Bùi Tín, sinh năm 1927, là con của cố Chủ tịch
Quốc hội đầu tiên của nước Việt Nam
dân chủ cộng hòa (cụ Bùi Bằng Đoàn). Thủa trẻ, ông ta được Nhà nước Việt Nam tạo điều kiện học tập, phấn đấu và từng bước
trưởng thành với quân hàm đại tá, nhà báo, Phó Tổng biên tập Báo Nhân Dân Việt Nam. Năm
1990, khi được cấp trên cử sang dự hội nghị hằng năm của báo Nhân đạo (thuộc
Đảng Cộng sản Pháp), Bùi Tín đã trốn ở lại để “ăn nhờ, ở đậu” ở nước mẹ Đại
Pháp. Từ đó đến nay, Bùi Tín luôn tự cho mình là “nhà bất đồng chính kiến”,
“nhà đấu tranh cho dân chủ, nhân quyền”. Dưới cái mác nhà báo tự do, Bùi Tín đã
trở thành công cụ phục vụ cho lợi ích hèn hạ của các thế lực chống cộng, ra sức
xuyên tạc lịch sử, nói xấu Chủ tịch Hồ Chí Minh, Đảng Cộng sản và Nhà nước Việt
Nam.
Nhưng “bàn tay không che nổi mặt trời”, bộ mặt tráo trở của Bùi Tín đã bị nhân
dân Việt Nam,
những người yêu chuộng công lý, hòa bình trên thế giới nhận rõ và lên án. Trong
con mắt của họ, Bùi Tín là kẻ có tâm địa xấu xa, mưu toan “cõng rắn, cắn gà
nhà”, “rước voi dày mả tổ”, phản bội lại lợi ích của Đảng, Nhà nước và dân tộc
Việt Nam.
Vào
ngày 30-4-2015, trong khi cả dân tộc Việt Nam hân hoan chào mừng kỷ niệm 40 năm
ngày Chiến thắng (30-4-1975/30-4-2015), Bùi Tín lại trơ tráo đưa ra bài viết
“Về ngày 30/4: Chỗ đứng của Đảng Cộng sản phải là vành móng ngựa” và được BBC
nhanh nhảu đăng tải. Trong bài viết, Bùi Tín đã “cố gắng độc lập suy nghĩ bằng
đầu óc tỉnh táo,…” và “chỉ lấy sự thật và lẽ phải làm mục tiêu”,… để đi đến kết
luận là “Đảng Cộng sản Việt Nam đã liên tiếp phạm phải sai lầm này đến sai lầm
khác”. Đó là: “đã sai lầm chọn chủ nghĩa Mác – Lê-nin,…”; “… chủ động gây nên
cuộc nội chiến huynh đệ tương tàn,… “; “đày đọa, trả thù hàng chục vạn viên
chức và sĩ quan Việt Nam Cộng hòa,…”, v.v. Cần phải khẳng định ngay rằng, đây
là hành động trơ tráo, vô liêm xỉ, trắng trợn xuyên tạc sự thật lịch sử của Bùi
Tín - kẻ trở cờ, bán nước hại dân. Vì sao nói vậy?
Thứ nhất, về cái gọi là sai lầm “lựa chọn chủ nghĩa Mác –
Lê-nin”(!) Cần khẳng định ngay rằng, sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam là sự
kết hợp đúng đắn giữa chủ nghĩa Mác – Lê-nin, phong trào công nhân và phong
trào yêu nước ở Việt Nam cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX. Như vậy, cơ sở ra đời
của Đảng Cộng sản Việt Nam mang tính khách quan, xuất phát từ đòi hỏi thực tiễn
của cách mạng Việt Nam, có cơ sở chính trị, xã hội vững chắc. Vốn là người đã
được nghiên cứu kỹ về mục tiêu, lý tưởng, cương lĩnh chính trị, Điều lệ Đảng,
tự nguyện viết đơn xin vào Đảng, có “44 năm ở trong Đảng Cộng sản”, là “Đại tá,
nhà báo” chắc Bùi Tín chẳng bị mù, hay thiểu năng trí tuệ mà không biết. Từ năm
1930 đến nay, đứng vững trên nền tảng chủ nghĩa Mác – Lê-nin, Đảng Cộng sản
