MỐI QUAN HỆ GIỮA NGUYỄN ÁI QUỐC
VỚI PHAN BỘI CHÂU VÀ PHAN CHÂU TRINH
Văn Thành
1. Đọc các trang mạng từ
trước tới nay, thấy xuất hiện những bài viết xuyên tạc lịch sử, bôi nhọ vĩ
nhân, như bài “Hồ Chí Minh bán đứng Phan Bội Châu cho thực dân Pháp trên đất
Trung Hoa năm 1925” của Mường Giang; bài “Những sự thật không thể chối bỏ (Phần
8) – Ai đã bán đứng cụ Phan Bội Châu” của Đặng Chí Hùng...; rằng, “kẻ bán tin
cho Pháp bắt Phan Bội Châu để lấy tiền thưởng là Lâm Đức Thụ và Lý Thụy (bí
danh của Hồ Chí Minh lúc đó)” (bài của Mường Giang). Bài của Đặng Chí Hùng dẫn
lời trong một cuốn sách của người nước ngoài, cho rằng, “ông Hồ Chí Minh với bí
danh Lý Thụy lúc đó đã bán đứng cụ Phan cho nhà cầm quyền thực dân Pháp lấy
tiền”. Đặng Chí Hùng lại dẫn ra một cuốn sách khác cũng của người nước ngoài
viết, “rằng, Nguyễn Ái Quốc đã nhận 150 nghìn đồng bạc Đông Dương từ Pháp và
bán cụ Phan”. Rồi Đặng Chí Hùng dẫn ra những nhận định của người này, người kia
để chứng minh cho việc Lý Thụy đã bán đứng cụ Phan Bội Châu cho Pháp. Đây toàn
là những việc hồ đồ, vu vơ, không có thật, nhằm vu khống, bôi nhọ hình ảnh
Nguyễn Ái Quốc, hạ thấp uy tín của Nguyễn Ái Quốc trong cuộc hành trình của
Người đi tìm đường cứu nước.
Ở đây, tôi chưa bàn đến Lâm Đức Thụ
(Nguyễn Công Viễn), một phần tử cơ hội, phản bội trong tổ chức Hội Việt Nam
Cách mạng Thanh niên (Việt Nam Thanh niên Cách mạng đồng chí Hội, gọi tắt là
Thanh niên) mà Nguyễn Ái Quốc và những người lãnh đạo của Hội đã khai trừ ông
ta ra khỏi tổ chức.
Về nguyên nhân cụ Phan Bội Châu bị bắt đã
rõ ràng. Số là, vào năm 1912, tại Quảng Đông, Trung Quốc, Phan Bội Châu đứng ra
thành lập “Việt Nam Quang phục Hội”, một tổ chức yêu nước, chống Pháp, để thay
thế cho Duy Tân Hội và tiến cử Kỳ ngoại hầu Cường Để (Nguyễn Phúc Đan) làm Chủ
tịch Lâm thời của Việt Nam Quang phục Hội.
Sau khi được thành lập, Việt Nam Quang
phục Hội cử một số hội viên về nước để trừ khử một số viên chức Pháp và cộng sự
đắc lực của Pháp, nhằm “thức tỉnh hồn quốc dân”. Tại Việt Nam lúc này, các cuộc
bạo động bằng tạc đạn do Việt Nam Quang phục Hội thực hiện, tuy xảy ra lẻ tẻ,
nhưng vẫn khuấy động được dư luận trong và ngoài nước. Sự kiện này đã làm cho
chính quyền Đông Pháp theo dõi sít sao và tăng cường khủng bố, làm nhiều người
bị bắt và bị giết. Bị kết án chủ mưu, Phan Bội Châu và Cường Để bị thực dân
Pháp và Nam triều kết án tử hình vắng mặt. Năm 1913, chính quyền Đông Pháp cử
người đến Quảng Đông, gặp Tổng đốc Quảng Đông lúc bấy giờ là Long Tế Quang, yêu
cầu Long Tế Quang bắt Phan Bội Châu và các yếu nhân lúc ấy đang ở Quảng Đông. Ngày
24-12-1913, Phan Bội Châu bị bắt, nhưng
được một số người Việt Nam có uy tín và thiện chí lúc ấy đang hoạt động
ở Quảng Đông, can thiệp, cho nên Long Tế Quang không thể giao nộp Phan Bội Châu
cho Pháp. Chính quyền Pháp tức tối việc Long Tế Quang không chịu giao nộp Phan
Bội Châu cho Pháp, cho nên đã cử nhiều mật thám Pháp sang Quảng Đông lùng bắt
cho bằng được Phan Bội Châu, nhưng rút cục, Pháp vẫn chưa bắt được Phan Bội
Châu.
