ngoại lệ. Các vụ án kinh tế phức tạp được các cơ quan chức năng đưa ra xét xử công khai, được nhân dân đồng tình, ghi nhận. Những cán bộ thoái hóa, biến chất, sách nhiễu nhân dân, lợi dụng chức vụ vun vén lợi ích cá nhân đều được cấp ủy, chính quyền các cấp xem xét có hình thức kỷ luật thích đáng. Những chủ trương, giải pháp trên cho thấy quyết tâm chính trị rất cao của cấp ủy, chính quyền các cấp; của toàn Đảng và cả hệ thống chính trị trong việc loại bỏ, từng bước hạn chế những khuyết điểm, yếu kém gây ảnh hưởng đến sự ổn định, phát triển của đời sống xã hội.
Nhận thức rõ vị trí, vai trò, tầm quan trọng việc giữ vững sự ổn định chính trị; thấy rõ những thành tựu và quyết tâm chính trị của Đảng trong xây dựng Đảng, làm trong sạch nội bộ, để từ đó từng cán bộ, đảng viên và mỗi người dân bình tĩnh, phân tích cặn kẽ, khách quan các sự việc, hiện tượng xảy ra trong đời sống xã hội để có cách giải quyết, xử lý phù hợp. Đảng Cộng sản Việt Nam không sợ khuyết điểm, đồng thời luôn khuyến khích mọi tầng lớp nhân dân tham gia xây dựng Đảng, xây dựng hệ thống chính trị vững mạnh, tích cực đấu tranh, ngăn chặn các biểu hiện vi phạm pháp luật, tiêu cực, lãng phí, tham nhũng. Vì vậy, trước từng vấn đề, từng sự việc cùng với việc kiên quyết, kiên trì đấu tranh theo đúng pháp luật thì mỗi người trong xã hội phải đặt mục tiêu cao nhất là sự phát triển toàn diện của đất nước, vì lợi ích của quốc gia, dân tộc.
Nhìn lại lịch sử dân tộc cho thấy, trước những khó khăn, chính nhờ có sự đồng thuận của nhân dân “triệu người như một”, dưới sự lãnh đạo của Đảng, dân tộc Việt Nam đã làm nên những kỳ tích có ý nghĩa thời đại. Truyền thống dân tộc, lòng tin của quần chúng nhân dân vào sự lãnh đạo của Đảng là sức mạnh vô địch để dân tộc Việt Nam tiến lên phía trước. Điều này càng được khẳng định thông qua đánh giá về tăng trưởng kinh tế năm 2014 của Chính phủ cũng như các tổ chức kinh tế quốc tế. Theo đánh giá của Chính phủ thì kinh tế tiếp tục tăng trưởng trong năm 2014. Tính chung 9 tháng đầu năm 2014, tăng trưởng kinh tế đạt 5,62%, cao hơn cùng kỳ 2 năm trước; ước cả năm 2014 đạt khoảng 5,8%. Đánh giá trên của Chính phủ cũng đúng như nhận định được nêu ra trước đó trong báo cáo của ADB, IMF, World Bank. Theo các báo cáo này thì chỉ tiêu tăng trưởng kinh tế của Việt Nam năm 2014 vẫn được giữ nguyên ước đạt 5,8%; trong khi đối với nhiều quốc gia trên thế giới thì chỉ tiêu tăng trưởng đều phải hạ xuống so với dự kiến ban đầu. Vậy yếu tố nào để năm 2014, kinh tế Việt Nam vượt qua khó khăn mà cả thế giới đang tìm mọi biện pháp khắc phục nhằm đạt được chỉ tiêu? Đó là kết quả của quá trình đổi mới cơ cấu kinh tế, điều hành nền kinh tế của Chính phủ. Nhưng nền tảng vững chắc nhất để Chính phủ thực hiện tốt việc đổi mới cơ cấu kinh tế, điều hành linh hoạt các chính sách tài khóa, chính sách tiền tệ... đó chính là sự ổn định chính trị. Đây là đánh giá của nhiều tổ chức chính trị, kinh tế có uy tín trên thế giới khi nghiên cứu về Việt Nam.
