Thứ Hai, 31 tháng 12, 2018

Vết nhơ và định kiến!


Nếu thời Trung cổ, người ta trừng phạt kẻ phạm lỗi bằng các nhục hình, như ném đá vào người nạn nhân cho đến chết. Còn thời hiện tại, người ta cũng ném đá, nhưng là ném đá trên mạng, đủ để nạn nhân thấm nhục, và chết từ từ. Cho đến khi trả giá cho tội của mình xong rồi, nhưng nó vẫn để lại dấu vết trên… google. Người ta không còn nói miệng lưỡi thế gian nữa, mà người ta nhắc tới cơn bão của sự căm ghét trên mạng!   
Tiến sĩ Đặng Hoàng Giang, người viết cuốn “Bức xúc không làm ta vô can”, tốt nghiệp kỹ sư tin học tại Đức, tiến sĩ Kinh tế tại Áo. Hiện ông đang sinh sống và làm việc tại Việt Nam, có nhiều hoạt động nghiên cứu phát triển xã hội, khuyến khích tư duy phản biện và nỗ lực xây dựng văn hóa tranh luận.
Với góc nhìn đa dạng đặc biệt của mình, Đặng Hoàng Giang đã phơi bày những định kiến của đám đông: “Vết nhơ dẫn đến định kiến. Người có HIV được mặc định là hư hỏng, phụ nữ không có con là ích kỷ, người đồng tính là bị bệnh tâm thần. Định kiến dẫn tới kỳ thị và phân biệt đối xử. Vết nhơ là giấy phép để người ta coi người bị dán nhãn không hẳn là người”.
Sự căm ghét giống như tình yêu, là những trải nghiệm thông thường của con người. Nhưng trong những trường hợp bệnh lý, căm ghét trở nên bao trùm, nuốt chửng tất cả, trở thành một cái hố đen tiêu thụ toàn bộ tâm trí của người ghét.
vet nho va dinh kien
Hãy tránh xa các cơn bão căm ghét, vì nó không kiến tạo công lý, mà chỉ đầu độc những người tạo ra nó! (Ảnh: Barcodemagazine)
Theo tiến sĩ Nguyễn Phương Mai, “Vô tình hay cố ý, ai trong chúng ta cũng từng phán xét, hạ nhục, hoặc phi nhân hóa kẻ khác… Ai trong chúng ta cũng từng bị vướng vào vòng xoáy khủng khiếp ấy, nhất là những kẻ từng chịu đớn đau. Đặng Hoàng Giang đã rất chính xác khi gọi tên khát vọng muốn chà đạp kẻ khác đôi khi xuất phát từ sự tổn thương vì bị chối bỏ. Những nỗi đau vô thức dù ta đã quên nhưng luôn tồn tại như các cơn sóng ngầm lái con thuyền hành vi vào tâm bão, khiến ta quay cuồng mà khó thực sự hiểu ra nguyên cớ. Những trận đòn của bố mẹ hay sự xâm phạm tình dục thời ấu thơ sẽ như vết thương vô hình đi theo suốt cuộc đời và ngấm ngầm phá hoại tình yêu, công việc, hay các giao tiếp hết sức thông thường hàng ngày!”
Ấy thế nhưng, với loạt seri phân tích: “Bảy bước của sự căm ghét”, “Làm nhục mua vui và tàn nhẫn giải khuây”, “Những nghi thức hạ nhục”… Đặng Hoàng Giang như chọc vào một lò lửa của đám đông đang phẫn nộ. Đặc biệt, với tư cách khách mời trong talkshow “60 phút mở” của MC Tạ Bích Loan, những cơn bão của sự căm ghét, “gạch đá” đã trút xuống đầu anh khi có những ý kiến trái chiều về từ thiện ở Sapa.
vet nho va dinh kien
“Chúng ta cố gắng tích điểm ba lần mỗi ngày: Làm một cử chỉ tử tế; dừng lại một lời nói có thể gây tổn thương và hóa giải một cơn cáu giận”. (Ảnh: Duy Trí)
Thật trớ trêu, người viết sách phân tích về “sự căm ghét”, “làm nhục” người khác của thế giới mạng, lại cũng chịu hứng những cơn bão căm ghét của cộng đồng mạng (ít nhất là 3 cơn bão) khiến cho anh cũng khá choáng váng, “mặt tôi nóng bừng, như vừa bị ăn nhiều cái tát”. Có lẽ, đây là trải nghiệm thực tế đớn đau mà tác giả không chờ đợi. “Tôi hình dung ra họ đang thấy bản thân mạnh mẽ, họ đang là chính nghĩa, cái thiện, cái tốt đẹp, họ đang đè bẹp cái xấu xa và ngu dốt”.
Với những trải nghiệm như vậy, Đặng Hoàng Giang bằng “Dự án trắc ẩn”, nêu lên rất nhiều giải pháp, trong đó có gợi ý của Karen Amstrong: “Chúng ta cố gắng tích điểm ba lần mỗi ngày: Làm một cử chỉ tử tế; dừng lại một lời nói có thể gây tổn thương và hóa giải một cơn cáu giận”.
Giã từ văn hóa làm nhục, có điều gì đẹp hơn là việc chúng ta tìm tới những con người trắc ẩn để được tiếp năng lượng. Và rồi chính chúng ta cũng trở thành cái cây xanh tốt để người khác tới trú ẩn. Thoạt tiên chỉ là một người. Rồi hai người, ba người, và dần dần nhiều hơn nữa.
Tiến sĩ Trần Ngọc Hiếu cho rằng: “Tiểu luận của Đặng Hoàng Giang có sự thống nhất với con người xã hội của anh, một nhà hoạt động có ảnh hưởng. Viết là cách lập ngôn để Giang tạo ra sự thay đổi. Nhưng trước hết là sự thay đổi ở chính bản thân người cầm bút. Cuốn sách đã bắt đầu tự băn khoăn, thậm chí cả hoang mang của người viết về sự dễ dàng của cái ác trong thời đại số, nhưng nó lại kết lại bằng sự điềm tĩnh của tác giả, khi thấy niềm tin vào con người, cuối cùng vẫn là thứ cần phải nuôi dưỡng. Còn nhiều việc phải làm, nhưng có thể làm được!”
Dưới đây là cuộc trò chuyện nhanh của phóng viên với tiến sĩ Đặng Hoàng Giang về “Thiện, ác, và smart phone”!
- Trong sách anh có nói tới 2 cơn bão căm ghét anh. Lúc đầu, nó khiến cho mặt anh nóng bừng, rồi thấy mình như bị tát nhiều cái... Vậy trong talkshow 60’ mở về từ thiện của chị Tạ Bích Loan, nó hẳn là một cơn bão khá lớn khác? Sự đối diện của anh với cơn bão này ra sao? Anh đã có đôi chút kinh nghiệm?
- Cơn bão căm ghét trong vụ "từ thiện" rất lớn, lớn hơn những lần trước. Người ta bóp méo các phát ngôn của tôi, chế ảnh châm biếm, dựng nên những trang Facebook giả danh tôi... Có một sự căm hận rất lớn.
Nằm ở trong tâm bão căm ghét luôn luôn là một trải nghiệm rất khó chịu. Rất may mắn là tôi có được sự hỗ trợ của đồng nghiệp và bạn bè. Chúng tôi không mong muốn "đè bẹp" một đối phương nào cả, mà mong muốn tạo ra những cuộc trao đổi, tranh luận văn minh, điều rất cần thiết trong xã hội hiện nay. Tôi vừa mang trong mình những cảm xúc của một người bị đám đông truy đuổi và thoá mạ, vừa buồn bã vì những câu chuyện như thế này cho thấy nhiều người chưa chấp nhận cho người khác quyền tự do biểu đạt, chấp nhận sự đa dạng trong quan điểm. Và do đó, con đường dẫn tới văn minh trong tranh luận sẽ còn khó khăn.
- Anh có cách nhìn khá điềm tĩnh, và tự tin vào ý kiến của mình, nhưng có bao giờ, anh thấy mình có sự nhầm lẫn trong nhận định một vấn đề gì đó trong phát ngôn, hoặc khi viết và đưa nó ra công chúng hay không?
- Tôi không bao giờ khẳng định ý kiến của mình là đúng 100%. Tôi luôn sẵn sàng lắng nghe người khác, mời phản biện, và sẵn sàng điều chỉnh quan điểm của mình khi được thuyết phục hay có thông tin, chứng cứ mới. Tôi luôn ở trong trạng thái tiếp tục học hỏi.
Anh đã nghiên cứu rất kỹ, ví dụ 50 sắc thái của sự căm ghét, và anh cũng hứng đá của các antifan của Hà Hồ, Ngọc Trinh khi chỉ đưa ra phân tích về sự căm ghét hai nhân vật này, anh nghĩ sao khi mình bị liên quan và sự bị hứng ném đá của anh nói nên điều gì?
- Tôi cho rằng những người căm ghét Hồ Ngọc Hà, Ngọc Trinh... là những phụ nữ hoặc đã bị tổn thương, thất vọng sâu sắc trong quá khứ, có thể bởi bố họ hoặc chồng họ, hoặc luôn ở trong tình trạng bất an, sợ hãi rằng cái hạnh phúc hôn nhân của mình mong manh và bị đe doạ. Sự căm ghét của họ xuất phát từ nhu cầu tự vệ, nhu cầu khẳng định giá trị của bản thân. Tiếc rằng căm ghét chưa bao giờ là lời giải, nó không làm cuộc sống và hôn nhân của họ vững chãi hơn, con người họ tự tin hơn. Tôi cho rằng niềm tin rằng tấn công một ai đó ngoại tình trong xã hội thì có thể bảo vệ được hôn nhân của mình là một ảo ảnh.
Mặt khác, tất nhiên họ hoàn toàn có tự do biểu đạt để lên tiếng phản đối, tẩy chay lối sống của Hồ Ngọc Hà hay của bất cứ ai khác, nhưng nó không nên trở thành một cuộc chiến đầy bạo lực.
Anh có viết về “Vết nhơ online và quyền được Google quên”. Tôi cũng được nghe câu chuyện về một người phạm tội đã trả xong án, ông ta có gọi điện thoại xin một ông Phó Tổng biên tập xóa bài trên báo mà ông này phụ trách, nhưng ông PTBT đã từ chối bởi không muốn đó là một tiền lệ. Vậy theo anh, vấn đề này nên được giải quyết thế nào? Liệu người này sau khi đã trả giá cho hành động của mình, thì có quyền được xóa án trên Google hay không?
- Tôi nghĩ ông Phó Tổng biên tập có thể đem trường hợp này ra (sau khi ẩn tên người liên quan) để tạo ra một cuộc thảo luận và đối thoại trong công luận về vấn đề quan trọng này. Quyền được quên nên được áp dụng trên những nguyên tắc nào? Nó nên được áp dụng thế nào với người của công chúng (chính trị gia, doanh nhân lớn), với người thường dân như một bảo mẫu hay một người chạy xe ôm. Trường hợp nào thông tin nên được giữ lại cho công luận, trường hợp nào công luận không cần thiết phải "nhớ". Bao nhiêu lâu là khoảng thời gian thích hợp để quên. Sẽ không có lời giải đơn giản và dễ dàng, nhưng đã tới lúc xã hội Việt cần khởi động suy nghĩ về chuyện này.
- Thêm nữa, người ta thường nói về luật về nhân - quả, tức là sẽ không phải gặp các cơn bão của sự căm ghét, nếu như bạn không gây ra điều gì đó. Vậy theo anh, phải hiểu điều này thế nào?
- Không ai dám khẳng định mình sẽ sống cả đời mà không phạm lỗi. Thứ hai, tòa án là thể chế duy nhất được quyền đưa ra trừng phạt. Chúng ta, những cư dân mạng, không có quyền đó. Chúng ta cũng nên từ bỏ ý nghĩ rằng có thể phán xét, có thể hiểu được người khác thông qua một hành vi, một phán ngôn của họ. Nếu có luật nhân quả, chúng ta sẽ là người chịu nó đầu tiên cho sự tàn nhẫn của mình với những kẻ mà chúng ta gán cho họ cái mác "ác".
- Cuối cùng, anh có lời khuyên nào cho mọi người, khi muốn có cách hành xử thật tỉnh táo trong thời đại của smartphone với các thông tin ồ ạt hiện nay?
- Hướng tới những nội dung tốt đẹp trên mạng xã hội. Kiểm tra rất, rất kỹ các thông tin trôi nổi trên mạng. Trước khi share, like, hãy nghĩ tới con người bị liên quan, nghĩ tới bố mẹ, con cái họ. Hãy hình dung họ là bạn hay họ hàng của mình. Cuối cùng, hãy tránh xa các cơn bão căm ghét, vì nó không kiến tạo công lý, mà chỉ đầu độc những người tạo ra nó.
- Xin chân thành cảm ơn anh!
Lan Anh-Mai Long

LUẬT AN NINH MẠNG VÀ DỰ LUẬT ĐẶC KHU CÓ GÌ ĐẶC BIỆT?