Việt Nam đã phất cao ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, đề ra cương
lĩnh, đường lối đúng đắn, lãnh đạo nhân dân phát huy sức mạnh của chủ nghĩa yêu
nước chân chính, của tinh thần đại đoàn kết toàn dân tộc, đoàn kết quốc tế, “đánh
Pháp, đuổi Nhật”, “đánh cho Mỹ cút, đánh cho ngụy nhào”, giải phóng dân tộc,
thống nhất đất nước, đưa cả nước bước vào thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội;
đồng thời, đóng góp quý báu vào phong trào giải phóng dân tộc, vì hòa bình,
tiến bộ trên thế giới. Việt Nam
trở thành biểu tượng của nhân loại tiến bộ trong công cuộc đấu tranh xóa bỏ áp
bức, bất công do chủ nghĩa thực dân cũ và mới gây ra. Đây là sự thật lịch sử
không thể bác bỏ! Từ ngày 30-4-1975 đến nay, kiên trì và vận dụng sáng tạo chủ
nghĩa Mác – Lê-nin, Đảng Cộng sản Việt Nam đã lãnh đạo nhân dân từng bước hàn
gắn vết thương chiến tranh, xây dựng đất nước Việt Nam “ngày càng đàng hoàng
hơn, to đẹp hơn”, thành tựu về xóa đói giảm nghèo, vì dân giàu, nước mạnh, dân
chủ, công bằng, văn minh, thế và lực mới của Việt Nam trên trên trường quốc tế
ngày càng được nâng cao. Trong vòng 40 năm (1975 - 2015), đất nước, con người Việt
Nam
đều đổi mới. Từ một đất nước nghèo nàn, lạc hậu, bị tàn phá nặng nề bởi những
cuộc chiến tranh xâm lược và sự chống phá quyết liệt của các thế lực thực dân,
đế quốc, Việt Nam đã thoát ra khỏi tình trạng nước nghèo, trở thành nước phát
triển trung bình, với tốc độ tăng trưởng GDP gần 7%/năm, thu nhập bình quân 2.200
đôla/người/năm (năm 2015); có nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; 54
dân tộc anh em luôn đoàn kết, giúp nhau cùng tiến bộ, chung sức dựng xây và bảo
vệ Tổ quốc. Việt Nam đã có quan hệ hữu nghị, hợp tác cùng phát triển với trên
180 quốc gia, vùng lãnh thổ; là đối tác chiến lược, đối tác toàn diện với các
nước là ủy viên thường trực Hội đồng bảo an Liên hợp quốc; là thành viên có uy
tin và trách nhiệm với nhiều tổ chức lớn trong khu vực và trên thế giới, v.v.
Việt Nam là điểm sáng trong thu hút các nguồn vốn ODA, FDI từ các thể chế kinh
tế, tài chính lớn của thế giới. Việt Nam luôn đồng hành cũng các dân
tộc, quốc gia để bảo vệ hòa bình, xây dựng môi trường quốc tế hòa bình, ổn định
và cùng nhau phát triển.
Thứ hai, về cái gọi là “… chủ động gây nên cuộc nội chiến
huynh đệ tương tàn”(!) Bùi tín biết rõ, sau khi Mỹ thất bại ở Việt Nam đã có
nhiều nhà lịch sử, nhà khoa học, nhiều chính khách, tướng lĩnh trên thế giới,
trong đó có cả của nước Mỹ đã đi tìm nguyên nhân. Câu trả lời mà họ nhận được
là: Mỹ thua, bởi Mỹ đã tiến hành cuộc chiến tranh xâm lược phi nghĩa. Việt Nam thắng, bởi Việt Nam đã tiến hành cuộc chiến tranh
bảo vệ Tổ quốc chính nghĩa. Đó là sự thật khách quan.