Ổn định chính trị, nền tảng để phát triển đất nước, chính là điều mà mỗi người trong chúng ta cần nhận thức một cách đầy đủ để có hành động đúng đắn, sáng suốt. Sự ổn định chính trị chỉ được xây dựng vững chắc trên nền tảng lòng tin của nhân dân vào sự lãnh đạo của Đảng; sự quản lý, điều hành của Nhà nước. Ổn định chính trị cũng chính là “phương thuốc” hữu hiệu nhằm tiêu diệt tận gốc những "vi-rút" xấu độc các thế lực thù địch, cơ hội chính trị gieo rắc thông qua chiêu bài “dân chủ”, "nhân quyền"... trong chiến lược “diễn biến hòa bình” mà chúng đang ráo riết thực hiện thời gian qua.

LONG VÂN

Chống "diễn biến hòa bình" để bảo vệ chủ quyền quốc gia, toàn vẹn lãnh thổ

QĐND - Nhìn lại lịch sử dân tộc ta từ giữa thế kỷ XIX đến nay thì độc lập dân tộc, chủ quyền quốc gia, thống nhất đất nước và toàn vẹn lãnh thổ không chỉ là nguyện vọng của cả dân tộc, mà còn là thành quả của các cuộc đấu tranh với không biết bao nhiêu hy sinh gian khổ của nhiều thế hệ người Việt Nam. Tuy nhiên, chỉ đến khi Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời (1930) và lãnh đạo sự nghiệp đó mới đưa đến thắng lợi trọn vẹn.
Năm 1946, trong “Lời kêu gọi Liên hợp quốc”, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã viết: Nhân dân Việt Nam “kiên quyết chiến đấu đến cùng để bảo vệ những quyền thiêng liêng nhất: Toàn vẹn lãnh thổ cho Tổ quốc và độc lập cho đất nước”(1).
Thực tế cho thấy, sở dĩ dân tộc ta giành được những thành quả lớn lao trong các cuộc kháng chiến chống thực dân, đế quốc xâm lược cũng như trong hòa bình xây dựng đất nước, một mặt vì nhân dân ta giàu lòng yêu nước, sẵn sàng hy sinh tính mạng và của cải của mình, vượt qua mọi khó khăn, gian khổ; mặt khác còn nhờ ở vai trò dẫn dắt của Đảng Cộng sản Việt Nam với phẩm chất chính trị và bản lĩnh lãnh đạo thể hiện ở đường lối, chính sách, ở chiến lược và sách lược trong suốt chiều dài lịch sử gần ¾ thế kỷ (1930-2014). Phẩm chất chính trị và bản lĩnh lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam là luôn luôn đặt lợi ích dân tộc, gắn với chế độ chính trị do nhân dân làm chủ lên trên hết.
Hệ tư tưởng của Đảng mà tư tưởng Hồ Chí Minh là một nhân tố tạo thành cũng lấy “Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh; do nhân dân làm chủ”(2) là mục tiêu. Tất nhiên, tư duy chính trị của Đảng Cộng sản Việt Nam vẫn không ngừng được vận dụng và mài sắc thông qua thực tiễn chính trị. Chẳng hạn như lập trường kiên quyết đấu tranh bảo vệ chủ quyền quốc gia, toàn vẹn lãnh thổ bằng phương pháp hòa bình theo Hiến chương Liên hợp quốc và luật pháp quốc tế trong sự kiện “nóng” vừa qua ở Biển Đông là một ví dụ.
Gần 40 năm qua, từ sau khi nước nhà được hoàn toàn giải phóng cho đến nay (1975-2014), Việt Nam luôn luôn đứng trước nhiều nguy cơ, thách thức. Hội nghị đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ khóa VII (từ 20 đến 25-1-1994) đã xác định các nguy cơ đó là: “Nguy cơ tụt hậu xa hơn về kinh tế; nguy cơ chệch hướng xã hội chủ nghĩa; nạn tham nhũng và các tệ nạn xã hội; âm mưu và hành động “diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch”. Đại hội XI năm 2011 đã đề cập tới các nguy cơ của cách mạng Việt Nam trong giai đoạn hiện nay với một cách nhìn nhận mới, gắn nguy cơ “diễn biến hòa bình” với nguy cơ “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên. Văn kiện Đại hội XI viết: “Những biểu hiện xa rời mục tiêu của chủ nghĩa xã hội, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” có diễn biến phức tạp. Các thế lực thù địch tiếp tục thực hiện âm mưu “diễn biến hòa bình”, gây bạo loạn lật đổ, sử dụng các con bài “dân chủ”, “nhân quyền”, hòng làm thay đổi chế độ chính trị ở nước ta”(3).