Nguyễn Tuấn,
Cầu Giấy, Hà Nội
 
Mấy ngày gần đây, đài báo mạng xã hội đưa nhiều tin tức về việc một số người lấy danh nghĩa thể hiện lòng yêu nước để phản đối Luật An ninh mạng và dự Luật Đặc khu, với những hành động gây mất an ninh trật tự tại thành phố Hồ Chí Minh, Bình Thuận, Bình Dương. Thậm chí, một số người quá khích còn đập phá trụ sở cơ quan, đốt ô tô, phá hủy tài sản của tổ chức, cá nhân ở Bình Thuận; có người còn ném chất nổ phá hủy trụ sở công an quận 12 ở Gài Gòn.
Tôi xem ti vi, nghe đài, đọc trên báo chí, mạng internet và nghe truyền miệng trong dân gian, thấy có thông tin khác nhau, thậm chí trái ngược nhau xung quanh sự kiện Luật an ninh mạng đã được Quốc hội Việt Nam thông qua và dự thảo luật Đặc khu đang tiếp thu ý kiến nhân dân để trình kỳ họp quốc hội lần tới. Theo hiểu biết của tôi thì hiện nay đang có sự chưa thống nhất về tư tưởng giữa phía lãnh đạo Việt Nam và nhân dân về hai luật này. Không biết Đảng cộng sản và Nhà nước Việt Nam tuyên tuyền, giải thích chủ trương ban hành luật như thế nào, nhưng một bộ phận dân chúng thì đang phản ứng, không muốn ban hành luật. Tôi thấy dư luận xã hội nghĩ và hành động không thuận theo những điều mà mấy ông lãnh đạo Đảng và nhà nước Việt Nam phát ngôn, lại cộng thêm hành động của một số người lợi dụng sự việc để làm rối thêm tình hình. Từ đó sinh ra một số hành động bột phát, làm mất trật tự an toàn xã hội, ảnh hưởng đến cuộc sống bính yên của nhân dân.
Là một người dân Việt Nam, không phải là đảng viên cộng sản, không dính líu đến chức tước gì của chính quyền, tôi tuy không có bằng cấp cao nhưng tự nhận mình là người có hiểu biết kha khá nhờ chịu khó học hỏi, tích lũy kiến thức. Đôi khi tôi từng hơi khó chịu với một số hành động và lời nói của những ông cán bộ biến chất, suy thoái về đạo đức, lối sống, không phải các ông nói gì là tôi đều tin hết. Nhưng ở việc ban hành hai luật này thì tôi lại có nhận thức khác. Suy nghĩ, đắn đo mãi, tôi quyết định viết bài bày tỏ chính kiến của mình về một hiện thực mà chúng ta đang mất quá nhiều thời gian và công sức không cần thiết.
Thứ nhất, xin lạm bàn đôi điều về lợi và hại khi ban hành Luật An ninh mạng và Luật Đặc khu.
Trên thế giới đã có tiền lệ về đặc khu kinh tế, hầu như lúc đầu mới đưa ra chủ trương thì nhân dân cũng rất lo ngại, thậm chí phản đối. Nhưng sau đó, nhận thức lại, thấy rõ tác dụng của nó, nhất là về phương diện mở cửa đối ngoại, thu hút vốn và kỹ thuật đầu tư của nước ngoài, thì họ lại đồng lòng hưởng ứng. Ví như ở Trung Quốc khi đưa ra chủ trương về đặc khu kinh tế Thẩm Quyến, Chu Hải, Sán Đầu của tỉnh Quảng Đông, đặc khu kinh tế Hạ Môn của tỉnh Phúc Kiến cũng bị nhân dân lên tiếng dữ dội, nhưng này thì lợi ích đã rõ.  
Bản chất đổi mới đất nước Việt Nam cần bám vào hai trụ cột: cải cách đối nội (chúng ta đã và đang tích cực triển khai) và mở cửa đối ngoại (thành lập đặc khu là một cách làm). Còn Luật an ninh mạng, rõ ràng ai hay vào mạng, sử dụng facebook, zalo, viber.. có lúc quá mệt mỏi, khó chịu vì vô tình phải đọc những cái tin, dòng viết, hình ảnh mà theo tôi là nó chỉ làm hại cho người tiếp cận, gây hoang mang tâm lý và thậm chí là phản văn hóa, vô giáo dục. Ví dụ, họ lấy thân con vật, gán với đầu người (có cả người lãnh đạo Việt Nam)… Khi có Luật an ninh mạng, chắc chắn chúng ta không mất thời gian, không tức tối khi phải gặp tin tức, hình ảnh kiểu như vậy; bảo vệ được sự tấn công, phá hoại trên mạng…
Hiện giờ chúng ta khó nói về hạn chế của hai Luật đó, nhưng có một số người cho rằng, Luật ra đời sẽ hạn chế tự do ngôn luận, làm giảm dân chủ. Tôi lại nghĩ khác, nếu bàn tán, phát ngôn, trình bày suy nghĩ cá nhân, đưa lên diễn đàn mạng xã hội… mà những lời nói, câu viết ấy trong khuôn khổ, không vi phạm pháp luật, không đi ngược với đường lối của đảng cộng sản thì không sao cả. Một số người lo lắng, thậm chí quy kết đặc khu là bán nước cho Tàu, nhưng tôi thấy trong dự thảo Luật đặc khu, không có chữ nào viết về Trung Quốc cả, càng không nói gì đến việc cho Trung Quốc thuê đất 99 năm. Dự thảo Luật có 85 điều thì 25 điều giải quyết thể chế và môi trường đầu tư, an ninh quốc phòng.
Thứ hai, xin bàn về việc vì sao phải ban hành Luật an ninh mạng và chưa thông qua Luật đặc khu.
Tôi thấy một số người nói Quốc hội Việt Nam chưa thông qua Luật đặc khu là vì sợ dân kiện và bị người ta phản đối nhiều quá; một số bài viết còn kêu gọi biểu tình phản đối Luật an ninh mạng và dự luật Đặc khu, cho đó là bán nước và hạn chế quyền tự do dân chủ của nhân dân. Tôi nghĩ rằng, chúng ta nên nhìn nhận vấn đề khách quan hơn. Để thông qua Luật an ninh mạng, phải trải qua nhiều bàn bạc, tiếp thu ý kiến của nhân dân và các chuyên gia. Qua theo dõi tin tức, tôi thấy từ cuộc họp lần trước đã bàn nhiều về luật nay và đến kỳ họp thứ 5 vừa qua, sau khi tiếp thu, lắng nghe ý kiến của nhân dân thì Quốc hội mới thông qua, chứ không phải đưa ra là thông qua luôn. Còn Luật đặc khu, cũng bàn nhiều từ kỳ họp thứ 4, đến nay nhận thấy cần thiết phải lắng nghe thêm nhiều góp ý tích cực, thiết thực của dân, nên Quốc hội phải lùi việc thông qua Luật Đặc khu sang kỳ họp lần thứ 6 vào cuối năm 2018; đồng thời, nhận thấy ý kiến của dân là xác đáng thì mới điều chỉnh không còn thời hạn thuê đất đến 99 năm như dự thảo trước nữa. Việc làm đó của Quốc hội chính là biểu hiện sự cầu thị, dân chủ, lắng nghe tâm tư, nguyện vọng của nhân dân (tuy không phải hoàn toàn nghe dân); sẵn sàng tiếp thu ý kiến đúng của nhân dân, điều chỉnh, sửa chữa những gì mà chính phủ dự thảo chưa đúng, chưa phù hợp. Vậy, ta nên hoan nghênh nhà nước mới đúng, chứ sao lại đẩy sang ý không tốt.
Thứ ba, xin bàn về hành động phản ứng của dân tại một số địa phương liên quan đến hai luật nêu trên.
Tôi đọc lại tài liệu thì thấy Hiến pháp năm 1946 quy định công dân Việt Nam có quyền tự do tổ chức và hội họp; đến Hiến pháp 1959, 1980 và 1992 và 2013 đều quy định công dân Việt Nam có quyền biểu tình, nhưng chưa có Luật biểu tình. Tuy nhiên, tôi thấy chúng ta đang lận lộn các khái niệm, chưa phân biệt được 4 cấp độ theo mức độ nguy hiểm là: tụ tập, gây rối; biểu tình; bạo lạn; lật đổ. Qua theo dõi thông tin, tôi thấy từ ngày 4/6/2018, có một số biểu hiện tụ tập, xuống đường biểu tình nhằm phản đối dự thảo Luật Đặc khu và Luật An ninh mạng. Từ ngày 10/6 đến rạng sáng 11/6 xảy ra tình trạng tụ tập đông người biểu tình, đập phá tài sản, gây mất trật tự công cộng ở Hà Nội, Sài gòn, Bình Dương, Khánh Hòa, Đồng Nai, Bình Thuận. Theo tôi, nên chia ra mấy trường hợp như:
1) Những hành động biểu tình, tụ tập của người dân phản đối ban hành hai luật nêu trên có thể là vì nhiệt tình yêu nước nhưng còn non hiểu biết. Họ sợ mất nước, sợ phải lệ thuộc vào Trung Quốc hay lệ thuộc vào nước ngoài nào đó khi ban hành luật đặc khu. Họ chưa hiểu về an ninh mạng, nên nghe ai đó nói rằng luật này ban hành sẽ ngăn cấm người dân phát ngôn, bày tỏ quan điểm, ngăn chặn tố cáo hành vi tiêu cực trong xã hội. Trường hợp này, có thể vì họ chưa được tuyên truyền, giải thích nên chưa hiểu biết mà sinh ra hành động nông nổi.
2) Trường hợp chủ mưu gây loạn, cố tình đi theo kẻ xấu, lợi dụng tình hình rắc rối, mượn gió bẻ măng để đp phá tài sản, quấy rối, chửi bới, nói xấu cán bộ, làm mất trật tự an ninh, ảnh hưởng đến cuộc sống bình yên của nhân dân, ví như hành động ném tảng đá to vào công an, ném thuốc nổ vào trụ sở, đưa ra khẩu hiệu phản động, kêu gọi nhân dân làm loạn… thì phải xử lý nghiêm. Những hành động như vậy là không đúng với tính chất của biểu tình như trong Hiếp pháp quy định. Trường hợp này phải xử lý thật nghiêm, tìm ra cho được ai là kẻ chủ mưu gây rối, phá hoại cuộc sống của nhân dân.
3) Trường hợp  một số người dân vì kém hiểu biết, thiếu thông tin, dẫn đến nghe lời một số kẻ xấu, đi hành động theo hiệu ứng đám đông, quá khích, thì các nhà chức trách cần có giải thích, tuyên truyền cho người ta hiểu. Theo tôi được biết, thì chưa có tài liệu nào tuyên truyền về hai luật đó cho dân hiểu, dân không biết lợi hại của luật và vì sao phải ban hành luật… nên dân phản ứng cũng là điều dễ hiểu thôi. Phải có chính sách giải thích cho dân hiểu trước khi ban hành luật, chứ không phải ban hành rồi, mấy ông lãnh đạo mới phát biểu, vội vàng quy chụp hành động của nhân dân là sai pháp luật. Cần phải nghĩ đến trách nhiệm là lãnh đạo không làm cho dân hiểu dẫn đến dân hành động thiếu hiểu biết mà phản đối lại chủ trương của lãnh đạo chứ.
Thứ tư, xin bàn về lòng yêu nước của nhân dân
Tôi nói thật nhé, đã là người Việt Nam thì ai mà chả yêu nước, thương nòi; chỉ là cách biểu hiện như thế nào thôi và không loại trừ yêu nước giả hiệu, tức là nhân danh lòng yêu nước để phá nước. Nên cần phân biệt là yêu nước có hiểu biết, đúng nguyện vọng của số đông, phục vụ lợi ích chung của dân tộc và yêu nước kém hiểu biết hoặc yêu nước theo kiểu nghe vào lời xúi dục của kẻ phản quốc mà mình không nhận ra. Yêu nước kiểu thứ hai này thì coi như hại nước, phản nước.
Tôi nghĩ, lòng yêu nước chân chính không đồng nghĩa với hành động quá khích, không bao giờ song hành cùng chủ nghĩa cực đoan. Lòng yêu nước được thể hiện một cách đúng đắn, tỉnh táo và sáng suốt mới để củng cố, tăng cường  sức mạnh đoàn kết dân tộc. Người dân Việt Nam với tình cảm yêu nước đừng để lòng yêu nước đó bị kẻ xấu lợi dụng, biến thành hành động vi phạm pháp luật. Thực tế, trong quá trình xây dựng Luật an ninh mạng và Luật đặc khu, Quốc hội có tiếp thu, lắng nghe ý kiến của các tầng lớp nhân dân. Vì cầu thị lắng nghe ý kiến của nhân dân, nên mới lùi thời gian trình thông qua luật Đặc khu vào kỳ họp sau. Tuy nhiên, người dân ở nhiều địa phương do thiếu thông tin, hoặc là do hành động khi chưa đủ hiểu biết, hoặc là bị kẻ xấu xúi dục, kích động mà đã tham gia vào những cuộc gây rối như vừa qua, làm mất an ninh trật tự xã hội, phá hoại tài sản nhà nước, làm ảnh hưởng đến hình ảnh quốc gia, tốn công sức của lực lượng bảo vệ an toàn xã hội.
Người dân quan tâm, lo lắng cho vận mệnh đất nước là điều cần thiết và đáng được trân trọng. Nhưng nếu thiếu hiểu biết thì chính sự quan tâm ấy lại cản trở phát triển đất nước. Tôi nghĩ, lãnh đạo Việt Nam cũng cần rút kinh nghiệm qua sự việc vừa rồi, cần tổ chức đối thoại, trao đổi thông tin, lắng nghe tâm tư nguyện vọng của nhân dân; phải tuyên truyền, giải thích cho người dân hiểu đúng sự cần thiết phải ban hành Luật và tác hại từ việc nhân dân bị lôi kéo kích động ảnh hưởng trực tiếp đến chính đời sống sinh hoạt và sản xuất của dân. Những lần sau, từ khi có dự thảo Luật cần phải tuyên truyền trước cho dân hiểu, không nên chờ đến khi đã ban hành luật, bị dân không hiểu mà phản ứng và bị kẻ xấu lợi dụng làm loạn, để lại hậu quả đáng tiếc thì mới lo giải thích.

