Một số người
cho là VN đang "duy trì quá lâu một mô hình lạc hậu của một hệ thống tư
tưởng lỗi thời mà từ lâu đã bị xếp vào kho tàng lịch sử nhân loại, đã khiến cho
VN tuy đã có hơn 40 năm hòa bình, thống nhất, song đến nay vẫn trì trệ, suy
thoái" và thì "hiện đang bên bờ khủng hoảng"(!). Quan điểm thế
có đúng không?!
Phải khẳng định
ngay rằng, quan điểm trên là không đúng thực tế vì từ 1986, VN đã từ bỏ mô hình
có nhiều khiếm khuyết như cơ chế tập trung quan liêu bao cấp, phủ nhận kinh tế
thị trường, triệt tiêu nhiều động lực phát triển…; tự nhận thấy đã sai lầm giáo
điều trong áp dụng cứng nhắc mô hình Liên Xô trước đây; đã tiến hành đường lối
đổi mới, đẩy mạnh nghiên cứu lý luận và tổng kết thực tiễn để xây dựng mô hình
CNXH bản sắc VN. Và từ năm 2011, Đảng đã xác định được 8 đặc trưng của xã hội
XHCN VN, 8 phương hướng cơ bản và 8 mối quan hệ
lớn cần nắm vững là sự khái quát lý luận về CNXH và con đường đi lên CNXH ở VN
mà cho đến nay vẫn đang được tiếp tục nghiên cứu, tổng kết, bổ sung và phát
triển để đáp ứng yêu cầu của thực tiễn CMVN.
Còn về CN M-L
thì cho đến nay vẫn được đánh giá là học thuyết tiên tiến của loài người. Điều này
không chỉ những người mác-xít thừa nhận mà cả một số học giả tư sản cũng thừa
nhận. Do vậy, khi đánh giá CN M-L, cần khách quan phân biệt những giá trị bền
vững của những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa này với một số luận điểm cụ thể
của Mác, Ăngghen, Lênin chỉ đúng trong thời
đại của các ông nhưng đã bị lịch sử vượt qua trong điều kiện mới, đặc biệt
trong đánh giá không được lẫn lộn CN M-L với những nhận thức và cách áp dụng sai
CN M-L trong thực tiễn của những người lãnh đạo thời đại sau Mác. Cần phân biệt
CN M-L với quan điểm chủ nghĩa xét lại, cơ hội giả danh mác-xít, cố tình xuyên
tạc, vu khống CN M-L để chống CN M-L, và những quan điểm của họ thực ra là để
phủ nhận CN M-L, phủ nhận con đường xây dựng CNXH của VN, phủ nhận những thành
tựu của VN sau 30 năm đổi mới. Cần nhận thức rõ rằng CN M-L là một học thuyết
mang bản chất cách mạng và khoa học, nó không phải là giáo điều mà là kim chỉ
nam cho hành động, nó không phải nhất thành bất biến. Vì vậy, phải vận dụng
sáng tạo và phát triển CN M-L cho phù hợp với thời đại, với điều kiện lịch sử
mỗi nước, mỗi giai đoạn. Lênin đã từng nói áp dụng chủ nghĩa Mác ở Nga phải
khác với ở Đức, Anh, Pháp…; vì chân lý luôn luôn là cụ thể nên cách mạng phải
sáng tạo. Phân tích cụ thể mỗi tình hình cụ thể là bản chất, linh hồn sống của
chủ nghĩa Mác.
Đối với cách
mạng VN, vai trò to lớn của CN M-L đã được khẳng định trong hơn 85 năm lãnh đạo
cách mạng của ĐCSVN. Với tầm trí tuệ thiên tài, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã tìm
thấy trong CN M-L con đường cứu nước, giải phóng dân tộc. Sau khi đọc Luận cương của Lênin về vấn đề dân tộc và
thuộc địa Người đã nói "đây là cái cần thiết cho chúng ta, đây là con
đường giải phóng chúng ta"; trong cuốn Đường
Kách mệnh, Người viết bây giờ chủ nghĩa nhiều, học thuyết nhiều nhưng chủ nghĩa chân chính nhất, chắc chắn
nhấn, cách mệnh nhất là chủ nghĩa Lênin; và trong nhiều tác phẩm, bài diễn văn
của mình, Người đã khẳng định vai trò CN M-L và yêu cầu học tập, tu dưỡng và
vận dụng sáng tạo CN M-L. Người coi CN M-L là "cái cẩm nang" thần kỳ,
"kim chỉ nam" cho cách mạng VN. Người viết: "Học tập CN M-L… là
học tập những chân lý phổ biến của CN M-L để áp dụng một cách sáng tạo vào hoàn
cảnh thực tế của VN"; "Chúng ta phải nâng cao sự tu dưỡng về CN M-L
để dùng lập trường, quan điểm, phương pháp CN M-L mà tổng kết những kinh nghiệm
của Đảng ta, phân tích một cách đúng đắn những đặc điểm của VN. Có như thế
chúng ta mới có thể dần dần hiểu được quy luật phát triển của cách mạng VN,
định ra được những đường lối, phương châm, bước đi cụ thể của cách mạng XHCN
thích hợp với tình hình VN".