Được trả lại tự do, Phan Bội Châu tiếp tục
hoạt động yêu nước. Năm 1922, phỏng theo đường lối của Quốc dân Đảng Trung Hoa,
đứng đầu là Tôn Trung Sơn, Phan Bội Châu cải tổ Việt Nam Quang phục Hội thành
Đảng Quốc dân Việt Nam. Mật thám Pháp tại Quảng Đông lúc bấy giờ vẫn theo dõi
và dò la tung tích của Phan Bội Châu. Cuộc săn lùng Phan Bội Châu đã mang lại
kết quả: Ông bị Pháp bắt tại Thượng Hải, ngày 30-6-1925, mặc dù trước đó
(1912), Ông đã bị chính quyền Đông Pháp kết án vắng mặt. Phan Bội Châu bị giải
về nước. Ngày 23-11-1925, Hội đồng Đề hình của Pháp tại Hà Nội xử Phan Bội Châu
án khổ sai chung thân và muốn đưa ra giam tại Côn Đảo, nhưng vì có sự phản ứng
quyết liệt của quốc dân đồng bào, cho nên ngày 25-12-1925, Toàn quyền Đông
Dương Varenne, phải ký lệnh ân xá cho Phan Bội Châu và giam lỏng Cụ tại Bến
Ngự, Huế. Nhờ có số tiền 2 nghìn đồng bạc Đông Dương do đồng bào cả nước quyên
góp ủng hộ Phan Bội Châu, hai nhà chí sĩ Huỳnh Thúc Kháng và Võ Liêm Sơn đã mua
hai khoảnh đất tại Bến Ngự, Huế để xây nhà cho Phan Bội Châu ở và làm nghĩa
trang cho Phan Bội Châu sau khi Ông mất.
Trong những năm cuối đời, Phan Bội Châu
tuy bị quản thúc, vẫn miệt mài viết văn, làm thơ để cổ động cho tinh thần yêu
nước của nhân dân ta chống xâm lược, nên “Ông già Bến Ngự” vẫn được nhân dân
yêu mến.
Phan Bội Châu mất ngày 29-12-1940 (Canh
Thìn), tại Huế, thọ 73 tuổi (Cụ sinh ngày 26-12-1867 (Đinh Mão), tại làng Đan
Nhiễm, xã Nam Hòa, huyện Nam Đàn, tỉnh Nghệ An).
Khi Phan Bội Châu bị nhà cầm quyền Quảng
Đông bắt lần thứ nhất (năm 1913), tại Quảng Đông, thì Nguyễn Ái Quốc (lúc này,
Người chưa lấy tên là Lý Thụy như có người đã ngộ nhận) đang lênh đênh trên mặt
biển trong cuộc hành trình đi tìm đường cứu nước. Người đi sang tận các nước
châu Phi để quan sát tình hình và đến Luân Đôn, thủ đô nước Anh, vào cuối năm
1913. Ngày 3-12-1917, Người từ nước Anh trở lại nước Pháp và lần đầu tiên Người
đến thủ đô Paris. Người ở Paris từ năm 1917 đến năm 1923, thì tới Liên Xô…
Trong thời gian này, nhà yêu nước và cách mạng Nguyễn Ái Quốc cũng là nạn nhân
của sự truy lùng gắt gao của chính quyền Đông Pháp, đến nỗi Người phải liên tục
thay đổi họ, tên để tránh sự truy lùng đó.
Khi Phan Bội Châu bị Pháp bắt lần thứ hai
tại Thượng Hải vào năm 1925, thì Nguyễn Ái Quốc đang ở Quảng Châu, mở lớp huấn
luyện cho các thanh niên yêu nước Việt Nam, chuẩn bị về chính trị, tư tưởng, tổ
chức cho việc ra đời một chính đảng cách mạng ở Việt Nam.