Chủ Nhật, 30 tháng 12, 2018

NHỮNG TIẾNG NÓI LẠC ĐIỆU



Như đã thành thói quen, cứ vào dịp đất nước ta kỷ niệm Cách mạng Tháng Tám và Quốc khánh 2-9 là trên một số trang mạng và cơ quan truyền thông ở nước ngoài, một số người Việt lưu vong có thâm thù với chế độ XHCN lại tung ra những thông tin xuyên tạc sự thật, bóp méo lịch sử, bôi nhọ thành quả cách mạng của nhân dân Việt Nam. Với dụng ý xuyên tạc sự thật, những ý kiến cá nhân mang tính tư biện, suy diễn một cách chủ quan, phiến diện, họ hồ đồ khi cho rằng: Cách mạng Tháng Tám năm 1945 ở Việt Nam đã “không đem lại dân chủ, tự do thực sự cho người dân,...”. Không hiểu họ lấy tư cách gì mà phán xét như vậy?
Thật là nực cười! Vì họ đã cố tình bóp méo lịch sử, ngoảnh mặt, quay lưng lại với đất nước, xúc phạm lòng tự tôn dân tộc. Họ cố tình quên một sự thật hiển nhiên: Cách mạng Tháng Tám năm 1945 là bước ngoặt vĩ đại trong lịch sử dân tộc Việt Nam, đập tan ách thống trị của thực dân và phong kiến, giành chính quyền về tay nhân dân. Sau đó, bằng cuộc Tổng tuyển cử phổ thông đầu phiếu ngày 06-01-1946, nhân dân ta đã lập nên Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hòa (nay là Cộng hòa XHCN Việt Nam) - một nhà nước với thể chế chính trị dân chủ đầu tiên ở Đông Nam Á, mở ra kỷ nguyên mới trong tiến trình lịch sử của dân tộc Việt Nam - kỷ nguyên độc lập, tự do và CNXH. Cách mạng vừa thành công, thể chế dân chủ cộng hòa vừa mới ra đời đã phải đương đầu với những khó khăn từ mọi phía, cùng một lúc phải đối phó với nhiều kẻ thù; đặc biệt là quân Pháp trở lại xâm lược Việt Nam. Trong khi đó, nền kinh tế Việt Nam kiệt quệ, tiêu điều bởi hậu quả nặng nề từ chính sách cai trị hà khắc của chế độ thực dân, phong kiến, v.v. Có thể nói, đây là thời kỳ vận mệnh dân tộc Việt Nam ở thế “ngàn cân treo sợi tóc”, v.v. Thế nhưng, với sức mạnh và ưu thế của chế độ dân chủ mới, khối đại đoàn kết toàn dân dưới sự lãnh đạo của Đảng, sau chín năm trường kỳ kháng chiến kiên cường và anh dũng, chúng ta đã đánh thắng kẻ thù xâm lược mạnh hơn mình gấp nhiều lần về tiềm lực kinh tế và quân sự, mà đỉnh cao là Chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ năm 1954. Chiến thắng đó đã khẳng định bản lĩnh, trí tuệ và sức mạnh Việt Nam.
Sau khi Hiệp định Giơ-ne-vơ được ký kết, cuộc chiến tranh xâm lược của thực dân Pháp đối với Việt Nam kết thúc. Theo Hiệp định Giơ-ne-vơ, sau 2 năm Việt Nam sẽ tổ chức Tổng tuyển cử thống nhất đất nước. Thế nhưng, với ý đồ xâm lược Việt Nam từ lâu, đế quốc Mỹ đã lợi dụng cơ hội thực dân Pháp rút quân khỏi nước ta, nhảy vào dựng lên chính quyền tay sai Ngô Đình Diệm, viện trợ kinh tế, quân sự, biến miền Nam Việt Nam thành thuộc địa kiểu mới, hòng chia cắt lâu dài đất nước ta. Một lần nữa, cả dân tộc ta bước vào cuộc kháng chiến chống quân xâm lược mới. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, quân và dân ta đã đoàn kết triệu người như một, lần lượt đánh bại các chiến lược chiến tranh của đế quốc Mỹ và tay sai, làm nên Đại thắng mùa Xuân năm 1975. Với chiến thắng đó, nhân dân Việt Nam vĩnh viễn thoát khỏi ách nô dịch của chủ nghĩa đế quốc, thoát khỏi họa đất nước bị chia cắt, giải phóng hoàn toàn miền Nam, hoàn thành cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân trên cả nước; bảo vệ và phát huy những thành quả của Cách mạng Tháng Tám năm 1945 và những thành tựu bước đầu của cách mạng XHCN ở miền Bắc, đưa cả nước bước vào kỷ nguyên mới: kỷ nguyên độc lập, tự do, thống nhất và đi lên CNXH.
Vào cuối thập kỷ 80 của thế kỷ XX, dân tộc ta tiếp tục vượt qua ảnh hưởng của “cơn lốc lớn” từng làm sụp đổ chế độ XHCN ở Liên Xô và các nước XHCN ở Đông Âu, giữ vững chế độ XHCN ở Việt Nam, phát triển kinh tế thị trường theo định hướng XHCN, phát huy dân chủ XHCN, xây dựng nhà nước pháp quyền của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, công cuộc đổi mới của Nước ta trong hơn 30 năm qua đã đạt được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử, tạo được thế và lực mới để xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam XHCN. Những thắng lợi đó đã tạo nên sự tiến bộ rõ nét của con người và xã hội Việt Nam, đưa nước ta từ một xứ thuộc địa nửa phong kiến trở thành một quốc gia độc lập, tự do, ổn định và phát triển theo con đường XHCN; nhân dân ta từ thân phận nô lệ trở thành người làm chủ đất nước, làm chủ xã hội và làm chủ bản thân, chất lượng cuộc sống ngày càng được nâng cao. Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH (bổ sung, phát triển năm 2011) của Đảng Cộng sản Việt Nam tiếp tục khẳng định: “Xã hội XHCN mà nhân dân ta xây dựng là một xã hội: Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh; do nhân dân làm chủ; có nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và quan hệ sản xuất tiến bộ phù hợp; có nền văn hoá tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; con người có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện; các dân tộc trong cộng đồng Việt Nam bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng và giúp nhau cùng phát triển; có Nhà nước pháp quyền XHCN của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân do Đảng Cộng sản lãnh đạo; có quan hệ hữu nghị và hợp tác với các nước trên thế giới”. Đồng thời, nhấn mạnh: con người là trung tâm của chiến lược phát triển, đồng thời là chủ thể phát triển. Tôn trọng và bảo vệ quyền con người, gắn quyền con người với quyền và lợi ích của dân tộc, đất nước và quyền làm chủ của nhân dân; dân chủ XHCN là bản chất của chế độ ta, vừa là mục tiêu, vừa là động lực của sự phát triển đất nước. Đại hội XII của Đảng tiếp tục khẳng định những cam kết quốc tế của Nhà nước ta với cộng đồng quốc tế về quyền con người: “Coi trọng chăm lo hạnh phúc và sự phát triển toàn diện của con người, bảo vệ và bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp, chính đáng của con người, tôn trọng và thực hiện các điều ước quốc tế về quyền con người mà nước ta ký kết”[1]. Xây dựng và từng bước hoàn thiện nền dân chủ XHCN, bảo đảm dân chủ được thực hiện trong thực tế cuộc sống ở mỗi cấp, trên tất cả các lĩnh vực. Dân chủ gắn liền với kỷ luật, kỷ cương và phải được thể chế hóa bằng pháp luật, được pháp luật bảo đảm, v.v. Đảng, Nhà nước và nhân dân ta đã có những cố gắng rất lớn trong thực hiện Mục tiêu Phát triển Thiên niên kỷ, được cộng đồng quốc tế đánh giá cao. Việt Nam đã hoàn thành sớm một số mục tiêu, như: xóa bỏ tình trạng nghèo cùng cực; phổ cập giáo dục tiểu học; cơ bản hoàn thành mục tiêu về bình đẳng giới và nâng cao vị thế của phụ nữ; các quyền con người trên tất cả các nhóm quyền, từ quyền dân sự, chính trị, đến quyền kinh tế, xã hội và văn hóa ngày càng được nâng cao. Tình hình chính trị xã hội ổn định, quốc phòng, an ninh được tăng cường, môi trường hòa bình được giữ vững, bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc. Vai trò, vị thế và uy tín của Việt Nam trong khu vực và trên thế giới tiếp tục được nâng cao.
Dù còn không ít khó khăn và hạn chế, song những thành tựu của Việt Nam về phát triển con người, thực thi dân chủ đã và đang được thực tiễn chứng minh và khẳng định, không thể phủ nhận. Bà Pratibha Mehta, Điều phối viên thường trú của Liên hợp quốc, đánh giá: “Việt Nam là một trong những nước rất năng động và đạt được tiến bộ phát triển con người rất nhanh”, v.v. Có thể nói, ngoài mục đích trực tiếp là giành độc lập, tự do cho dân tộc, Cách mạng Tháng Tám năm 1945 còn mở đường để Việt Nam đi lên CNXH từng bước vững chắc.
Cách mạng Tháng Tám năm 1945 - một sự kiện lịch sử hào hùng, thiêng liêng của dân tộc và có ý nghĩa thời đại sâu sắc. Những nhận định hồ đồ của một số người về vấn đề này cho thấy, họ không hơn những “kẻ qua đường” chỉ “cưỡi ngựa xem hoa” đứng ngoài những sự kiện lịch sử trọng đại. Người ta có thể đặt câu hỏi: những nhận định đó là cảm tính, ngộ nhận, hay là sự cố tình “tráo trở”, rắp tâm lợi dụng những khó khăn, hạn chế trong quá trình đi lên của đất nước để phủ nhận sạch trơn những thành quả mà cách mạng đã mang lại cho đất nước và dân tộc?
Sự thật vẫn là sự thật, mà đã là sự thật lịch sử thì không thể thay đổi. Vì động cơ chính trị thấp hèn mà họ đang trở thành kẻ vô lương tâm, “vong ân bội nghĩa” khi quay lưng lại lịch sử hào hùng của dân tộc mình, đất nước mình. Cho dù họ có ra sức xuyên tạc, vu cáo, bôi đen với mọi hình thức thì cũng không thể bác bỏ được những thành thành tựu to lớn, vững chắc trên mọi lĩnh vực của Đảng và Nhà nước ta, nhất là trong thời kỳ đổi mới, hội nhập quốc tế (từ năm 1986 đến nay).
Những tiếng nói lạc điệu trên, có thể ít nhiều tác động đến số ít người nhẹ dạ, cả tin. Song sự “trở cờ”, “quay lưng” của một số nhân vật càng cho chúng ta cảm nhận sâu sắc thêm về cuộc đấu tranh chống chiến lược “Diễn biến hòa bình”, âm mưu bạo loạn lật đổ của các thế lực thù địch; đặc biệt, là cuộc đấu tranh phòng, chống “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ không chỉ mang tính cấp thiết, mà còn rất gay go, quyết liệt và lâu dài.





