@PGS.TS Phạm Văn
Chúc
1.
Phải chăng chưa có và không thể có CNXH ?
Gần đây một số người có ý kiến cho
rằng: theo Mác, công cụ lao động (CCLĐ) là cái quan trọng nhất, quy định QHSX,
PTSX, HTKT-XH. Cây gậy và chiếc cung tên sinh ra xã hội CXNT, cái cuốc sinh ra
xã hội CHNL, chiếc cày sinh ra xã hội PK, và máy hơi nước sinh ra xã hội TBCN. Nhưng
chính Mác và Lê-nin lại xác định, CNXH cũng dựa trên nền đại công nghiệp
giống như CNTB. Tức là, đã có hai HTKT-XH trên cùng một trình độ CCLĐ.
Như vậy, Mác và Lê-nin
đã không nhất quán, tự mâu thuẫn với chính mình. Nếu theo đúng học thuyết
HTKT-XH, thì CNXH phải có cơ sở CCLĐ khác, cao hơn đại công nghiệp. Thế mà Liên
Xô, Đông Âu thời kỳ 1917 – 1991 trước đây đều có CCLĐ, LLSX, NSLĐ, mức sống,
thu nhập bình quân đầu người… không những không hơn, mà thậm chí lại còn kém xa
những nước TBCN tiên tiến phương Tây. Do đó, các nước được gọi là XHCN từ trước
đến nay, thật ra đều chưa phải là CNXH và cũng không thể đi lên CNXH được.
Mặt khác, hàng trăm năm đã qua từ Mác, Lê-nin
và trong một thời hạn chắc chắn là không ngắn nữa, các nước phương Tây đã, đang
và vẫn sẽ là TBCN. Không những thế, chúng còn tiếp tục phát triển ngày càng
cao, mà không hề “giãy chết” (hay cho dù chỉ là “đang chết dần đi”) như Lê-nin
nhận định. CNTB thế giới nói chung vẫn không ngừng đi lên, mà chưa hề bước vào
giai đoạn tột cùng của nó. Một loại CCLĐ mới cao hơn đại công nghiệp cơ khí,
cũng chưa xuất hiện.
Cho nên, trong bối cảnh
ấy của CNTB tất cả những nước còn lại, nhất là các nước kém hoặc đang phát
triển, tất yếu đều phải đi theo con đường TBCN, hội nhập vào quỹ đạo của CNTB do
phương Tây dẫn đầu. Mục tiêu CNXH không hề tồn tại, và là hoàn toàn không thực
tế, không cần thiết đối với bất kỳ nước nào. Con đường XHCN là vô vọng, vô ích,
bất khả thi. Từ trước đến nay không những chưa có CNXH thực sự ở
bất kỳ đâu. Mà ngay cả trong tương lai xa cũng không xuất hiện khả năng, điều
kiện cho nó ra đời, tức là không thể có CNXH. Bởi vậy, cần từ bỏ mục tiêu, con
đường đi lên HTKT-XH XHCN, CSCN xa xôi, mơ hồ, vô căn cứ, để hướng tới mục tiêu
thiết thực, chắc chắn về “sự phát triển” ở các mức độ cao, hay thấp cụ thể khác
nhau, thích hợp với từng quốc gia, dân tộc. Mà điều này thực chất chính là hướng
tới mục tiêu, con đường CNTB, một chế độ xã hội có cơ sở kinh tế - kỹ thuật đầy
đủ, tương ứng và còn giàu tiềm năng cách tân, sáng tạo, tăng trưởng, phát triển
mạnh mẽ (!).
Dưới đây sẽ xem xét kỹ hơn, để chỉ
rõ sai lầm của những ý kiến trên cả về học thuật lẫn về thực tế.
2.
Công cụ lao động trong PTSX
CCLĐ chỉ là sản phẩm hoạt động của
chủ thể người lao động (NLĐ). Mác nói đến CCLĐ của NLĐ nhất định, không phải
CCLĐ bất kỳ, tự thân, chung chung. CCLĐ tách khỏi NLĐ, thì chưa phải là thành
tố của sản xuất. Bản thân CCLĐ không quy định cái gì khác, càng không quy định NLĐ.