Khi nghe tin Phan Bội Châu bị Pháp bắt,
Nguyễn Ái Quốc viết một bài báo dài, tố cáo gay gắt nhà cầm quyền Đông Pháp bắt
giam Phan Bội Châu và đòi Pháp phải thả ngay nhà yêu nước Phan Bội Châu. Bài
báo này được đăng trên tờ Le Paria (Người cùng khổ), số ra tháng 9 và tháng
10-1925. Bài báo ca ngợi Phan Bội Châu là “bậc anh hùng, vị thiên sứ, đấng xả
thân vì độc lập, được 20 triệu con người (dân số Việt Nam lúc bấy giờ là 20
triệu - VT) trong vòng nô lệ tôn sùng…”1.
Sự thật là như vậy. Nhưng một số người ác
ý, cố tình xuyên tạc, bóp méo lịch sử, vu khống cho Nguyễn Ái Quốc bán đứng
Phan Bội Châu cho Pháp. Kẻ bôi nhọ lịch sử sẽ phải chuốc lấy những hậu quả khôn
lường.
2. Trong
cuộc hành trình đi tìm đường cứu nước, Nguyễn Ái Quốc có mối quan hệ rất tốt
với Phan Bội Châu và Phan Châu Trinh, đánh giá các cụ là những nhà yêu nước
thương nòi. Người nói rằng, Phan Bội Châu và Phan Châu Trinh tuy chưa phải là
đồng chí, nhưng lại là đồng bào của chúng ta. Quan hệ giữa Nguyễn Ái Quốc với
Phan Bội Châu và Phan Châu Trinh là quan hệ của thế hệ yêu nước trước với thế
hệ của bậc yêu nước sau. Khâm phục lòng ái quốc của Phan Bội Châu và Phan Châu
Trinh, nhưng Nguyễn Ái Quốc cho rằng, chủ trương cách mạng của các cụ sẽ không
đánh đổ được chế độ thực dân Pháp ở Đông Dương, trong khi đó, vấn đề đặt ra cho
nhân dân Việt Nam lúc bấy giờ là phải đánh đổ chế độ thực dân Pháp ở Đông
Dương. Quan điểm dựa vào đế quốc này để đánh đế quốc kia thống trị Đông Dương
và quan điểm thuyết phục chính quyền Đông Pháp thay đổi chính sách, cải cách hệ
thống quan lại Nam triều mục nát, tham nhũng và bất lực, mở rộng dân chủ và
nâng cao dân trí với ý định là khi dân trí được nâng cao, tinh thần tự cường
tốt, thì Việt Nam sẽ mạnh lên, và khi đó, đất nước sẽ giành được độc lập, đều
không mang lại kết quả, vì chính quyền Đông Pháp lúc bấy giờ không bao giờ chấp
nhận những chính sách gây nguy cơ đe dọa đến việc cai trị thuộc địa của họ, cho
nên chủ trương đó không mang lại thành công. Vì vậy, vấn đề đặt ra lúc bấy giờ
là phải phát huy được tinh thần yêu nước và đoàn kết của nhân dân, lấy hai giai
cấp cơ bản của cách mạng là công nhân và nông dân làm lực lượng nòng cốt, do
Đảng Cộng sản lãnh đạo, phải làm cuộc cách mạng toàn diện và triệt để, thì mới
có thể đánh đổ được đế quốc xâm lược Việt Nam và phong kiến Nam triều. Còn
trong quá trình cách mạng, thì phải tùy theo từng hoàn cảnh, từng thời kỳ, giai
đoạn mà có thể kết hợp giữa đấu tranh chính trị, quân sự với ngoại giao, nhưng
phải lấy đấu tranh vũ trang là chủ yếu để giành chính quyền về tay nhân dân.
Nguyễn Ái Quốc đã làm được điều này và đã thành công.