[1] - ĐCSVN - Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Nxb CTQG, H. 2016, tr.167.

CẦN NHẬN RÕ MỐI QUAN HỆ GIỮA LỊCH SỬ VÀ CHÍNH TRỊ



       PGS,TS Đàm Đức Vượng
Gần đây và hiện nay trên các trang mạng xuất hiện nhiều bài viết và tiếng nói về lịch sử Việt Nam xoay quanh vấn đề dùng thuật ngữ “chính thể Việt Nam cộng hòa” thay cho tên gọi “ngụy quân, ngụy quyền”. Tôi phải nói ngay rằng, “Việt Nam cộng hòa” là một dạng chính quyền làm tay sai cho ngoại xâm, cho nên nó không phải là một chính thể, mà là ngụy thể. Cả dân tộc tiến hành cuộc kháng chiến 30 năm chống xâm lược để giành độc lập tự do, lại xuất hiện một thứ quân đội phản trắc, chống lại sự nghiệp giải phóng dân tộc do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo. Đó chẳng phải là ngụy thể hay sao?
Tôi chưa được đọc bộ Lịch sử Việt Nam 15 tập và cũng không tham gia viết bộ Lịch sử Việt Nam 30 tập, vì không được mời, nhưng tôi khuyên những người viết sử phải hết sức trung thực, cẩn trọng khi cầm bút viết về lịch sử Việt Nam, trong đó có lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam. Tôi đề nghị tái bản lại bộ Lịch sử Việt Nam 2 tập, vì đọc bộ lịch sử này, các tác giả viết khá trung thực, đứng đắn và nghiêm túc, phản ánh tương đối đúng lịch sử Việt Nam cổ đại, trung đại, cận đại, hiện đại.
Giữa lịch sử và chính trị (có thể nói cách khác là giữa lịch sử và lô gích) là những phạm trù triết học nói lên những đặc điểm quan trọng của quá trình phát triển, cũng như mối tương quan giữa sự phát triển lôgích của tư tưởng là lịch sử của sự kiện, lịch sử của bản thân quá trình phát sinh, phát triển của chúng. Lịch sử thể hiện quá trình hiện thực của sự xuất hiện và hình thành một sự vật nào đó; trong khi đó, chính trị (lôgich) thể hiện những mối tương quan, những quy luật liên hệ và tác động lẫn nhau giữa các mặt của sự vật đó, đang tồn tại trong sự phát triển của nó. Lịch sử quan hệ với chính trị như là quá trình phát triển nhân quả, trong đó, những mối liên hệ đã được hình thành một cách tuần tự trong tiến trình của lịch sử. Lịch sử và chính trị nằm trong sự thống nhất biện chứng. Tính thống nhất giữa lịch sử và chính trị thể hiện ở chỗ trong lịch sử mang yếu tố chính trị và trong chính trị có yếu tố lịch sử. Tính thống nhất của lịch sử và chính trị được thể hiện ở mối tương quan và sự lệ thuộc lẫn nhau của các sự vật và hiện tượng.
Lịch sử là khách quan, thông qua ngòi bút chủ quan của người viết, thành sử. Ở đây, có vấn đề phải xử lý tốt giữa lịch sử và chính trị. Tôi không tán thành quan điểm cho rằng, lịch sử là lịch sử, còn chính trị là chính trị, phải bóc tách nó ra. Nếu lịch sử là lịch sử, thì sẽ dẫn đến lịch sử “chay”, chủ quan của người viết, và như vậy sẽ không phản ánh được sự đúng đắn và mối quan hệ giữa lịch sử và chính trị. Quan hệ giữa lịch sử và chính trị là yếu tố cần thiết trong mối quan hệ qua lại giữa tất cả các sự kiện lịch sử. Quan hệ giữa các sự kiện cũng khách quan như bản thân các sự kiện lịch sử. Các sự kiện lịch sử không tồn tại ở ngoài quan hệ; quan hệ bao giờ cũng là quan hệ của các sự vật. Sự tồn tại của bất kỳ sự kiện lịch sử nào, những đặc điểm và đặc tính riêng của nó, sự phát triển của nó tùy thuộc vào mối quan hệ của nó đối với các sự kiện khác của thế giới khách quan lịch sử. Bản thân những đặc tính tất yếu vốn có của một quá trình hay một sự kiện lịch sử nào đó, chỉ thể hiện ra trong mối quan hệ của chúng với những sự kiện lịch sử. Sự phát triển của hiện tượng lịch sử dẫn tới sự thay đổi mối quan hệ của nó với những hiện tượng khác. Việc thay đổi toàn bộ những mối quan hệ, mà trong đó, sự kiện đang tồn tại có thể dẫn đến chỗ làm thay đổi các sự kiện khác. Mối quan hệ giữa lịch sử và chính trị là mối quan hệ chuyển hóa lẫn nhau. Chính trị tác động vào lịch sử sẽ làm cho lịch sử đi đúng hướng và cũng là phương pháp để những người viết sử uốn thẳng ngòi bút của mình. Mối quan hệ giữa lịch sử và chính trị là mối quan hệ có tính chất đặc biệt. Người viết sử soi thấy bản thân mình khi được chính trị tác động vào. Chính điều đó, một mặt, lịch sử và chính trị sẽ giải thích đúng bản chất của sự kiện và hiện tượng lịch sử.
Người viết sử phải có quan điểm chính trị rõ ràng và vững vàng. Quan điểm về lịch sử là nguyên tắc của sự vật và hiện tượng trong sự phát triển, sự hình thành của chúng, trong mối liên hệ của chúng với những điều kiện lịch sử cụ thể quy định chúng. Quan điểm về lịch sử là cách xem xét hiện tượng như là sản phẩm của sự phát triển lịch sử nhất định. Quan điểm về lịch sử cũng là một phương pháp nghiên cứu lý luận nhất định, là sự xác định không phải bất ký sự biến đổi nào, mà nó xác định sự biến đổi, trong đó, thể hiện sự hình thành những đặc tính và những mối liên hệ đặc thù của các sự vật quy định về chất, tính đặc thù về chất của chúng. Quan điểm lịch sử đòi hỏi phải thừa nhận tính chất kế thừa và không thể đảo ngược của những gì đã diễn ra ngay ở bản thân sự kiện lịch sử. Quan điểm về lịch sử đã trở thanh một trong những nguyên tắc quan trọng nhất của khoa học, gọi là khoa học lịch sử, cho phép khoa học vẽ nên bức tranh khoa học xã hội sinh động, cũng có thể là cả bức tranh tự nhiên. Chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử là phương pháp tốt nhất để những người cầm bút viết sử thêm vững tay hơn. Một trong những đặc điểm của triết học, xã hội học, lô gích học tư sản hiện đại là phủ nhận nguyên tắc về quan điểm lịch sử, chống lại quan điểm lịch sử hoặc giải thích nó một cách méo mó theo tinh thần thực chứng chủ nghĩa, kinh nghiệm chủ nghĩa. Có một số người cho rằng, khi viết sử không cần xét đến quan điểm lịch sử, mà chỉ cần “chụp ảnh” lại lịch sử là đủ. Nếu hiểu như thế, khi viết sử sẽ dẫn đến tình trạng vơ quàng, vơ xiên và biến lịch sử thành một mớ tạp nham, thiếu sự chọn lọc cần thiết. Chính trị là phản ánh đấu tranh giai cấp, là biểu hiện tập trung của kinh tế. Những tổ chức chính trị, những tư tưởng sinh ra trên cơ sở kinh tế, lại ảnh hưởng trở lại đến sự phát triển kinh tế. Những thành tựu mà nhân dân ta đã giành được lá kết quả của đường lối chính trị của Đảng Cộng sản Việt Nam. Những quan hệ giữa các giai cấp và các dân tộc là thuộc phạm vi chính trị đối nội; những quan hệ giữa các nước và các dân tộc với nhau trên vũ đài quốc tế là thuộc phạm vi chính trị đối ngoại. Chính trị đối ngoại là sự kế tục của chính trị đối nội. Chính trị của Đảng Cộng sản Việt Nam không phải dựa trên những ý muốn chủ quan, mà căn cứ trên sự tính toán chính xác, khoa học, những nhu cầu của cuộc sống trong xã hội. Nó dựa trên cơ sở chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, trên sự hiểu biết và sử dụng chính xác những quy luật phát triển xã hội, vì lợi ích của xã hội. Để thực hiện đường lối chính trị đúng đắn, cần phải có một tổ chức vững mạnh, cần phải có những người hiểu biết chính sách của Đảng và Nhà nước, biết thực hiện chính sách đó, bảo vệ nó đến cùng. Vì vậy, Đảng coi trọng công tác giao dục chính trị cho cán bộ, đảng viên và nhân dân, cùng với công tác đào tạo cán bộ.     
Chính trị là mục đích và nhiệm vụ mà các giai cấp trong xã hội theo đuổi trong cuộc đấu tranh cho quyền lợi của giai cấp mình, cùng những phương pháp, phương tiện để giữ gìn và bảo vệ những quyền lợi đó. Chính trị, theo quan điểm của V.I.Lênin là tham gia công việc của nhà nước, là lãnh đạo nhà nước, xác định những nhiệm vụ và nội dung hoạt động của nhà nước. Trong guồng máy nhà nước có hoạt động của lịch sử.      
Nhiệm vụ của nghiên cứu lịch sử là phát hiện những điều kiện và những tiền đề phát triển cụ thể của những hiện tượng này hay hiện tượng khác; phát hiện tính chất tuần tự lịch sử của những bước quá độ của chúng từ những giai đoạn tái tạo lịch sử này sang những giai đoạn tất yếu lịch sử khác.
Nhiệm vụ của nghiên cứu chính trị được xem như một chiếc chìa khóa để phát hiện lịch sử hiện thực. Như vậy, chính trị bao hàm lịch sử và lịch sử mang yếu tố chính trị. Tuy nhiên, cả hai phương pháp nghiên cứu lịch sử và chính trị đều có tính chất ước định, linh hoạt, bởi vì, chính trị, xét cho cùng, cũng là lịch sử, chỉ có điều là chính trị không còn cái hình thức lịch sử cụ thể của nó và được trình bày dưới hình thức lý luận, khái quát; ngược lại, lịch sử cũng là chính trị, chỉ có điều là mang tính cụ thể của sự phát triển lịch sử. Phép biện chứng của lịch sử và chính trị có ý nghĩa to lớn đối với lôgích biện chứng, là môn lôgích phát hiện những quy luật chung của nhận thức các quá trình phát triển khách quan của lịch sử.