Tính độc lập của nó đối với NLĐ chỉ là tương đối. Nó chỉ trở thành CCLĐ đúng
nghĩa, khi gắn với NLĐ nhất định cụ thể tương ứng.
Mối quan hệ giữa NLĐ với giới tự
nhiên được thực hiện thông qua CCLĐ và bằng CCLĐ. CCLĐ đó gắn liền với chủ thể
NLĐ, là năng lực chinh phục, cải tạo giới tự nhiên vốn tiềm ẩn bên trong họ, đã
vật thể hóa ra bên ngoài. Khi được NLĐ tạo ra, CCLĐ trở thành “khí quan” của họ
trong quá trình lao động sản xuất, được họ sử dụng, phù hợp và tương thích với
họ. CCLĐ trong trạng thái tĩnh tại, bất động, tách rời NLĐ, chỉ còn là khối vật
thể thuần túy.
Nhưng ngay cả khi gắn với NLĐ, CCLĐ
cũng chỉ có thể góp phần cùng với họ tạo nên một trình độ kinh tế - kỹ thuật cụ
thể nhất định của LLSX, mà không trực tiếp quy định bản chất kinh tế - xã hội
của QHSX. Toàn bộ LLSX nói chung, như một hệ thống các nhân tố hợp thành, bao
gồm CCLĐ, đối tượng lao động, phương tiện lao động, và trước nhất là NLĐ, mới
chính là cái trực tiếp quy định bản chất kinh tế - xã hội của QHSX, PTSX. Trong
hệ thống chung của LLSX, chính NLĐ với tất cả các thế hệ hiện tại và trước đó
kế tiếp nhau là chủ thể chân chính đích thực tạo ra, quyết định CCLĐ. Ngay cả
những CCLĐ có sẵn và có trước NLĐ, thì cũng không chi phối họ hoàn toàn. Bởi
vì, chúng vẫn chỉ là kết quả của các thế hệ NLĐ đi trước.
CCLĐ và NLĐ được nói đến ở đây không phải là CCLĐ và NLĐ
lắp ghép tùy tiện, gò ép, ngẫu nhiên với nhau. Đó là một tổng thể hoàn chỉnh
kết hợp, tổng hợp thống nhất, đồng bộ, chặt chẽ giữa NLĐ với CCLĐ. NLĐ nào thì
có CCLĐ ấy tương ứng, và ngược lại. CCLĐ của người công nhân công nghiệp thế kỷ
XXI đương nhiên không thể là cái rìu đá. Một dây chuyền máy tự động không phải
là CCLĐ cho người tiền sử. NLĐ của một nền sản xuất lạc hậu có thể có được CCLĐ
tiên tiến nhờ sự giúp đỡ, viện trợ từ bên ngoài (như Mông Cổ trong giai đoạn
1921 – 1991). Hoặc ngược lại, NLĐ của nền sản xuất phát triển cao có thể phải
sử dụng CCLĐ lạc hậu, khi bị mất cơ sở kinh tế - kỹ thuật tiên tiến vì thiên
tai, chiến tranh (như Đức, Nhật sau 1945). Nhưng đây chỉ là trường hợp ngoại
lệ, không có ý nghĩa phổ biến.
QHSX giữa những NLĐ với nhau phù hợp
tất yếu với mối quan hệ giữa họ với tự nhiên, do mối quan hệ này quy định.
Nhưng không phải là chỉ riêng CCLĐ tự thân, tự động “quy định” QHSX. Trên thực tế,
chính là NLĐ tự mình chủ động xác lập quan hệ kinh tế - xã hội của mình, nhưng tất
nhiên không tùy tiện mà căn cứ vào điều kiện kinh tế - kỹ thuật hiện thực khách
quan của họ. Mác đã từng viết: “sở hữu là hậu quả tất yếu của những công cụ sản
xuất hiện có”, “công nghiệp lớn xóa bỏ sở hữu tư nhân” (1). Nhưng thật ra đây chỉ
là một cách diễn đạt vắn tắt, ngắn gọn của ông về LLSX nói chung bao gồm cả CCLĐ
lẫn NLĐ. Bất cứ CCLĐ nào, theo đúng nghĩa là CCLĐ thực sự chứ không phải chỉ là
những trang thiết bị, vật tư đơn thuần, cũng đều luôn luôn gắn liền với/ và thuộc
về NLĐ nhất định, chứ không thể là “vô chủ”.