Phan Bội Châu cũng rất khâm phục tinh thần
yêu nước và cứu nước của Nguyễn Ái Quốc. Phan Bội Châu đã có cái nhìn đúng về
Nguyễn Ái Quốc. Ở vùng Nghệ An lúc bấy giờ, người ta đã lưu truyền câu sấm của
Trạng Trình: “Đụn Sơn phân giải/ Bò Đái thất thanh/ Nam Đàn sinh thánh” (Khi
núi Đụn nứt ra làm đôi/ khe Bò Đái mất tiếng/nước sông Lam chảy vào chân núi
Lam Thành/ đất Nam Đàn sẽ sinh ra bậc thánh nhân). Sau khi có cao trào cách
mạng Xôviết Nghệ Tĩnh năm 1930-1931, câu sấm này lại được nhắc lại trong dư
luận người dân miền Trung. Lúc đó, khe Bò Đái cũng đã ngừng chảy và không còn
tiếng suối reo và núi Đụn cũng nứt ra, làm cho mọi người càng tin và chờ đợi sẽ
xuất hiện vị thánh nhân ở vùng này. Chuyện kể rằng, có lần nhà sử học Đào Duy
Anh và nhà nho Trần Lê Hữu đến thăm cụ Phan Bội Châu lúc ấy đang an trí tại
Huế. Hai nhà trí thức có hỏi cụ Phan Bội Châu, rằng: “Thưa cụ Phan, “Bò Đái thất
thanh, Nam Đàn sinh thánh” chẳng phải là vận vào Cụ hay sao?”. Phan Bội Châu
trả lời: “Kể cái nghề cử tử xưa kia, tôi cũng có tiếng thật. Dân ta thường
trọng người văn học và gán cho người ta tiếng nọ, tiếng kia. Nhưng nếu Nam Đàn
có thánh thực, thì chính là ông Nguyễn Ái Quốc, chứ chẳng phải ai khác”2.
Qua đó, thấy rằng, Phan Bội Châu rất trân trọng Nguyễn Ái Quốc, cho dù cụ Phan
là bậc cha chú của Nguyễn Ái Quốc.
Với cụ Phan Châu Trinh cũng vậy. Tuy Cụ
cũng là bậc cha chú của Nguyễn Ái Quốc, nhưng Cụ rất tôn trọng những chính kiến
của Nguyễn Ái Quốc. Nguyễn Ái Quốc gặp cụ Phan Châu Trinh tại Paris vào khoảng
năm 1918 và những năm sau, sau khi Nguyễn Ái Quốc từ Luân Đôn, Anh đến Paris,
Pháp.
Trong thời gian Nguyễn Ái Quốc ở Paris,
thì xảy ra việc Pháp đánh Nga. Sự kiện này, gây xôn xao dư luận nước Pháp. Báo
chí Pháp cập nhật đưa tin về việc Pháp đánh Nga. Phái chủ chiến Clêmăngsô gào
to: “Đánh!”, “Đánh!”. Phái chủ hòa như các nghị sĩ Mácsen Casanh, Alếchxăngđrơ,
Écnét Laphông, Briđông,… thì hô lớn: “Đả đảo chiến tranh!”. Tin tức binh lính
Pháp phản chiến giội về Paris, gây xúc động mạnh trong nhân dân Pháp. Lúc ấy,
có người thợ máy Việt Nam tên là Tôn Đức Thắng làm việc trên tàu Phơrăngxơ,
dũng cảm kéo lá cờ đỏ trên tàu, tỏ rõ ý chí ủng hộ nước Nga Xôviết. Việc làm có
tính chất nghĩa cử của nhà hoạt động quốc tế – cách mạng Tôn Đức Thắng trên
biển Đen năm 1919, thật phù hợp với hoạt động của Nguyễn Ái Quốc phản đối nhà
cầm quyền Pháp không được tiến công nước Nga. Biển Đen – Paris, một khoảng trời,
hai con người Việt Nam, tuy chưa một lần gặp mặt, nhưng đều có chung một cảm
tình với nước Nga cách mạng. Tình cảm của Nguyễn Ái Quốc đối với nước Nga cách
mạng luôn luôn chân thành và mãnh liệt. Người muốn mở rộng tầm nhìn, từ chỗ
muốn giải phóng một dân tộc đến chỗ muốn giải phóng cả nhân loại cần lao. Người
muốn đổi mới thế giới bằng việc ủng hộ nước Nga cách mạng. Đi trên đường phố
Paris, Người tâm sự với một người bạn Pháp tên là Giắc Đuyclô: “Giắc ơi, cách
mạng Nga đang bị tấn công. Nhưng nó sẽ chiến thắng mọi kẻ thù!”3.
Lời tiên đoán của Nguyễn Ái Quốc được chứng minh là đúng khi đoàn chiến hạm
Pháp rút khỏi Xêvátxtôpôn vào ngày 21-4-1919 để trở về Pháp, chấm dứt cuộc can
thiệp vào nước Nga.