BẢO VỆ CHỦ NGHĨA MÁC – LÊNIN, TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH LÀ BẢO VỆ NỀN TẢNG TƯ TƯỞNG CỦA ĐẢNG


PGS,TS Đàm Đức Vượng
Trên các trang mạng thời gian gần đây xuất hiện nhiều bài viết đả kích vào Trung ương Đảng, Nhà nước và chế độ xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Phải nói rằng, trong những năm đổi mới, đất nước đã có sự thay đổi về chất, kinh tế phát triển, xã hội về cơ bản là ổn định, đời sống nhân dân từng bước được nâng lên, tuy còn nhiều khó khăn, còn nhiều việc phải làm. Những người dân thiện chí đều thấy rõ điều đó, cho nên đã cùng với Đảng, Nhà nước ra sức phấn đấu để xây dựng một nước Việt Nam giàu mạnh, nhân dân có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc.
Bên cạnh đó, có một số người lại tỏ ra hằn học, thể hiện những quan điểm sai trái với âm mưu lật đổ chế độ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam, đả kích vào chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh. Nhân sự kiện Chu Hảo, họ rêu rao rằng, những người cộng sản “tự khẳng định chủ nghĩa Mác – Lênin là đúng đắn, là khoa học trong khi cả nhân loại đã xếp xó, bài trừ gần ba chục năm trước” (Xem bài của Nhân Trần, trên mạng). “Chủ nghĩa Mác – Lê nin mà Đảng Cộng sản Việt Nam lấy làm nền tảng tư tưởng chỉ là một học thuyết phản khoa học, phi thực tế, cổ xúy bạo lực “đấu tranh giai cấp”, hiếu chiến, tạo bất công, gieo rắc đói nghèo, lạc hậu, độc đoán thủ tiêu mọi quyền tự do chính đáng của nhân dân” (Xem bài của Nguyễn Thị Kim Chi, trên mạng). Trong bài: “Về hiện tượng Chu Hảo – một nguy cơ lớn xuất phát từ những sự tính toán sai lầm thiển cận” của Phạm Hưng Quốc (trên mạng) có đoạn viết: “Nếu ông (nói về một đồng chí lãnh đạo cấp cao của Đảng và Nhà nước) không chuyển hóa được Đảng của ông trở thành lực lượng chính trị tiên phong thực sự thì chắc chắn Đảng Cộng sản Việt Nam sẽ bị xã hội Việt Nam đào thải. Ông sẽ là kẻ tội đồ của tương lai và cả của quá khứ trong dòng chảy lịch sử Việt Nam. Nếu ông thực sự muốn trung thành với chủ nghĩa Mác – Lênin thì hãy đừng biến chủ nghĩa Mác – Lênin trở thành kẻ thù của sự phát triển, của dân chủ, tự do, đi ngược lại với xu hướng phát triển của văn minh nhân loại”. Những câu hàm hồ như thế xuất hiện khá nhiều trên mạng, cần phải phê phán. Họ lộng ngôn khi viết “cả nhân loại” bài trừ chủ nghĩa Mác – Lênin? Căn cứ vu vơ, vu khống khi nói “cả nhân loại” bài trừ chủ nghĩa Mác – Lênin? Họ không biết rằng, chủ nghĩa Mác – Lênin là một khoa học và cách mạng, mang ý nghĩa toàn thế giới, nhằm giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng xã hội, giải phóng con người; là học thuyết mang lại đời sống ấm no, tự do, hạnh phúc cho toàn nhân loại; là hệ thống có căn cứ khoa học của các quan điểm triết học, kinh tế, chính trị, xã hội; học thuyết về nhận thức và cải tạo thế giới; về những quy luật phát triển của xã hội, tự nhiên và tư duy con người; về những con đường cách mạng lật đổ chế độ bóc lột và xây dựng chủ nghĩa xã hội trên phạm vi toàn thế giới; thế giới quan của giai cấp công nhân và đội tiên phong là các đảng cộng sản và đảng công nhân. Sự hình thành chủ nghĩa Mác – Lênin là bước rẽ ngoặt cách mạng trong lịch sử tư tưởng xã hội. Bảo vệ chủ nghĩa Mác – Lênin và phát triển chủ nghĩa Mác – Lênin là bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng.
Bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng trên cơ sở quán triệt sâu sắc, vận dụng đúng đắn, sáng tạo chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh vào thực tiễn Việt Nam; lý luận gắn với thực tiễn (thực tế), đưa lý luận vào thực tiễn và đưa thực tiễn vào lý luận, tác động lẫn nhau, bổ sung cho nhau, trở thành đường lối của Đảng, chính sách của Nhà nước và hành động của nhân dân; tiếp tục làm rõ cơ sở lý luận, thực tiễn, hoàn thiện hệ thống lý luận về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta trong tình hình mới. Hệ thống hóa, phổ biến những thành tựu lý luận – thực tế mà Đảng ta đã đạt được trong thời bình và đối phó với thời chiến (nếu xảy ra).
Cuộc đấu tranh với những quan điểm sai trái hiện nay thực chất là cuộc đấu tranh giai cấp và đấu tranh tư tưởng để giải quyết mâu thuẫn, kể cả mâu thuẫn đối kháng và mâu thuẫn không đối kháng. Tại Việt Nam hiện nay, vẫn còn mâu thuẫn, tuy không phải là mâu thuẫn đối kháng, nhưng nếu mâu thuẫn đó cứ để nó âm ỉ cháy, rồi đến một lúc nào đó sẽ bùng lên thành ngọn lửa mâu thuẫn đối kháng, khó mà dập tắt.
Đấu tranh giai cấp trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội là cuộc đấu tranh giữa một bên là nhân dân lao động yêu nước với một bên là các thế lực phản động, chống đối. Trong cuộc đấu tranh này, giai cấp công nhân và nhân dân lao động chủ trương xóa bỏ các giai cấp bóc lột, cải tạo xã hội bằng cách mạng và bảo đảm thắng lợi cho chủ nghĩa xã hội. Đấu tranh giai cấp là quy luật chung của bước quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Nó là tất yếu, bởi vì, khi giành được chính quyền về tay nhân dân không có nghĩa là đã xóa bỏ được các giai cấp có lợi ích trái ngược chiều nhau, hoặc thậm chí có những lợi ích đối kháng nhau. Trong điều kiện của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, các giai cấp bóc lột và các thế lực phản động tuy đã bị lật đổ, nhưng bộ phận nào đó vẫn còn tồn tại trong một thời gian tương đối dài và phản kháng quyết liệt chính quyền mới, đặc biệt là phản kháng trên lĩnh vực tư tưởng. Kinh nghiệm lịch sử cho thấy, tuy các giai cấp bóc lột đã bị chính quyền cách mạng đánh đổ, nhưng các thế lực chống đối vẫn còn giữ được những địa vị kinh tế và xã hội nhất định. Họ hy vọng phục hồi chế độ cũ và những hy vọng đó lại biến thành những mưu toan phục hồi. Bởi vậy, việc thiết lập chính quyền cách mạng không có nghĩa là chầm dứt đấu tranh giai cấp trong những điều kiện mới, theo những hình thức và phương thức mới.
Đấu tranh tư tưởng cũng là một trong những hình thức đấu tranh giai cấp, là cuộc đấu tranh xác lập hệ tư tưởng Mác – Lênin, thành tựu cao nhất của khoa học xã hội, vận dụng và phát triển chủ nghĩa Mác – Lênin vào trong hoàn cảnh Việt Nam hiện nay. Mục tiêu trước mắt của cuộc đấu tranh tư tưởng hiện nay là phê phán những quan điểm sai trái, đi ngược lại đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước, đòi xóa bỏ chế độ xã hội chủ nghĩa. Hiện nay, những người chống đối họ vẫn cho rằng, chủ nghĩa Mác – Lênin chỉ có giá trị ở thế kỷ XIX, chứ không còn giá trị ở thế kỷ XXI, vì nó đã “lỗi thời”? Và như vậy, họ cho những ai cố bám lấy chủ nghĩa Mác – Lênin mà sống là lạc hậu. Chúng ta phải phê phán những nhận thức lệch lạc này và phải khẳng định chủ nghĩa Mác – Lênin phát triển vẫn là mục tiêu hướng tới của loài người trong tương lai. Vũ khi tư tưởng của những người cách mạng hiện nay vẫn là chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh. Chúng ta vẫn tìm thấy sức mạnh của lý luận Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, thể hiện ở con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, biểu hiện ở triển vọng của dòng chảy lịch sử, đồng thời, xác định hướng đi trong những điều kiện phức tạp của đời sống hiện nay. Vì vậy, sự phát triển của lý luận Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh là một trong những điều kiện quan trọng nhất cho thắng lợi của chủ nghĩa xã hội trong cuộc đấu tranh tư tưởng. Cuộc đấu tranh tư tưởng hiện nay trở nên phức tạp hơn và được mở rộng ra đòi hỏi cấp thiết phải có những luận chứng đã được nghiên cứu kỹ nhằm bảo vệ và phát triển chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; phải có cách huy động được toàn bộ trí tuệ của cán bộ, đảng viên và nhân dân trong việc phát triển chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và đề ra đường lối, chính sách của Đảng. Bên cạnh việc phê phán những quan điểm lệch lạc, phải khẳng định lập trường cách mạng chân chính của mình.
Ý nghĩa của cuộc đấu tranh tư tưởng hiện nay trên mạng và trên các phương tiện thông tin đại chúng là phải bác bỏ những quan điểm sai trái, bóp méo sự thật lịch sử, xuyên tạc lý luận Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, điều này được coi dường như là tiền đề của việc làm dịu tình hình căng thẳng hiện nay.
Phương pháp đấu tranh tư tưởng trong tình hình hiện nay là kiên trì tuyên truyền chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, chinh phục lòng người bằng vũ khi phê phán những người có quan điểm sai trái, chống đối chế độ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam, làm cho nhân dân hiểu rằng, chế độ của chúng ta là tốt đẹp, đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước ta là đúng đắn, sáng tạp. Sự gắn bó giữa Đảng và dân là sức mạnh để chúng ta xây dựng một nước Việt Nam giàu mạnh, nhân dân có cuộc sống ấm no, dân chủ và hạnh phúc. 