Theo cách hiểu thông thường, “diễn biến hòa bình” là chiến lược cơ bản của chủ nghĩa đế quốc và tay sai nhằm lật đổ chế độ chính trị đối với các nước xã hội chủ nghĩa bằng biện pháp phi quân sự. Đối với Việt Nam, âm mưu thực hiện chiến lược “diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch đã có những thay đổi lớn, không còn theo nguyên nghĩa-chỉ là những tác động về tư tưởng, lý luận như phê phán mô hình chủ nghĩa xã hội kiểu cũ, phủ nhận chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tuyên truyền các giá trị dân chủ, nhân quyền phương Tây… Ngày nay, chiến lược đó đã chuyển sang kết hợp tác động về tư tưởng, lý luận với tiến công về chính trị-công kích trực tiếp vào vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam; Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, thân thế, sự nghiệp của Chủ tịch Hồ Chí Minh; thành quả cách mạng, thể chế quốc gia… Ngày nay, chiến lược này không dừng lại ở lĩnh vực tư tưởng, chính trị, “bất bạo động” mà còn đẩy tới kích động  tâm lý dân tộc hẹp hòi, tư tưởng cực đoan không loại trừ gây rối, bạo loạn xã hội, nhất là khi các thế lực trong nước được các lực lượng cực hữu phương Tây trợ giúp. Hai sự kiện gây rối ở Tây Nguyên năm 2001 và 2004 là những ví dụ cụ thể.
Sau sự kiện “nóng” ở Biển Đông vừa qua, trên một số trang mạng người ta cho rằng, Việt Nam thiếu nhất quán trong đường lối bảo vệ chủ quyền quốc gia, toàn vẹn lãnh thổ, rằng không nên “hô hoán” chống “diễn biến hòa bình” nếu muốn tranh thủ sự ủng hộ của các quốc gia phương Tây, lực lượng duy nhất có thể giúp Việt Nam bảo vệ được sự toàn vẹn lãnh thổ, chủ quyền biển, đảo. Họ nói: “Không thể tay ga, tay thắng, vừa giương cao ngọn cờ “lòng tin chiến lược”, vừa hô hoán chống “diễn biến hòa bình”. Vậy mối quan hệ giữa phòng, chống "diễn biến hòa bình" với bảo vệ độc lập dân tộc, chủ quyền quốc gia, toàn vẹn lãnh thổ như thế nào?
Trước hết, phòng, chống “diễn biến hòa bình” nhằm bảo vệ chế độ xã hội xã hội chủ nghĩa (XHCN), bảo vệ hệ thống chính trị do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo. Không phủ nhận rằng, sự toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc trong nhiều thập kỷ qua do nhiều nguyên nhân, đã từng bị nhiều thế lực xâm lấn. Song lịch sử thế kỷ XX đã chứng minh không có bất cứ một lực lượng nào có đủ sự tin cậy về chính trị, có bản lĩnh vững vàng để lãnh đạo sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc như Đảng Cộng sản Việt Nam. Thực tế đã chứng tỏ rằng, Đảng Cộng sản Việt Nam là người tổ chức, phát huy sức mạnh đại đoàn kết dân tộc, là người đề ra đường lối đối nội, đối ngoại, tranh thủ sự ủng hộ rộng rãi của nhân dân yêu chuộng hòa bình thế giới, không phân biệt chế độ xã hội đối với sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc của nhân dân ta. Bởi vậy, bảo vệ chế độ chính trị hiện hữu, bảo vệ hệ thống chính trị xã hội cũng có nghĩa bảo vệ độc lập dân tộc, chủ quyền quốc gia và toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc.