Nếu coi “CCLĐ quy định QHSX”, thì đó là sự lẫn
lộn về nguyên tắc. Cái quy định QHSX ở đây vẫn là NLĐ với CCLĐ, tức là những bộ
phận hợp thành chính của LLSX. Đó là, thứ nhất, NLĐ có sử dụng CCLĐ, chứ không
phải chỉ có hai bàn tay trắng và khối tri thức, thông tin trong đầu óc dù to
lớn sâu sắc đến bao nhiêu. Và thứ hai, CCLĐ có mối liên hệ gắn kết, tương hợp
với NLĐ, được họ vận hành trong lao động sản xuất, chứ không phải chỉ là khối
vật thể, vật chất – kỹ thuật riêng biệt dù tiên tiến, hiện đại đến đâu.
3.
CCLĐ trong HTKT-XH
Các CCLĐ được nêu trên đã thật sự
tiêu biểu, đặc trưng cho những HTKT-XH tương ứng chưa? Chẳng hạn, ở phương Tây thời
phong kiến trung cổ, CCLĐ điển hình là chiếc cối xay gió, chứ không phải là cái
cày. Nhưng ngay trong thời đại của mình những chiếc cối xay ấy, mà nay cgawngr
hạn vẫn còn lại như một di tích lịch sử đặc sắc ở miền đồng quê Hà Lan, cũng
mang đậm ý nghĩa biểu tượng hơn là vai trò thực tế. Vậy thì tiêu chí của các
CCLĐ đặc thù, phân biệt những HTKT-XH ấy là gì? Có phải là trình độ, chất
lượng, hàm lượng kỹ thuật - công nghệ trực tiếp, đơn thuần của các CCLĐ này?
Hay là quy mô, mức độ, hiệu quả xã hội hóa đối với nền sản xuất mà chúng tạo
ra, từ đó làm thay đổi bản chất kinh tế - xã hội của QHSX?
Theo Mác, tuy LLSX, mà trong đó
thành tố quan trọng hơn không phải là CCLĐ mà là NLĐ, trực tiếp quy định QHSX.
Song cái trực tiếp quy định bản chất kinh tế - xã hội của PTSX, HTKT-XH lại
không phải là LLSX, mà chính là QHSX. LLSX chỉ trực tiếp quy định bản chất kinh
tế - kỹ thuật của PTSX, HTKT-XH mà thôi (2). Bởi vậy, ở đây rất cần trở lại với
thực chất tư tưởng, văn cảnh cụ thể của những luận điểm của Mác, Ăng-ghen,
Lê-nin một cách đầy đủ, nghiêm túc, thay vì chỉ dẫn ra một số câu trích từ
những tác phẩm đồ sộ, rộng lớn của các ông (3).
Hơn nữa, cái gậy, chiếc cung tên,
cái cuốc, cái cày, hoặc kể cả cối xay gió đều chỉ là những CCLĐ thủ công. Điểm
khác biệt của cái cày dùng sức kéo đại gia súc, hay chiếc cối xay gió lợi dụng
sức gió với cái cuốc, cái gậy, chiếc cung đều không đáng kể về chất. Những
nguồn động lực cung cấp cho thao tác lao động sản xuất này, dù nhỏ hay lớn,
thậm chí còn là rất lớn, vẫn có nhiều hạn chế (4). Vậy mà theo ý kiến trên, các
CCLĐ cùng một trình độ thủ công ấy lại tạo ra đến ba HTKT-XH khác biệt nhau.
Còn máy hơi nước là CCLĐ cơ khí hoàn toàn khác về chất, thì lại chỉ tạo ra được
duy nhất CNTB. Còn HTKT-XH mới XHCN, cũng theo họ, thì lại phải dựa trên cơ sở
một CCLĐ khác cao hơn đại công nghiệp! Thử hỏi, nếu CCLĐ thủ công đã có thể làm
cơ sở chung cho ba HTKT-XH, thì tại sao CCLĐ cơ khí lại không thể tạo ra hơn
một HTKT-XH?