SỰ THẬT LỊCH SỬ KHÔNG THỂ PHỦ NHẬN



            PGS,TS Đàm Đức Vượng

      Bùi Tín, một nhân vật lưu vong, bất đồng chính kiến, đã mất ngày 11-8-2018, thọ 91 tuổi, tại Pari, Pháp. Khi còn sống, ông ta viết nhiều bài, nói chuyện nhiều lần về Nguyễn Tất Thành – Nguyễn Ái Quốc – Hồ Chí Minh. Sau khi ông ta mất, những cuốn băng ghi bài nói của ông ta vẫn còn phát lại nhiều lần trên một số trang mạng. Bùi Tín nói rằng, Nguyễn Tất Thành ra nước ngoài không phải là tìm đường cứu nước, mà là chán chường trước cảnh nhà tan, cửa nát, người cha bị cách chức tri huyện, người mẹ mất sớm. Chỉ có trong thời gian Nguyễn Ái Quốc ở Pari, Pháp, từ năm 1917 đến năm 1923 là yêu nước thật sự. Còn từ năm 1923 trở đi, Nguyễn Ái Quốc sang Liên Xô, cũng có thể gọi là yêu nước, “nhưng yêu nước theo kiểu Quốc tế Cộng sản”, chứ không phải là người yêu nước chân chính. Sự ngộ nhận này của Bùi Tín đã làm cho một số người cả tin và tán thành với nhận định của ông ta.
      Sự thật lịch sử như thế nào, chắc hẳn mọi người đã rõ. Đó là ngày 5-6-1911, Nguyễn Tất Thành (Nguyễn Ái Quốc – Hồ Chí Minh) bằng trái tim, khối óc và đôi bàn tay lao động, muốn đánh đuổi thực dân xâm lược, giải phóng đồng bào, bắt đầu vượt trùng dương sóng gió, đi ra nước ngoài, khảo sát tình hình, tìm tòi một con đường cứu nước cho dân tộc Việt Nam.
      Lúc bấy giờ, kinh tế thực dân xâm nhập, làm đảo lộn kinh tế trong nước. Giai cấp tư sản trong nước không ngóc đầu lên được. Giai cấp tiểu tư sản bắt đầu phá sản. Thuế má nặng nề, sưu dịch phiền phức… Tất cả những cái đó đã biến Việt Nam thành một địa ngục.
      Năm 1908, lần đầu tiên, nông dân các tỉnh Trung bộ nổi dậy chống thuế. Họ đi tay không, không có khí giới. Họ chỉ yêu cầu giảm thuế. Để tỏ tình đoàn kết nhất trí, họ đều cắt tóc ngắn và gọi nhau là “bồng bào”.
      Cụ Phan Châu Trinh (Phan Chu Trinh) mở trường học, bí mật truyền bá chủ nghĩa yêu nước. Vì vậy, cụ bị kết án tử hình, nhưng được Hội Nhân quyền Pari cứu.
      Cụ Phan Bội Châu sang Nhật, sau sang Trung Quốc. Tại nước ngoài, cụ kêu gọi nhân dân Việt Nam vùng lên đánh đổ thực dân Pháp, giải phóng đồng bào.
      Xã hội Việt Nam đầu thế kỷ XX có thể ví như con chim trúng thương rã cánh bị bầy diều hâu thi nhau rỉa rói. Nhân dân lao động lầm than, gày gò, rách rưới, đói khát, sống quằn quại dưới sự thống trị của thực dân Pháp. Kẻ bóc lột ra sức bóc lột, người bị bóc lột cũng ra sức bị bóc lột. Nước mất, nhà tan!
      Đó là tình trạng trong nước và ngoài nước, khi Nguyễn Tất Thành còn là một thanh niên mới lớn. Người sớm hiểu biết và rất đau xót trước cảnh thống khổ của nhân dân. “Lúc bấy giờ, anh đã có chí đuổi thực dân Pháp, giải phóng đồng bào”1. Người “muốn đi ra nước ngoài, xem nước Pháp và các nước khác. Sau khi xem xét họ làm như thế nào, tôi sẽ trở về giúp đồng bào chúng ta”2. Đó là mục đích ra đi của Nguyễn Tất Thành. Và anh đã ra đi tìm đường cứu nước, cứu dân, chứ không phải như Búi Tín nói Nguyễn Tất Thành ra nước ngoài với mục đích cá nhân.
      Cuộc hành trình đi tìm đường cứu nước trở thành bước rẽ ngoặt trong xu thế cứu nước mới của Nguyễn Tất Thành. Người xuống tàu biển Amiran Latusơ Tơrêvin (Amiral Latouche Tréville), mở đầu cuộc hành trình đi tìm đường cứu nước. Đầu tiên, Người sang Pháp, ở lại hải cảng Mácxây ít ngày, rồi đi vòng quanh châu Phi. Người làm bất cứ việc gì để sống và để đi, vì mục đích cứu nước, cứu dân.
      Nguyễn Tất Thành khảo sát thực tế tại nhiều nước thuộc địa đã giúp cho Người nhìn rõ hơn, sát hơn bộ mặt thật của chủ nghĩa thực dân đi “khai hóa văn minh”. Người nhìn rõ cảnh áp bức giai cấp và áp bức dân tộc đè nặng lên các màu da; nhìn rõ “bằng xương bằng thịt” hình thái kinh tế tư bản chủ nghĩa; nhìn rõ bản chất tàn bạo của chủ nghĩa thực dân ở các nước thuộc địa; nhìn rõ tình cảnh lam lũ của những người lao động thuộc địa.
      Rời châu Phi, Nguyễn Tất Thành vượt đại dương đến Mỹ, và từ đây, đi đến Luân Đôn, thủ đô nước Anh vào cuối năm 1913. Ngày 3-12-1917, Người từ nước Anh trở lại nước Pháp và lần đầu tiên tới Pari, thủ đô nước Pháp.       
      Trong những ngày ở Pháp, vào năm 1919, Nguyễn Tất Thành lấy tên là Nguyễn Ái Quốc, tiếp tục hoạt động yêu nước và cách mạng. Chủ nghĩa yêu nước Việt Nam trong Người lúc này được đẩy lên một nấc thang mới, khi Người kêu gọi các dân tộc bị áp bức hãy vùng lên.
      Một trong những công việc mà Nguyễn Ái Quốc tiến hành ở Pari là giáo dục, huấn luyện, đào tạo người Việt Nam tại Pháp, đồng thời, đào tạo, bồi dưỡng những người của các nước thuộc địa lúc ấy đang ở Pháp. Người căn dặn: “Nhớ làm nhiệm vụ của người dân mất nước”3. Người viết báo, viết văn và cùng với một số người có tâm huyết ra báo “Người cùng khổ” (Le Paria) tại Pari, nhằm giác ngộ lòng yêu nước cho đồng bào.
      Tại Pari, vào năm 1920, Nguyễn Ái Quốc được đọc bản “Sơ thảo lần thứ nhất những luận cương về vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc địa” của V.I.Lênin trình bày tại Đại hội II Quốc tế Cộng sản. Ngoài văn kiện quan trọng này, Người còn nghiên cứu một số tác phẩm của C.Mác, trong đó có bộ “Tư bản”. Sau khi đọc Luận cương của V.I.Leenin, Nguyễn Ái Quốc đã tìm thấy con đường giải phóng cho dân tộc mình. Luận cượng đã gợi mở cho Người một đường lối cứu nước mới. Đây là bước rẽ ngoặt về tư tưởng của Người: từ chủ nghĩa yêu nước đến chủ nghĩa Mác – Lênin. Từ đây, Người bước trên con đường đầy chông gai và thử thách.
      Con đường Nguyễn Ái Quóc đi bao giờ cũng bắt đầu từ chủ nghĩa yêu nước. Cơ sở tư tưởng của Người trước lúc ra đi tìm đường cứu nước chính là chủ nghĩa yêu nước, và từ chủ nghĩa yêu nước, Người đã tìm ra con đường cứu nước theo kiểu mới.
      Nguyễn Ái Quốc là đảng viên Đảng Xã hội Pháp từ năm 1918 (có tài liệu viết năm 1919). Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XVIII Đảng Xã hội Pháp họp tại thành phố Tua (Tours), Pháp, từ ngày 25-12-1920 đến ngày 30-12-1930, thảo luận vấn đề có nên gia nhập Quốc tế III (Quốc tế Cộng sản), hay ở lại Quốc tế II?. Với 3.208 phiếu tán thành gia nhập Quốc tế III, chiếm đa số; 1022 phiếu đề nghị ở lại Quốc tế II, chiếm thiểu số. Đảng Xã hội Pháp tán thành gia nhập Quốc tế III. Bộ phận tiên tiến trong Đảng Xã hội Pháp (trong đó có Nguyễn Ái Quốc) nhóm họp riêng để thành lập ra một tổ chức chính trị mới: Đảng Cộng sản Pháp. Từ đây, Người trở thành đảng viên Đảng Cộng sản Pháp và cũng là người cộng sản đầu tiên ở Đông Dương.
      Năm 1921, tại Pari, Pháp, Nguyễn Ái Quốc tham gia sáng lập “Hội Liên hiệp thuộc địa”. Người được bầu vào Ban Chấp hành Trung ương Hội, làm Ủy viên Thường vụ và trở thành một trong những người lãnh đạo Hội. Hội là một tổ chức của những người yêu nước của các thuộc địa Pháp như Mađagátxca, Máctiních, Haiti, Angiêri, Đông Dương,… Hội là một hình thức mặt trận thống nhất của nhân dân các nước thuộc địa. Hội ra “Tuyên ngôn” do Nguyễn Ái Quốc soạn thảo. Mục đích hoạt động của Hội là lãnh đạo nhân dân các nước thuộc địa vùng lên đấu tranh chống xâm lược thuộc địa, vì độc lâp, tự do của nhân dân các dân tộc bị áp bức. Nguyễn Ái Quốc phát biểu: “Công cuộc giải phóng này, “chỉ có thể thực hiện được bằng sự nỗ lực của bản thân anh em”4.
     Cũng tại Pari, ngoài việc tham gia sáng lập “Hội Liên hiệp thuộc địa”, Nguyễn Ái Quốc còn tham gia vào việc thành lập “Ban Nghiên cứu thuộc địa” của Đảng Cộng sản Pháp. Người đề nghị Ban Nghiên cứu thuộc địa phải có trách nhiệm giúp các nước thuộc địa trong việc tìm ra con đường giải phóng phù hợp và đi đến thắng lợi.
      Sự hoạt động không biết mệt mỏi của Nguyễn Ái Quóc ở Pari đã làm cho nhiều người cảm động và rất khâm phục. Ông Lêô Pônđét, Chủ nhiệm Câu lạc bộ Phôbua, Pari, nhận xét về Nguyễn Ái Quốc: “Chỉ là một người thợ ảnh giản dị ở ngõ hẻm Côngpoanh, ông đã từng tham gia với chúng tôi trong những cuộc thảo luận náo nhiệt. Ngay những người cừu địch với ông, không ai không thán phục trí thông minh, tài năng và lòng thành thật của ông”5.
      Đầu năm 1923, Nguyễn Ái Quốc chủ trương xuất bản báo “Việt Nam hồn” bằng tiếng Việt nhằm giác ngộ lòng yêu nước, ý thức cách mạng cho Việt kiều đang sống ở Pháp lúc ấy và gửi về nước kêu gọi đồng bào nổi dậy đấu tranh đánh đổ chế độ thực dân Pháp ở Đông Dương, giành độc lập, tự do cho Tổ quốc. Người cũng muốn thông qua báo “Người cùng khổ” và báo “Việt Nam hồn” để tuyên truyền, bồi dưỡng cho nhân dân Việt Nam (trong đó có Việt kiều ở Pháp) lòng yêu nước và lòng tự trọng, đấu tranh để giành lại nước. Trước cảnh nước mất, nhà tan, ở nơi đất khách quê người, Nguyễn Ái Quốc đã làm hết sức mình vì nhân dân mình, đất nước thân yêu của mình.