Năm 1919, Người cùng với một số nhà yêu
nước Việt Nam tại Pháp, ký bản “Yêu sách của nhân dân An Nam” tới Hội nghị
Vécxây, đòi quyền dân sinh, dân chủ cho nhân dân Việt Nam.
Nghĩ đến cuộc đấu tranh giải phóng dân
tộc, Nguyễn Ái Quốc luôn luôn hướng về đất nước Việt Nam yêu dấu của mình. Nhân
sự kiện Vécxây và sự kiện các nước đế quốc tấn công nước Nga cách mạng, Nguyễn
Ái Quốc càng nghĩ đến Tổ quốc Việt Nam. Làm thế nào để đưa nhân dân nước mình
thoát khỏi cảnh lầm than, được giải phóng, được làm người, đúng với nghĩa của
nó? Câu hỏi này làm Người trăn trở. Người nhiều lần mang vấn đề giải phóng Tổ
quốc Việt Nam ra bàn bạc, trao đổi với một số người Việt Nam lúc ấy như Phan
Châu Trinh, Phan Văn Trường, Khánh Ký,… Trong cuộc đàm luận ngày ngày
19-12-1919, Nguyễn Ái Quốc phàn nàn việc nhà cầm quyền Pháp ở Đông Dương tiếp
tục chính sách ngu dân, bằng cách không cho mở mang trường học. Theo Người,
chừng nào nhân dân Đông Dương không được hưởng nền giáo dục bắt buộc và báo chí
không được tự do nói lên một điều suy nghĩ, thì việc giáo hóa các dân tộc Đông
Dương không thể tiến hành một cách hiệu quả, nhanh chóng, và vì vậy, đời sống
tinh thần của họ sẽ không được cải thiện. Nguyễn Ái Quốc than vãn với Phan Châu
Trinh, rằng, tại sao 20 triệu đồng bào chúng ta lại không làm gì để buộc Chính
phủ Pháp phải trả lại cho chúng ta quyền làm người. “Chúng ta là người, chúng
ta phải được đối xử như con người. Tất cả những ai không muốn coi chúng ta như
đồng loại với họ, những người bình đẳng với họ, đều là kẻ thù của chúng ta.
Chúng ta không được chung sống với họ trên cùng một trái đất này”4.
Khác với quan điểm của Nguyễn Ái Quốc,
quan điểm của Phan Châu Trinh thiên về cải lương, cho rằng, liệu đồng bào ta sẽ
làm gì được, “khi trong tay không có vũ khí chống lại những súng ống khủng
khiếp của người Âu”5. Vẫn giữ quan điểm như năm 1906 đã công bố,
Phan Châu Trinh muốn đưa nhân dân Việt Nam vào nền văn minh, ngang hàng với
Nhật Bản, bằng cách “đấu tranh nói”, đề nghị Chính phủ Đông Pháp “có chế độ
nhân quyền để cứu vớt dân chúng ra khỏi sự lộng hành và lạm quyền do sự chuyên
chế của quan lại và viên chức Pháp mà họ là nạn nhân; cải tổ thôn, xã, làm sao
ngăn ngừa được các hào lý không lộng hành và lạm quyền trên lưng người dân.
Cuối cùng là thay thế các quan lại già bằng những người trẻ từng được tiếp thụ
học vấn trong các nhà trường Pháp, đồng thời, lại biết chữ nho”6.
Phan Châu Trinh khao khát một cuộc cải
cách không đổ máu ở Đông Dương. Nhưng nhà ái quốc ấy cũng tiên đoán rằng, rồi
đây, máu sẽ chảy, dân Đông Dương sẽ chết vì bạo lực sẽ xảy ra. Ông nắm chắc
điều đó và cũng đau xót về điều đó.