Cho nên, cơ sở của CNXH không phải
là một nền kinh tế - kỹ thuật, CCLĐ mơ hồ, trừu tượng, mà vẫn là một nền sản
xuất vật chất phát triển cao. Nó bao gồm một số ngành, lĩnh vực công nghiệp,
hoặc kể cả ngoài công nghiệp mới nào đó. Nhưng chúng vẫn gắn với công nghiệp và
không thay thế công nghiệp. Một
nền công nghiệp mới trong tương lai với trình độ cao hơn hiện nay, sẽ tạo nên CCLĐ,
cơ sở kinh tế - kỹ thuật đặc thù, tiêu biểu cho CNXH, CNCS. Về mặt nguyên tắc,
có thể nói như vậy và cũng chỉ có thể nói thế thôi. Ngay từ bây giờ đòi hỏi đã
phải chỉ ra được cụ thể CCLĐ ấy là gì, thì chính là điều phi lịch sử, phi thực
tế. Điều đó sẽ khó tránh khỏi hoặc rơi vào quan điểm tư biện, chủ quan, không
luận chủ nghĩa, hoặc chuyển sang tư duy khoa học viễn tưởng kiểu Giuyn-lơ
Véc-nơ.
Khi nói về xã hội tương lai, Mác tránh đi vào
sự mô tả chi tiết mà chỉ khẳng định rõ: CNCS nảy sinh không phải từ hư vô mà từ
CNTB. CNTB tiêu biến cũng không phải vào hư vô mà để lại “những dấu vết” trong CNCS.
Do đó, giữa chúng tất yếu có một “thời kỳ quá độ chính trị” (TKQĐCT, TKQĐ
như lâu nay thường được gọi tắt) với nhà nước là “nền chuyên chính cách mạng
của giai cấp vô sản” (5).
Một CCLĐ cụ thể đặc trưng theo một ý
nghĩa tương đối cho CNXH, CNCS có thể đến trình độ phát triển cao của HTKT-XH
này mới xuất hiện. Nhưng khi ấy nó cũng vẫn chỉ là kết quả, chứ không phải là
nguyên nhân của HT đó. Mác – Ăng-ghen đã luận giải sâu sắc rằng, ngay từ nửa
sau thế kỷ XIX, nền đại công nghiệp đã bắt đầu vượt qua chế độ tư hữu và cơ chế
cạnh tranh tự do TBCN. Khi ấy, với CCLĐ này đã bắt đầu có thể xác lập chế độ sở
hữu và sự quản lý chung của toàn xã hội đối với nền sản xuất, tức là QHSX CSCN
(6).
Như vậy, cách tiếp cận mối quan hệ
CCLĐ (quy định)/ HTKT-XH trong ý kiến đã nêu ở trên, là vừa thiếu chính xác, thiếu
chặt chẽ vừa không hợp lý, nhất quán. Các CCLĐ đã nêu đều không đặc trưng, theo
nghĩa là nguyên nhân quyết định cuối cùng, cho những HTKT-XH. Nhiều lắm chúng
cũng chỉ biểu đạt các kiểu loại, dạng thức xã hội nào đó nhất định. Nhưng đó không
phải là những xã hội được nhìn nhận, nắm bắt, tiếp cận theo tiêu chí HTKT-XH
mang tính tổng hợp, đồng bộ, hệ thống, cân đối của CNM-LN. Tức là, đó hoàn toàn
không phải là những HTKT-XH.
Tóm lại: 1) CCLĐ không trực
tiếp và hoàn toàn quy định NLĐ, QHSX, PTSX, HTKT-XH; 2) LLSX cũng không trực tiếp
và hoàn toàn quy định PTSX, HTKT-XH; 3) Nền đại công nghiệp giữa thế kỷ XIX đã có
thể trở thành cơ sở kinh tế - kỹ thuật ban đầu cho CNXH, mặc dù bản thân CCLĐ
hùng mạnh này kể từ đó đến nay vẫn tiếp tục phát triển lên những trình độ mới
ngày càng cao hơn trong CNTB; 4) Chính vì vậy, một kết luận lô-gíc hoàn toàn
phù hợp với lịch sử được rút ra ở đây là, xét trong cả tiến trình đi từ CNTB
lên CNXH ở một số nước nhất định, thì giai đoạn đầu tiên của tiến trình này có
thể thấp hơn về CCLĐ, LLSX, cơ sở kinh tế - kỹ thuật,… so với các nước phương
Tây và kể cả một số nước TBCN khác phát triển cao hơn cùng thời.