Sau chiến thắng Điện Biên Phủ “lừng lẫy năm châu, chấn
động địa cầu”, thực dân Pháp và can thiệp Mỹ buộc ký Hiệp định Giơ-ne-vơ, kết
thúc chiến tranh, lập lại hòa bình ở Việt nam (năm 1954); trong đó quy định rõ,
năm 1956, Việt Nam sẽ tổ chức tổng tuyển cử thống nhất đất nước. Tuy nhiên, với
âm mưu thế chân Pháp, xâm lược Việt Nam, đế quốc Mỹ đã dựng lên chính quyền tay
sai Ngô Đình Diệm ở miền Nam nhằm chia cắt Việt Nam thành hai miền, có hai chế
độ khác nhau. Hiệp định Giơ-ne-vơ vừa ký, chưa ráo mực, Mỹ - Diệm đã ra sức đàn
áp, khủng bố nhân dân và chiến sĩ cách mạng miền Nam bằng súng, đạn và máy
chém. Đế quốc Mỹ đã trực tiếp tiến hành chiến tranh xâm lược Việt Nam. Nền
độc lập, thống nhất dân tộc Việt Nam lại đứng trước một thử thách to
lớn. Quyết không chịu mất nước, không chịu làm nô lệ, “nước Việt Nam là một, dân tộc Việt Nam là một, sông có thể cạn, núi có thể mòn
nhưng chân lý đó không bao giờ thay đổi”, cả dân tộc Việt Nam lại đứng
lên “sẻ dọc Trường Sơn đi cứu nước”. Từ năm 1954 đến 30-4-1975, dưới sự lãnh
đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, cả dân tộc Việt Nam ra trận đánh bại hết chiến
lược chiến tranh này, đến chiến lược chiến tranh khác của đế quốc Mỹ. Thất bại
của chiến dịch Lai-nơ-bếch-cơ, sử dụng pháp đài bay B.52, ném bom Hà Nội và các
thành phố lớn ở miền Bắc Việt Nam, nhằm “đưa Hà Nội, miền Bắc trở về thời kỳ đồ
đá” đã buộc Mỹ phải ký Hiệp định Pari (1973), rút quân về nước. Mỹ đã “cút”,
nhưng ngụy chưa “nhào”. Với chiến lược “Việt Nam hóa chiến tranh”, đế quốc Mỹ
đã đổ đô-la, vũ khí và hệ thống cố vấn quân sự vào miền Nam Việt Nam, âm mưu
biến nơi đây thành thuộc địa kiểu mới của chúng. Để đánh cho “ngụy nhào”, đập
tan chiến lược “Việt Nam hóa chiến tranh” của đế quốc Mỹ, dưới sự lãnh đạo của
Đảng Cộng sản Việt Nam, quân và dân Việt Nam đã liên tục tiến công và nổi dậy
đánh tan hệ thống ngụy quân, ngụy quyền trên khắp miền Nam. Sau chiến thắng
Phước Long (1974), thời cơ giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước đã xuất
hiện rõ. Mùa Xuân 1975, cuộc Tổng tiến công và nổi dậy của quân và dân ta mở
đầu bằng đòn điểm huyệt Buôn Ma Thuột, phát triển đến chiến dịch Huế - Đà Nẵng
và kết thúc bằng Chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử. Ngày 30-4-1975, tổng thống của
cái gọi là Việt Nam cộng hòa Dương Văn Minh tuyên bố đầu hàng vô điều kiện,
miền Nam sạch bóng quân thù, đất nước Việt Nam hoàn toàn thống nhất. Thời khắc
này là mốc son chói lọi của thời đại Hồ Chí Minh trong lịch sử dựng nước và giữ
nước của dân tộc Việt Nam.
Điều này chắc Bùi Tín biết rõ và nhớ lắm. Ông ta trước đây từng nhận vơ là “sĩ
quan cao cấp, nhà báo đầu tiên vào dinh Độc Lập” mà(!) Và cũng chính ông ta đã
đăng nhiều bài viết trên Báo Quân đội nhân dân, Báo Nhân Dân để ca ngợi chiến
thắng của dân tộc Việt Nam.
Thế mà, bây giờ chính ông ta lại phủ nhận điều đó. Đây chỉ có thể là hành động
của những kẻ “trở cờ”, phản bội lại lợi ích của dân tộc, nhằm phục vụ cho những
thế lực chống cộng. Sau ngày Chiến thắng (30-4-1975), có không cái gọi là “cuộc
tắm máu”; sự ngược đãi những sĩ quan, nhân viên của chế độ cũ,… như Mỹ đã tuyên
truyền và đến giờ Bùi Tín “sủa lại”? Không, không và không bao giờ có điều đó! Những
luận điệu trên là phi thực tế, phi lịch sử, nhằm lừa bịp, kích động, bôi xấu
bản chất của chế độ mới - chế độ xã hội chủ nghĩa.
Thế giới có câu châm ngôn, đại thể là: ai bắn vào lịch
sử bằng súng lục, kẻ đó sẽ nhận ở tương lai bằng đại bác. Là một kẻ trở cờ,
phản bội dân tộc, xuyên tạc, bôi đen lịch sử, chà đạp lên anh linh của hàng
triệu người con ưu tú đã ngã xuống vì độc lập, thống nhất của dân tộc Việt Nam,
Bùi Tín đã và đang “cõng rắn, cắn gà nhà”, “rước voi dày mả tổ”, nhất định bị
nhân dân vạch mặt, lên án.
Minh Quân