Nguyễn Ái Quốc phê phán mạnh mẽ quan điểm
“đấu tranh bằng lời” của Phan Châu Trinh. Người cho rằng, dân tộc ta phải chờ
đợi sự thay đổi đã 60 năm nay. Nhưng Chính phủ Pháp không những không đáp ứng
được sự thỉnh cầu của nhân dân, mà còn trả lời họ bằng roi vọt, lưỡi lê, máy
chém, súng đạn, nhà tù, lưu đày và tử hình. Người thưa với Phan Châu Trinh:
“Nếu Bác luôn luôn tin cậy vào sự quan tâm của Chính phủ (Pháp) để cải thiện
mọi tình trạng hiện nay, thì Bác phải đợi đến muôn đời”7. Trước mặt
Phan Châu Trinh, Nguyễn Ái Quốc căm phẫn tố cáo chế độ thực dân Pháp ở Đông
Dương: “Khi người ta không muốn đối xử với chúng ta như những con người, thì
thật là vô ích, khi phải sống hèn hạ và bị lăng nhục trên trái đất này. Chừng
nào người ta tước mất của chúng ta quyền công dân và chính trị, thì người ta
vẫn tiếp tục coi chúng ta như kẻ thù, như nô lệ”8. Nguyễn Ái Quốc
khẳng định rằng, với chủ nghĩa thực dân, chúng ta không thể ngồi “bàn suông” về
một sự giải phóng. Vấn đề là phải tổ chức nhân dân đấu tranh. Trước khí tiết
của Nguyễn Ái Quốc và nghị lực phi thường của Người đã làm cho Phan Châu Trinh
cảm động. Phan Châu Trinh ngày càng nhận rõ gương mặt của Nguyễn Ái Quốc. Cụ
thấy mình đuối sức trong khi thấy trí tuệ của Nguyễn Ái Quốc ngày càng cường
tráng. Sau này, vào năm 1922, Phan Châu Trinh viết thư cho Nguyễn Ái Quốc:
“Cảnh tôi như hoa sắp tàn, hiềm vì quốc phá gia phong, mà hơi tàn cũng phải gào
cho hả dạ, may ra có tỉnh giấc hôn mê. Còn Anh như cây đương lộc, nghị lực có
thừa, dày công học hỏi, lý thuyết tinh thông. Tôi cầu chúc cho Anh thành công
và hy vọng thấy mặt nhau ở quê hương xứ sở”9. Sự chia tay về con
đường cứu nước với Phan Châu Trinh càng thúc đẩy Nguyễn Ái Quốc hoạt động hăng
hái. Trước mặt Người là sự nghiệp giải phóng Việt Nam, Tổ quốc yêu dấu của
Người và của nhân dân.
Đấy, sự thật về con đường cứu nước của
Nguyễn Ái Quốc, Phan Bội Châu, Phan Châu Trinh là như vậy. Tiếc thay, có một số
người cố tình xuyên tạc lịch sử, bóp méo sự thật, làm cho người ta hiểu sai đi về
nhà yêu nước và cách mạng Nguyễn Ái Quốc. Vì vậy, cần phải lên án những người
cố tình bôi nhọ lịch sử.
Có một nhà thông thái đã viết: “Nếu anh
bắn vào quá khứ bằng súng lục, thì tương lai sẽ bắn vào anh bằng đại bác”10.
------
1. Hồ Chí Minh Toàn tập, tập 2, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011,
tr. 185.
2.
Website: VTC News, ngày 30-9-2015.
3.
G.Đuyclô: Những ngày Paris, in trong
cuốn “Bác Hồ ở Pháp”, Nxb Văn học, Hà Nội, 1970, tr.25.
4.
Báo cáo của mật thám Pháp Êđua (Edouard)
về Nguyễn Ái Quốc năm 1919, Tạp chí Lịch sử Đảng, số tháng 3-1983,
tr.65,66,67.
5.
Báo cáo của mật thám Pháp Êđua (Edouard)
về Nguyễn Ái Quốc năm 1919, đã dẫn.
6.
Báo cáo của mật thám Pháp Êđua (Edouard)
về Nguyễn Ái Quốc năm 1919, đã dẫn.
7.
Báo cáo của mật thám Pháp Êđua (Edouard)
về Nguyễn Ái Quốc năm 1919, đã dẫn.
8.
Báo cáo của mật thám Pháp Êđua (Edouard)
về Nguyễn Ái Quốc năm 1919, đã dẫn.
9.
Trích “Thư của Phan Châu Trinh gửi Nguyễn Ái Quốc”, ngày 18-12-1922. Tài liệu
lưu trữ tại Viện Hồ Chí Minh và các lãnh tụ của Đảng.
10.
Raxun Gamzatốp: Đaghextancủatôi,
quyển 1, Nxb Cầu Vồng (Liên Xô), năm 1984, tr. 9.