4. CNTB, CNXH, TKQĐ lên CNXH
CNXH đương nhiên
là cao hơn về mọi mặt, trước hết là về kinh tế kể cả so với CNTB phát triển tới
đỉnh điểm. Nhưng TKQĐ “lâu dài, khó khăn” từ CNTB nói chung trực tiếp lên CNXH, nhất là chặng đầu
của TKQĐ đó, có thể không cao hơn mà thậm chí còn thấp hơn CNTB đỉnh cao. Đặc
biệt, đối với TKQĐ từ điểm xuất phát tiền TBCN nửa trực tiếp, hoặc gián tiếp
lên CNXH, thì chặng đầu thấp hơn CNTB sẽ còn lâu dài, khó khăn gấp bội, và đây là
điều tất yếu.
TKQĐ từ CNTB trực tiếp lên CNCS nhìn chung cao hơn
CNTB đã đạt đến đỉnh điểm. Tuy nhiên, đỉnh điểm về lô-gíc và về lịch sử trên
thực tế không trùng nhau về thời gian, không gian. Quy luật kinh tế cơ bản của CNTB
bắt đầu phát huy tác động đầy đủ và chi phối, thống trị tuyệt đối sớm hơn rất
nhiều so với thời điểm xã hội TBCN kết thúc. Cái lịch sử kéo dài sự tồn tại quá
thời rất lâu, sau khi cái lô-gíc đã hoàn tất. CNTB có thể phát triển cao sớm nhất
ở một quốc gia, dân tộc này, nhưng lại bị thay thế trước tiên ở một quốc gia,
dân tộc khác. Trên thực tế, CNTB xuất hiện mầm mống kinh tế đầu tiên ở
I-ta-li-a thế kỷ XIV; xác lập chế độ nhà nước hoàn chỉnh sớm nhất ở Hà-lan thế
kỷ XVI, ở Anh thế kỷ XVII; thực hiện các cuộc cách mạng tư sản điển hình triệt
để ở Pháp năm 1789, ở Mỹ năm 1776.
Cho nên, tại một số nước TBCN đạt
đến đỉnh điểm lô-gíc, tuy không phát triển cao nhất nhưng đã bắt đầu TKQĐ, thì
CNTB ở đây cũng kết thúc cả về mặt lịch sử. Trong khi đó, tại một số nước TBCN
khác, tuy phát triển cao nhất nhưng chưa đi vào TKQĐ, thì sự phát triển lịch sử
của CNTB vẫn tiếp diễn. Lúc này, so với những nước thứ hai, thì những nước thứ
nhất vẫn sẽ thấp hơn về mặt kinh tế, nhất là trong giai đoạn đầu của TKQĐ. Chỉ
đến giai đoạn cuối của TKQĐ, thì về mọi mặt chúng mới hoàn toàn vượt qua CNTB.
Mác – Ăng-ghen cũng đã lần đầu tiên
đề cập tới khả năng về TKQĐ từ xã hội tiền TBCN không hoàn toàn trực tiếp, mà nửa trực tiếp đi lên CNCS bỏ qua giai
đoạn phát triển TBCN. Ở đây nước lạc hậu được nước TBCN tiên tiến phương Tây
giúp đỡ về cơ sở kinh tế - kỹ thuật. Chúng tác động qua lại lẫn nhau và cùng đi
vào TKQĐ (7). Trong trường hợp này, giai đoạn đầu của TKQĐ ở nước lạc hậu thấp
hơn CNTB rõ rệt về CCLĐ, kinh tế.