      Để tuyên truyền chính trị và tư tưởng cho nhân dân các nước thuộc địa, trong những ngày ở Pari, Nguyễn Ái Quốc viết tác phẩm :Bản án chế độ thực dân Pháp”. Người lên án những tội ác của chủ nghĩa thực dân ở các nước thuộc địa trên các mặt kinh tế, văn hóa, xã hội. Người vạch rõ, dưới ách thống trị của thực dân, cuộc sống của nhân dân lao động ở các nước thuộc địa vô cùng cực khổ. Họ bị đế quốc, phong kiến phản động, tư sản áp bức, bóc lột bằng mọi hình thức, kể cả những hình thức dã man nhất như “thuế máu”. Thông qua tác phẩm, người kêu gọi nhân dân các dân tộc bị áp bức hãy vùng lên đấu tranh để tự giải phóng.
      Ngoài tác phẩm “Bản án chế độ thực dân Pháp”, trong thời gian ở Pari, Nguyễn Ái Quốc còn viết nhiều bài chính luận, truyện, ký, tố cáo chế độ thực dân và kêu gọi sự giải phòng nhân dân các nước thuộc địa, kêu gọi sự giải phóng cho nhân dân Việt Nam.
      Có thể nói trong những ngày ở Pháp, Nguyễn Ái Quốc đã đặt viên gạch nền móng đầu tiên cho một ý thức hệ mới và truyền bá ý thức hệ này cho lớp cán bộ cách mạng trẻ Việt Nam. Ý thức hệ này chính là vấn đề giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng con người, dân tộc gắn với giai cấp, độc lập dân tộc gắn với chủ nghĩa xã hội, dân tộc gắn với thời đại.
      Nguyễn Ái Quốc ở Pari từ năm 1917 đến năm 1923, thì tới Liên Xô. Trong những ngày ở Mátxcơva, Liên Xô, Nguyễn Ái Quốc đã là một chiến sĩ cộng sản mang tầm vóc quốc tế. Người làm việc ở Ban Phương Đông Quốc tế Cộng sản và tham gia các hoạt động của các đoàn thể trong Quốc tế Cộng sản. Người nói: “Tôi phải nói các đồng chí rằng, chúng tôi bị cai trị bởi một chế độ nô lệ”6.
      Bùi Tín đánh giá trong những ngày ở Liên Xô, Nguyễn Ái Quốc cũng có thể là một người yêu nước, nhưng yêu nước theo kiểu Quốc tế Cộng sản. Theo Bùi Tín, lòng yêu nước theo kiểu Quốc tế Cộng sản và lòng yêu nước theo truyền thống khác nhau hay sao? Bùi Tín đã nhầm. Thực ra, lòng yêu nước theo truyền thống và lòng yêu nước theo Quốc tế Cộng sản chỉ là một, không có kiểu yêu nước theo Quốc tế Cộng sản với tinh thần yêu nước truyền thống. Chủ nghĩa yêu nước là tình cảm đặc sắc nhất, đã tồn tại trong lòng dân tộc qua hàng nghìn năm dựng nước và giữ nước. Đó là ý thức của nhân dân lao động với dân tộc mình; thể hiện lòng trung thành của nhân dân lao động đối Tổ quốc của mình. Nhưng bởi vì Tổ quốc là một môi trường kinh tế - xã hội, chính trị và văn hóa, thay đổi theo lịch sử, cho nên chủ nghĩa yêu nước ở những thời đại khác nhau, cũng có những nội dung khác nhau, nó được quy định không phải bởi một tinh thần dân tộc hoặc chủng tộc thần bí nào đó như một số nhà tư tưởng tư sản quả quyết, mà bởi những điều kiện kinh tế - xã hội. Chủ nghĩa yêu nước có ý nghĩa đặc biệt trong thời kỳ hình thành dân tộc, khi nó đã trở thành ngọn cờ đấu tranh chống lại tình cảm cát cứ phong kiến và áp bức dân tộc.
      Sau Đại hội V Quốc tế Cộng sản (1924) họp, Nguyễn Ái Quốc càng nóng lòng trở về phương Đông, rồi về Việt Nam. Người tâm sự với người bạn chí cốt tên là D.D.Manuinxki, rằng, tại Đông Dương chưa có Đảng Cộng sản, cho nên Người muốn thành lập càng nhanh càng tốt một Đảng Cộng sản tại Đông Dượng, vì đã có điều khách quan làm việc đó. Muốn vậy, phải nhanh chóng trở về phương Đông.
      Bằng những nỗ lực hết sức của mình và được sự giúp đỡ của D.D.Manuinxki, cuối cùng, từ Liên Xô, Nguyễn Ái Quốc cũng đã về được Quảng Châu vào ngày 11-11-1924. Quảng Châu là thủ phủ tỉnh Quảng Đông, một trung tâm cách mạng của miền Nam Trung Quốc.
      Về Quảng Châu, Nguyễn Ái Quốc tự xác định là tiến hành công tác chính trị, tư tưởng, tổ chức (đặc biệt là việc đào tạo cán bộ), chuẩn bị điều kiện cần có và phải có để thành lập chính đảng cách mạng ở Việt Nam.
      Những ngày ở Quảng Châu, Nguyễn Ái Quốc tập trung thời gian vào việc huấn luyện cán bộ cách mạng Việt Nam. Người mở lớp huấn luyện chính trị, tuyển chọn những thanh niên yêu nước Việt Nam sang học.
      Cùng với việc tổ chức lớp học chính trị, vào tháng 5-1925, Nguyễn Ái Quốc xúc tiến thành lập một tổ chức yêu nước cách mạng đầu tiên ở Việt Nam: “Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên (còn gọi là Việt Nam Thanh niên Cách mạng đồng chí Hội – gọi tắt là Thanh niên).
       Nguyễn Ái Quốc rời Quảng Châu và trở lại Liên Xô lần thứ hai vào tháng 6-1927 với lý do là tránh quân đội Tưởng Giới Thạch đang lùng bắt Người. Tại Liên Xô, Người tiếp tục đào tạo cán bộ cho cách mạng Việt Nam bằng cách liên lạc với trong nước, cử những thanh niên ưu tú sang học tại Trường Đại học Phương Đông, Mátxcơva, Liên Xô. Trong số những người sang học lần này có Trần Phú, sau là Tổng Bí thư đầu tiên của Đảng Cộng sản Đông Dương.
      Ở Liên Xô, nhưng Nguyễn Ái Quốc vẫn nóng lòng trở về Đông Dương để cùng nhân dân thực hiện cuộc cách mạng giải phóng dân tộc. Nguyện vọng chính đáng của Người đã được Quốc tế Cộng sản giải quyết.
      Từ Liên Xô, Nguyễn Ái Quốc đến Thái Lan, điểm nối tiếp trong cuộc hành trình về phương Đông. Vào một ngày của tháng 7-1928, Nguyễn Ái Quốc đến Băng Cốc, thù đô nước Xiêm (Thái Lan) và gây dựng phong trào yêu nước trong Việt kiều ở đây. Từ Xiêm, Người đến Hương Cảng (Hồng Kông) vào ngày 23-12-1929 để chuẩn bị thành lập Đảng.
      Hội nghị thành lập Đảng diễn ra tại một địa điểm ở đảo Cửu Long thuộc quần đảo Hương Cảng (Hồng Kông) từ ngày 3 đến ngày 7-2-1930. Đây là Hội nghị hợp nhất giữa ba tổ chức cộng sản trong nước thành lập trước đó là Đông Dương Cộng sản Đảng, An Nam Cộng sản Đảng, Đông Dương Cộng sản Liên đoàn, do Nguyễn Ái Quốc, Thay mặt Quốc tế Cộng sản chủ trì. Nguyễn Ái Quốc nhận xét:
      “Việc thành lập Đảng là một bước ngoặt vô cùng quan trọng trong lịch sử cách mạng Việt Nam ta. Nó chứng tỏ rằng giai cấp vô sản ta đã trưởng thành và đủ sức lãnh đạo cách mạng”7.     
      Người tổng kết:
      “Chủ nghĩa Mác - Lênin kết hợp với phong trào công nhân và phong trào yêu nước đã dẫn đến việc thành lập Đảng Cộng sản Đông Dương vào đầu năm 1930”8.
      Sau khi Đảng được thành lập, phong trào cách mạng Đông Dương rơi vào tình thế cực kỳ khó khăn. Rất nhiều cán bộ được Nguyễn Ái Quốc đào tạo đã bị địch bắt, giết, thì ngày 6-6-1931, Người bị nhà cầm quyền Anh bắt ở Hương Cảng và chiều ngày 22-1-1933, nhờ sự bố trí của luật sư Lôdơbi, Người đã trốn thoát khỏi Hồng Kông để trở lại Liên Xô lần thứ ba. Lần này, Người công tác và học tập tại Liên Xô từ năm 1933 đến năm 1938. Sau đó, Người lại trở lại Xiêm và đến năm 1941, Nguyễn Ái Quốc trở về nước, chủ trì Hội nghị Trung ương 8 (tháng 5-1941), ra Nghị quyết quyết định tổng khởi nghĩa giành chính quyền trong cả nước.
      Ngày 13-8-1942, Người lấy tên là Hồ Chí Minh sang Trung Quốc để liên lạc với các lực lượng cách mạng của những người Việt Nam ở đó. Nhưng chẳng may, Người đã bị chính quyền địa phương của Tưởng Giới Thạch bắt giam hơn một năm, bị giải tới, giải lui khắp 13 huyện và khoảng 30 nhà lao tỉnh Quảng Tây.
      Ngày 10-9-1943, Hồ Chí Minh được trả lại tự do.
      Ngày 20-9-1944, Hồ Chí Minh trở về Việt Nam, cùng với Đảng Cộng sản Đông Dương lãnh đạo cách mạng Việt Nam, tiến tới giành thắng lợi trong Cách mạng tháng Tám năm 1945 và thành lập nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (nay là nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam).
      Một trang sử mới lại bắt đầu…
      Sự thật rành rành là thế, vậy mà Bùi Tín cố tình xuyên tạc, bóp méo sự thật lịch sử về Hồ Chí Minh, cần phải phê phán.
------
Chú thích:
1. Trần Dân Tiên: Những mẩu chuyện về đời hoạt động của Hồ Chủ tịch, Nxb Sự thật, Hà Nội, 1975, tr. 12.                                                                                                                                                                                
2. Trần Dân Tiên: Những mẩu chuyện về đời hoạt động của Hồ Chủ tịch, sđd, tr. 13.
3. Bùi Lâm: Gặp Bác ở Pari, in trong  sách “Bác Hồ”, Nxb Văn học, Hà Nội, 1960, tr. 47.
4  Hồ Chí Minh: Toàn tập,  Nxb Chính trị quốc gia – Sự thật, 1995, tập 2, tr. 128.
5. Lêô Pônđét: Chúng quanh Chủ tịch Hồ Chí Minh, Tuần báo Ici Paris, số 53, ngày 11,12-6-1946.
6. Hồ Chí Minh: Toàn tập, sdđ, 2000, tập 1, tr. 208.
7,8. Hồ Chí Minh: Toàn tập, sdđ, 2000, tập 10, tr.8.