Chính vì thế,
việc đem đối lập TT HCM với CN M-L để phủ nhận CN M-L là rất sai lầm về quan
điểm và phương pháp, về lịch sử và lôgíc. Bởi vì, về mặt lịch sử, TT HCM bắt
nguồn và được hình thành từ các giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc, tinh
hoa văn hóa của nhân loại mà đỉnh cao là CN M-L thông qua hoạt động trí tuệ và
thực tiễn. CN M-L chính là nguồn gốc lý luận, là cơ sở chủ yếu nhất hình thành
và phát triển TT HCM. Hồ Chí Minh đã vận dụng lập trường, quan điểm và phương
pháp của CN M-L để nghiên cứu thực tiễn và tìm ra con đường cách mạng VN, vượt
lên trước những nhà yêu nước đương thời, khắc phục được sự khủng hoảng về con
đường tiến lên của dân tộc VN. TT HCM chính là sự vận dụng sáng tạo, phát triển
và làm phong phú CN M-L trong thời đại mới. Như vậy về mặt lôgíc, về bản chất, TT
HCM thống nhất với CN M-L chứ không có sự đối lập với CN M-L như một số người
tưởng tượng ra. Và do đó cũng không có cái gọi là "cuộc nội chiến về tư
tưởng giữa TT HCM và CN M-L" từ năm 1930 đến nay ở VN như có người nhận
định. Hồ Chí Minh là người đã vận dụng và phát triển sáng tạo CN M-L vào điều
kiện cụ thể của VN. Nhờ vậy Hồ Chí Minh và Đảng Cộng sản VN đã đề ra đường lối
cách mạng đúng đắn, sáng tạo, đưa cách mạng đi từ thắng lợi này đến thắng lợi
khác. Vì vậy, không thể nhân danh đề cao TT HCM để hạ thấp, phủ nhận CN M-L.
Còn ý kiến cho
rằng sau 40 năm giải phóng đến nay đất nước vẫn trì trệ, suy thoái, hiện đang
bên bờ khủng hoảng (!) là nhắm mắt nói bừa trước thực tế, bất chấp lịch sử và
không khách quan.
Từ xuất phát
điểm thấp, đến nay, sau 30 năm đổi mới, VN đã đạt được những thành tựu to lớn,
có ý nghĩa lịch sử: đã ra khỏi khủng hoảng KTXH và tình trạng kém phát triển,
trở thành nước đang phát triển có thu nhập trung bình, đang đẩy mạnh CNH, HĐH
và hội nhập quốc tế. Kinh tế tăng trưởng khá, nền KTTT định hướng XHCN từng
bước được hình thành, phát triển. Chính trị - xã hội ổn định; QPAN được tăng
cường. Văn hóa, xã hội có bước phát triển, bộ mặt đất nước và đời sống nhân dân
có nhiều thay đổi. Dân chủ XHCN được phát huy và ngày càng mở rộng. Đại đoàn
kết toàn dân tộc được củng cố và tăng cường. Công tác xây dựng Đảng, xây dựng
Nhà nước pháp quyền XHCN và hệ thống chính trị được đẩy mạnh. Sức mạnh mọi mặt
của đất nước được tăng lên; độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ
và chế độ XHCN được giữ vững. Quan hệ đối ngoại ngày càng mở rộng và đi vào
chiều sâu; vị thế và uy tín của VN trên trường quốc tế được nâng cao.
Những thành tựu
đó tạo tiền đề quan trọng để VN tiếp tục phát triển trong những năm tới, phấn
đấu sớm đưa VN cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại. Những
thành tựu đó khẳng định đường lối đổi mới của Đảng là đúng đắn, sáng tạo, được
nhân dân thừa nhận tin theo và bạn bè quốc tế đánh giá cao tuy rằng VN vẫn đứng
trước nhiều khó khăn, thách thức, còn nhiều hạn chế, yếu kém phải khắc phục
nhưng VN vẫn đang phấn đấu nỗ lực vượt qua, tận dụng thời cơ, đẩy lùi thách
thức, biến thách thức thành cơ hội phát triển đất nước nhanh và bền vững theo
con đường XHCN.