Khả năng về TKQĐ nửa trực tiếp được
Mác – Ăng-ghen khái quát từ thực tế nước Nga Sa hoàng đương thời và liên hệ với
một tiền lệ lịch sử có ý nghĩa tham chiếu gợi mở lớn. Tiền lệ ấy được hai ông
quan tâm ngay từ giữa những năm 1840, đề cập nhiều lần trong suốt thời gian về
sau. Đó là trường hợp người Giéc-manh thời cổ đại ở Tây Âu, đã từ xã hội CXNT
quá độ nửa trực tiếp lên xã hội PK bỏ qua giai đoạn phát triển CHNL (8). Cùng
tham gia vào bước quá độ này là người La Mã đã đạt tới trình độ cao của xã hội
CHNL.
Kế
thừa và phát triển Mác – Ăng-ghen, trong thời đại mình Lê-nin nêu lên và hiện thực hóa ở nước
Nga lý luận về TKQĐ từ các quốc gia dân tộc lạc hậu tiền TBCN riêng biệt, gián tiếp lên CNXH bỏ qua chế độ TBCN. Nội
dung cơ bản cốt lõi của lý luận này là
sử dụng kinh tế TBCN để xây dựng, phát triển LLSX cho CNXH, tức là chính sách
kinh tế mới (NEP). Tuy nhiên, khi gặp tình thế chiến tranh quân sự khẩn cấp,
khó khăn, có thù trong giặc ngoài, sự phản loạn phục thù của tư sản, quý tộc,
địa chủ bên trong hoặc sự can thiệp xâm lược bên ngoài của CNTB, CNĐQ thế giới,
thì chuyển sang chính sách cộng sản thời chiến. Trong TKQĐ gián tiếp này, hiển
nhiên là CCLĐ, nền kinh tế không thể cao hơn, mà một thời gian đầu rất dài vẫn
sẽ thấp hơn hẳn so với CNTB. Vì thế Lê-nin nêu rõ, sau Cách mạng Tháng Mười ở
nước Nga Xô-viết nói CNXH chỉ là với ý nghĩa quyết tâm xây dựng CNXH, chứ không
phải đã có nền kinh tế XHCN thực sự (9).
Như vậy, lý luận Mác – Lê-nin về TKQĐ
làm sáng tỏ rằng, không phải CNXH, mà giai đoạn đầu của TKQĐ nói chung, TKQĐ
gián tiếp nói riêng lên CNXH thường thấp hơn CNTB đã phát triển cao về các mặt kinh
tế, LLSX, khoa học - kỹ thuật - công nghệ, NSLĐ, CCLĐ... Điều này không mâu
thuẫn, mà được bao hàm chứa chính trong nội dung thống nhất, toàn diện, sâu sắc
biện chứng của lý luận đó nói chung, lý luận về TKQĐ gián tiếp nói riêng.
5.
Thực chất của “CNXH hiện thực”
Trên thực tế, và cũng theo đúng lý
luận Mác – Lê-nin về TKQĐ, Liên Xô và các nước XHCN Đông Âu trước đây, những
nước XHCN hiện nay đều chưa phải là các xã hội XHCN thật sự. “CNXH hiện thực”
thật ra chỉ là các xã hội định hướng XHCN, đang ở TKQĐ lên CNXH với những trình độ phát triển khác nhau. Hơn nữa, TKQĐ đó
về thực chất chỉ là gián tiếp. Không phụ thuộc vào những tuyên bố của chính
giới, giới học thuật tại một số nước XHCN trước đây và hiện nay, điều này đã được
thực tế lịch sử và thực tiễn cách mạng thế giới kiểm chứng, khẳng định. TKQĐ gián
tiếp này sẽ chỉ kết thúc, khi nó hoàn toàn vượt qua CNTB trên toàn thế giới về
mọi mặt cả tương đối lẫn tuyệt đối, cả đồng đại lẫn lịch đại, trong tất cả các
lĩnh vực chính trị, văn hóa, xã hội, tinh thần, đặc biệt là kinh tế. Cho nên,
trước khi đạt tới trình độ ấy, trong thời gian đầu khá dài TKQĐ gián tiếp kém
xa CNTB về CCLĐ, kinh tế là điều rất bình thường, tự nhiên.