“Bất tuân dân sự” phải chăng là “quyền cuối cùng của người dân”?



                                               
Một trong những chủ đề ầm ỹ trên mạng gần đây là Nghị định của Chính phủ về Luật An ninh mạng (đã được Quốc hội  khóa XIV thông qua, hiệu lực vào đầu năm 2019). Đối với hầu hết người dân bình thường thì LANM dường như họ chẳng quan tâm…cái mà họ quan tâm là giá cả thị trường hôm nay ra sao, con cháu học hành như thế nào, nếu có người nhà bị ốm đău thì thuốc men ra sao…Nhưng với một số “ chiến sỹ đấu tranh” cho “dân chủ, nhân quyền” Việt Nam thì họ tỏ ra quan tâm, hơn nữa còn rất lo lắng…có người nhân xét rằng rằng: “làn sóng xung kích” của bộ luật này đã lai rai tàn phá cộng đồng mạng, trong đó có việc đóng cửa, khóa nick facebook của một số người viết phản biện đông khách của Việt Nam.”
Vậy vì sao có chuyện đó? Phải chăng- không lâu nữa khi Luật  LANM có hiệu lực thì cơ quan chức năng có cơ sở pháp lý để vào cuộc, và  họ có thể bị “tra tay vào còng”?
Vừa qua trên Đài Châu Á tự do (RFA, 19-10) có bài viết-phỏng vấn, được rút tít khá hấp dẫn: “Bất tuân dân sự: Quyền cuối cùng của người dân nếu Nghị định Luật An ninh mạng được ký!”. Không biết có phải tác giả bài báo muốn nhắn gửi đến các tài khoản-bloger, trang Web “thông điệp” sau: hãy “ cứ làm như đã làm trên mạng…” hãy “ thực hiện quyền ( cuối cùng) “ bất tuân dân sự” trên mạng đi, cho dù có vi phạm LANM ! Vậy đâu là “ quyền cuối cùng” của một người dân- phải chăng đó là “ quyền bất tuân dân sự” trên mạng ?
Trước hết, xin được thông tin- chia sẻ với bạn đọc nội dung bài báo trên RFA.
Có “khách mời” nhận xét: “Chính phủ luôn có xu hướng muốn quản lý tất cả động thái của người dân, do đó Nghị định dễ xâm phạm vào quyền của công dân vốn được Hiến pháp qui định. Và không có cơ quan nào có thể điều chỉnh, hạn chế trong thể chế của Việt Nam hiện nay”. Một người khác thì nói: “Tôi thì thấy có 1 điều rất khó tin và nguy hiểm, hướng dẫn do Bộ Công an làm sẽ vô hiệu hoá Toà án và tư pháp, nó trở thành sự tuỳ tiện muốn nghi ai, bắt ai cũng được”.
Theo pháp luật thì 1 người chỉ được, hoặc bị kết luận là phạm tội phải do 1 phán quyết của Toà án, chứ không như bây giờ là bất cứ cơ quan hành chính nào, cấp công an nào cũng có quyền quyết định người này hay người kia phạm tội.” (!)
Một “khách mời” khác ( trả lời phỏng vấn của RFA) cho rằng: “Quả thực đây là một mớ văn bản lộn xộn dưới Luật đã được Bộ Công an soạn thảo tỉ mỉ nhằm chống lại những kẻ thù của chính quyền trên mạng … và có trời sập cũng không cản được văn bản này sẽ được ký kết và đưa ra thi hành vào đầu năm tới.”
Có “ khách mời” bảo vệ Hà Nội, nói: “Theo Hiến pháp tại Việt Nam, Điều 14 rằng: “Quyền con người và quyền công dân chỉ bị hạn chế theo luật định” Do đó Luật An ninh mạng qui định hạn chế quyền của họ trong những trường hợp … một là xâm phạm đến an ninh quốc gia, hai là xâm phạm trật tự xã hội của nước đó, ba là xâm phạm đến đạo đức xã hội và bốn là xâm phạm quyền con người, quyền riêng tư của 1 người, thì người ta có quyền hạn chế”.
Cuối cùng RFA, lấy tiếng nói của một “khách mời” để kết luận: “Nếu chính phủ Việt Nam đồng ý thông qua văn bản Nghị định này, thì sẽ “đẩy xã hội Việt Nam đi tới 1 thái độ bất tuân dân sự - quyền cuối cùng của người dân Việt Nam.”
Vậy sai lầm của những “ khách mời” phản đối Luật ANM ở đâu? Có phải pháp luật Việt Nam quy định “ bất tuân dân sự” là quyền của người dân không? Thật ra “ quyền cuối cùng của người dân (nếu phạm tội) là gì?
1-Về Luật ANM, cũng như tất cả những bộ luật khác, Luật ANM đều là những quy định nhằm, một mặt hạn chế quyền, đồng thời nhằm bảo vệ quyền. Quy định “ hạn chế quyền” chỉ nhằm vào những hành vi làm phương hại đến an ninh quốc gia, trật tự công cộng, đạo đức xã hội, quyền và lợi ích của người khác. Đồng thời những quy định này cũng nhằm bảo đảm các điều kiện của cuộc sống bình yên của nhân dân và bảo vệ chủ quyền Dân tộc. Không chỉ ở Việt Nam mà ở tất cả các quốc gia khác, pháp luật cũng có chức năng như vậy.
Sự khác biệt của Luật ANNM với các luật khác chỉ ở chỗ-đó là những quy định bảo vệ, bảo đảm an ninh trên thế giới ảo- trên internet, mạng xã hội. Nói cách khác Luật ANM quy định trật tự thực hiện và bảo đảm quyền sử dụng internet, mạng xã hội như ý kiến của một luật sư nói. Bởi vậy Luật ANM đòi hỏi “Phải xác thực người dùng” internet, mạng xã hội. Thực tế cho thấy đã có không ít trường hợp người sử dụng mạng xâm phạm, lừa đảo, nói xấu trên mạng, xâm phạm quyền con người và quyền công dân. Họ nói xấu thậm chí xuyên tạc lịch sử Dân tộc. Nhiều bản trong những năm qua cho thấy điều này.
Tại tòa án không ít kẻ phạm pháp cho rằng, họ “chỉ làm những điều mà Hiến pháp quy định”, trong đó có các quyền: “tự do ngôn luận, tự do báo chí, tiếp cận thông tin, hội họp, lập hội, biểu tình. Việc thực hiện các quyền này do pháp luật quy định” (Điều 25, Hiếp pháp 2013)…Tiếc rằng những kẻ vi phạm pháp luật- hoặc do thiếu kiến thức luật hoặc do cố tình “ quên” ( mệnh đề  “Việc thực hiện các quyền này do pháp luật quy định”). Quy định này có nghĩa người hưởng thụ quyền đồng thời phải bảo đảm không vi phạm những quy định của bộ luật khác. Chẳng hạn Luật Báo chí, Luật Tiếp cận thông tin… Ở Việt Nam cũng như nhiều quốc gia khác, Hiến pháp không trực tiếp điều chỉnh hành vi của công dân mà phải thông qua quy định của Luật.
Điều 9, Luật báo chí, 2016 quy định các hành vi bị nghiêm cấm: 1. Đăng, phát thông tin chống Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam như: Xuyên tạc, phỉ báng, phủ nhận chính quyền nhân dân; Bịa đặt, gây hoang mang trong Nhân dân; Gây chia rẽ giữa các tầng lớp nhân dân, giữa Nhân dân với chính quyền nhân dân,…Phá hoại việc thực hiện chính sách đoàn kết quốc tế; Chống lại độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Xuyên tạc lịch sử; phủ nhận thành tựu cách mạng; xúc phạm dân tộc, anh hùng dân tộc. Thông tin sai sự thật, xuyên tạc, vu khống, xúc phạm uy tín của cơ quan, tổ chức, danh dự, nhân phẩm của cá nhân; …”.
2- Có phải pháp luật Việt Nam quy định “ bất tuân dân sự” là quyền của người dân không? Xin thưa: Không! Những ai ngộ nhận điều này thì hãy xem lại những bản án giành cho những hành vi “ bất tuân dân sự”. Trong vụ cá chết do ô nhiễm nước biển ở Nghệ An, Hà Tĩnh…, xin hãy đọc lại thông tin vụ án Hoàng Đức Bình.
Sáng 14/2/2017, Hoàng Đức Bình, …và một số người khác đã huy động khoảng 300 người từ Giáo xứ Song Ngọc, huyện Quỳnh Lưu, đi vào Kỳ Anh (Hà Tĩnh) dưới danh nghĩa khiếu kiện Công ty Formosa- mà có người trên RFA cho rằng “ bất tuân dân sự”…Hành vi này đã cấu thành một tội hình sự. Rút cuộc ngày 6/2, Tòa án nhân dân huyện Diễn Châu, Nghệ An đã tuyến bố Hoàng Đức Bình bị xử phạt 14 năm tù giam, cho cái gọi là hành vi “ bất tuân dân sự” của mình.
Gần đây hơn, vào các ngày 10-11 tháng 6 năm 2018 ở một số nơi, như Nha Trang (Khánh Hoà), Phan Rí (Bình Thuận)…đã có không ít người có hành vi “bất tuân dân sự”, tụ tập đông người gây rối để phản đối Dự án “Luật Đơn vị hành chính - kinh tế đặc biệt Vân Đồn, Bắc Vân Phong và Phú Quốc (Luật đặc khu kinh tế)…Những hành vi này đã bị Tòa án nhân dân nhiều tỉnh, như ở Phan Thiết, Khánh Hòa  xét xử với những bản án nghiêm khắc.
Hành vi “ bất tuân dân sự” không phải là sáng tạo của các “chiến sỹ đấu tranh cho dân chủ, nhân quyền Việt Nam” gần đây. Mà là “ sáng tạo” ở nhiều quốc gia Châu Phi, chống lại chính quyền độc tài của họ trong thập niên đầu thế kỷ XXI, mở đầu là cuộc biểu tình ở Tuy ni di…Đó còn là các, “cách mạng đường phố”, “cách mạng maidan” kiểu Nam Tư năm 2000, Grudia 2003, Ucraina năm 2014… Ở Việt Nam hoạt động “ bất tuân dân sự” đã “ lan tỏa” đến Tây Nguyên trong những vụ việc gây rối những năm 2001, 2004. Vậy có thể kết luận  hành vi “ bất tuân dân sự” với Việt Nam là vi phạm pháp luật.
3-Hành vi “ bất tuân dân sự” trên thế giới ảo- internet, mạng xã hội cũng như vậy. Luật ANNM là một quy định về trật tự xã hội trên mạng… Dự thảo Nghị định của Luật này xác định những cơ quan, tổ chức có quyền và trách nhiệm thi hành, bảo đảm quyền là điều tất nhiên. Việc Nhà nước giao cho các cơ quan có chuyên môn thực hiện, như Bộ Công an, Bộ Quốc phòng có các quyền “ Ban hành tiêu chuẩn quốc gia; kiểm tra, đánh giá, chứng nhận hợp chuẩn, giám sát, cảnh báo”,…về những hành vi vi phạm pháp luật trên không gian mạng là hợp lý
Còn nói về “ quyền cuối cùng” của kẻ phạm pháp thì chắc chắn không phải là quyền “ bất tuân dân sự” như có kẻ nói với RFA, mà là những quyền về sinh hoạt- ăn, ngủ, về an ninh sinh mạng, được tôn trong nhân phẩm trong nhà tù! ./.
Thành Long ( Nha Trang)