Thứ hai, phòng, chống “diễn biến hòa bình” không làm phương hại đến các quan hệ quốc tế của Đảng và Nhà nước ta. Những ai quan niệm rằng quan hệ giữa các quốc gia ngày nay lấy hệ tư tưởng làm tiêu chí, làm điều kiện đều không còn phù hợp với thực tế. Trên thế giới ngày nay có nhiều hệ tư tưởng và chế độ xã hội khác nhau. Chẳng hạn, chế độ “Cộng hòa tổng thống”, “Cộng hòa đại nghị”, “Quân chủ nghị viện”, “Cộng hòa dân chủ nhân dân”, “Xã hội chủ nghĩa”, “Nhà nước tôn giáo” (Nhà nước Va-ti-căng)... Nhìn chung, tất cả các quốc gia với thể chế của mình (nói trên) đều có quan hệ quốc tế rộng rãi với các quốc gia khác. Kinh nghiệm lịch sử cũng như thực tế cho thấy: Sau sự kiện Liên Xô tan rã, chế độ xã hội XHCN ở Đông Âu sụp đổ, quan hệ giữa các quốc gia đều xuất phát từ lợi ích căn bản của mỗi quốc gia. Đảng Cộng sản Việt Nam đã nhiều lần khẳng định: Việt Nam mong muốn “là bạn, đối tác tin cậy và thành viên có trách nhiệm trong cộng đồng quốc tế, góp phần vào sự nghiệp hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội trên thế giới”(4). Theo tinh thần đó, Việt Nam đang chủ động và tích cực hội nhập quốc tế. Ngày nay, chính sách ngoại giao Việt Nam không chỉ hạn chế trong quan hệ kinh tế mà còn mở rộng, hội nhập quốc tế một cách toàn diện, trên tất cả các lĩnh vực, kể cả quốc phòng, an ninh với tất cả các quốc gia. Đến nay, Việt Nam đã có quan hệ ngoại giao với 180 quốc gia; trong đó có quan hệ với tất cả 5 nước thường trực Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc. Việt Nam là đối tác chiến lược với Trung Quốc, Nga, Anh, Pháp; là đối tác toàn diện với Hoa Kỳ. Ngoài các quốc gia thành viên thường trực Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc, Việt Nam còn có quan hệ đối tác chiến lược với các quốc gia khác như: Ấn Độ (2007),  Nhật Bản (2006); Hàn Quốc, Tây Ban Nha (2009), Đức (2011), I-ta-li-a, Thái Lan, In-đô-nê-xi-a, Xin-ga-po; đối tác toàn diện với Ô-xtrây-li-a (2009); Niu Di-lân (2010)...
Thứ ba, phòng, chống “diễn biến hòa bình” nhằm nâng cao khả năng bảo vệ chủ quyền quốc gia, toàn vẹn lãnh thổ. Không quốc gia nào có thể áp đặt quan hệ hợp tác cho quốc gia khác. Hợp tác quốc tế là sự lựa chọn của hai bên. Sự lựa chọn đó là sự đánh giá về vai trò, vị thế và tiềm năng của quốc gia đối tác. Các quan hệ đối tác, hợp tác quốc tế ngày nay không chỉ dựa trên Hiến chương Liên hợp quốc, luật pháp quốc tế, mà còn dựa trên tôn trọng thể chế chính trị, độc lập, chủ quyền của nhau. Sự khác biệt nào đó về chế độ chính trị, pháp luật giữa các quốc gia không phải là ranh giới không thể vượt qua trong quan hệ quốc tế ngày nay.
Cho đến nay, cộng đồng quốc tế đánh giá cao Việt Nam ở đường lối chính trị độc lập, tự chủ, yêu chuộng hòa bình, ở ý thức trách nhiệm cao với cộng đồng quốc tế và luôn ổn định về chính trị, xã hội. Sự kiện “nóng” ở Biển Đông vừa qua là một phép thử các quan hệ hợp tác của nước ta. Có thể nói các quốc gia “đối tác chiến lược”, “đối tác toàn diện” đều thể hiện cam kết bằng cách này hoặc cách khác ủng hộ Việt Nam trong việc giữ gìn chủ quyền quốc gia, toàn vẹn lãnh thổ, từ chính trị, ngoại giao đến kinh tế và quốc phòng. Chưa có một quốc gia nào đặt điều kiện về chính trị, tư tưởng với Việt Nam. Nhiều chính khách, chuyên gia cho rằng, Việt Nam hội nhập tương đối đầy đủ những tiêu chí để phát triển quan hệ hợp tác với các quốc gia khác. Bởi vậy, phòng, chống “diễn biến hòa bình” chính là để bảo vệ những giá trị đó, nhằm nâng cao khả năng bảo vệ độc lập dân tộc, chủ quyền quốc gia, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc.
TS VỌNG ĐỨC
(1) “Lời kêu gọi Liên hợp quốc”, Hồ Chí Minh toàn tập, Nxb ST, 1995, t.4, tr.469.
(2) Văn kiện Đại hội XI, Nxb CTQG, HN, 2011, tr.70.
(3) Văn kiện Đại hội XI, Nxb CTQG, HN, 2011, tr.29.

(4) Văn kiện Đại hội XI, Nxb CTQG, HN, 2011, tr.83