Trong khi đấy, sau Cách mạng XHCN Tháng Mười
Nga đã 100 năm và sau “Tuyên ngôn của ĐCS” đã 170 năm, do sự phát triển “ngoắt
nghoéo, dích dắc của lịch sử” (Lê-nin) mà triển vọng về các TKQĐ trực tiếp, nửa
trực tiếp có thể vẫn còn xa. Chính bởi thế, trong những vấn đề cơ bản nền tảng
của chủ nghĩa Mác – Lê-nin, lý luận về TKQĐ gián tiếp trở thành một nội dung có
ý nghĩa quan trọng hàng đầu đối với hệ thống lý luận của Đảng CSVN suốt từ năm
1930 tới nay. Ý nghĩa này càng tăng lên trong thời kỳ đổi mới từ 1986, khi Liên
Xô trước đây bắt đầu đi vào cải tổ và cắt giảm đáng kể sự giúp đỡ đối với Việt
Nam, đặc biệt là từ năm 1991 đến nay. Đối với tất cả các nước đang và chậm phát
triển nói chung sau cơn địa chính trị toàn thế giới năm 1989-1991, lý luận đó
cũng có ý nghĩa tương tự. Bởi vì, nếu như từ năm 1917 như Lê-nin chỉ rõ, con đường
đi lên CNXH của các quốc gia, dân tộc thuộc địa, phụ thuộc lạc hậu là “liên
minh chặt chẽ với nước Nga xô-viết, với các nước cộng hòa xô-viết”, tức thực
hiện TKQĐ nửa trực tiếp. Thì từ năm 1991 con đường đó về cơ bản chuyển thành
TKQĐ gián tiếp, như Lê-nin từng vạch ra cho chính nước Nga.
Nhưng dù mới chỉ là TKQĐ gián tiếp,
thì cũng chính là đã bắt đầu thực sự tồn tại con đường đi lên CNXH. Ở đây nếu
cho rằng đã có CNXH, thì sẽ là không tưởng, “tả khuynh”, giáo điều, bảo thủ, chủ
quan. Nhưng nếu coi là hoàn toàn chưa có và sẽ không thể có CNXH, nên phải đi
con đường TBCN “phù hợp với quy luật tự nhiên”, thì lại là ngụy biện, hữu
khuynh, cơ hội, thực dụng. Cả hai loại ý kiến này đều phi biện chứng, trái với
thực tế. Đặc biệt, chúng không thấy được tính đặc thù của TKQĐ gián tiếp là,
trong một thời gian đầu khá lâu dài sẽ thấp hơn CNTB về kinh tế - kỹ thuật. Nhưng
mặt khác, TKQĐ ấy dù sao cũng là con đường nhanh nhất, chắc chắn nhất để phát
triển thực sự và đi lên CNXH.
Liên quan đến điều này, có thể thấy
them rằng, cho đến nay vẫn tồn tại quan điểm đồng nhất TKQĐ trực tiếp với CNXH.
Nhưng với TKQĐ gián tiếp thì không thể là CNXH được. Bởi vì, trong giai đoạn
đầu nó tất yếu thấp hơn đỉnh điểm lô-gíc, chưa nói đỉnh điểm lịch sử, của CNTB.
Nếu TKQĐ gián tiếp chính là CNXH, và “CNXH” này thực tế thấp hơn CNTB, thì đây
là điều hoàn toàn phi lý, nghịch lý. Nó sẽ làm đảo lộn toàn bộ hệ thống lý luận
Mác – Lê-nin, do thế không thể chấp nhận được. Rõ ràng, tư tưởng của Lê-nin
phân biệt TKQĐ với CNXH (10), là hoàn toàn hợp lý, đúng đắn và vô cùng sáng
suốt. Nó đã bao quát chính xác, tiên lượng thiên tài về triển vọng mang tính
hiện thực cao của TKQĐ gián tiếp trong khả năng tổng quát về TKQĐ nói chung.
Những ý kiến nêu trên đã
áp đặt một “tam đoạn luận” cho rằng: i) Tại Liên Xô, các nước XHCN Đông Âu
trước đây và những nước XHCN hiện nay đã có “CNXH đích thực”; ii) Nhưng vì về
CCLĐ, kinh tế CNXH ấy rõ ràng thấp hơn hẳn CNTB, là chế độ vẫn đang tiếp tục phát
triển ngày càng hiệu quả, mạnh mẽ; iii) Cho nên phải phủ nhận CNXH, khẳng định
CNTB. Tư duy và hệ luận này thống nhất với luồng quan điểm sai trái xuất hiện,
tồn tại trong nước từ gần 30 năm nay. Chúng tương đồng, tích hợp, tổng hợp
những quan điểm của các tư tưởng gia, lý luận gia “cải tổ” nửa cuối những năm
1980 phủ nhận hoàn toàn CNXH Xô-viết và của Phu-ku-y-a-ma học giả Mỹ nổi danh vào
năm 1989, khi cho rằng lịch sử xã hội loài người “cáo chung” với đỉnh cao khải
hoàn tột bậc là CNTB. Tư duy và hệ luận đó, từ ngộ nhận đã đi đến đối lập với một
số nội dung lý luận Mác – Lê-nin quan trọng, có tính thực tiễn vừa trực tiếp
cấp thiết, vừa cơ bản lâu dài đối với sự nghiệp cách mạng XHCN nước ta.
Để góp phần khắc phục
sai lầm trên và những hạn chế khác trong nhận thức về mục tiêu, con đường lên
CNXH ở Việt Nam ngày nay, từ cơ sở chủ nghĩa Mác – Lê-nin và tư tưởng Hồ Chí
Minh, cần tiếp tục làm rõ thêm một số vấn đề cấp bách, thiết thực sau:
i) Biện chứng của quá trình hình
thành, sinh thành, trưởng thành, phát triển, quá độ, chuyển hóa, phủ định của
phủ định các HTKT-XH.
ii) Tính đặc thù của CNXH trong toàn
bộ quá trình trên.
iii) Lý luận về các TKQĐ trực tiếp,
nửa trực tiếp lên CNCS của Mác – Ăng-ghen, đặc biệt là TKQĐ gián tiếp lên CNXH
của Lê-nin.
iv) Thực tiễn về TKQĐ gián tiếp lên
CNXH: quá trình lịch sử, kinh nghiệm Xô-viết; những điều kiện, khả năng mới
trong giai đoạn hiện nay của thời đại ngày nay; nội dung, đặc điểm ở Việt Nam
thời gian qua và hiện nay./.
----------------------------------------------------------------------------------------------
Chú thích:
1. Mác: Hệ
tư tưởng Đức (1845 – 1846)//M & Ăg: Toàn tập. NXB CTQG, H., 2002, t.3,
tr.94-95.
2. Mác: Lời tựa Góp phần phê phán khoa kinh tế chính
trị (1859)//M & Ăg: Toàn tập.
NXB CTQG, H., 2004, t.13, tr.15.
3. Liên quan đến vấn đề ở đây, xem
thêm: Mác: Hệ tư tưởng Đức//Sđd; Mác:
Tư bản. Phê phán khoa kinh tế chính trị
(1867)//M & Ăg: Toàn tập. NXB
CTQG, H., 1993, t.23, tr. 1056-1060.
4. Mác: Tư
bản//Sđd, tr.543-545.
5.
Mác: Phê phán Cương lĩnh Gô-ta (1875)//M
& Ăg: Toàn tập. NXB CTQG, H., 2002,
t.19, tr.47.
6.
Mác – Ăng-ghen: TNCĐCS (1847 – 1848)//M
& Ăg: Toàn tập. NXB CTQG,
H., 2004, t.4, tr.604.
7.
Mác: Những bản dự thảo thư trả lời thư
của V.I.Da-xu-lích (1881)//M & Ăg: Toàn
tập. NXB CTQG, H. 2002 , t.19, tr.572-603.
8.
Mác: Hệ tư tưởng Đức//Sđd, tr.106-107.
9.
Lê-nin: Về bệnh ấu trĩ “tả khuynh”…(1918)//Lê-nin:
Toàn tập. NXB Tiến bộ, M., 1978,
t.36, tr.362 (tiếng Việt).
10.
Lê-nin: Nhà nước và cách mạng (8 –
9/1917)// Lê-nin: Toàn tập. NXB
CTQG, H., 2005, t.33, tr.222-223, 390-391.