PGS,TS Đàm Đức Vượng
Bùi
Tín, một nhân vật lưu vong, bất đồng chính kiến, đã mất ngày 11-8-2018, thọ 91
tuổi, tại Pari, Pháp. Khi còn sống, ông ta viết nhiều bài, nói chuyện nhiều lần
về Nguyễn Tất Thành - NAQ - Hồ Chí Minh. Sau khi ông ta mất, những cuốn băng
ghi bài nói của ông ta vẫn còn phát lại nhiều lần trên một số trang mạng. Bùi
Tín nói rằng, Nguyễn Tất Thành ra nước ngoài không phải là tìm đường cứu nước,
mà là chán chường trước cảnh nhà tan, cửa nát, người cha bị cách chức tri
huyện, người mẹ mất sớm. Chỉ có trong thời gian NAQ ở Pari, Pháp, từ năm 1917
đến năm 1923 là yêu nước thật sự. Còn từ năm 1923 trở đi, NAQ sang Liên Xô,
cũng có thể gọi là yêu nước, “nhưng yêu nước theo kiểu Quốc tế Cộng sản”, chứ
không phải là người yêu nước chân chính. Sự ngộ nhận này của Bùi Tín đã làm cho
một số người cả tin và tán thành với nhận định của ông ta.
Sự
thật lịch sử như thế nào, chắc hẳn mọi người đã rõ. Đó là ngày 5-6-1911, Nguyễn
Tất Thành (NAQ - Hồ Chí Minh) bằng trái tim, khối óc và đôi bàn tay lao động,
muốn đánh đuổi thực dân xâm lược, giải phóng đồng bào, bắt đầu vượt trùng dương
sóng gió, đi ra nước ngoài, khảo sát tình hình, tìm tòi một con đường cứu nước
cho dân tộc Việt Nam.
Lúc
bấy giờ, kinh tế thực dân xâm nhập, làm đảo lộn kinh tế trong nước. Giai cấp tư
sản trong nước không ngóc đầu lên được. Giai cấp tiểu tư sản bắt đầu phá sản.
Thuế má nặng nề, sưu dịch phiền phức… Tất cả những cái đó đã biến Việt Nam thành một
địa ngục.
Năm
1908, lần đầu tiên, nông dân các tỉnh Trung bộ nổi dậy chống thuế. Họ đi tay
không, không có khí giới. Họ chỉ yêu cầu giảm thuế. Để tỏ tình đoàn kết nhất
trí, họ đều cắt tóc ngắn và gọi nhau là “bồng bào”.
Cụ
Phan Châu Trinh (Phan Chu Trinh) mở trường học, bí mật truyền bá CN yêu nước.
Vì vậy, cụ bị kết án tử hình, nhưng được Hội Nhân quyền Pari cứu.
Cụ
Phan Bội Châu sang Nhật, sau sang Trung Quốc. Tại nước ngoài, cụ kêu gọi nhân dân
Việt Nam
vùng lên đánh đổ thực dân Pháp, giải phóng đồng bào.
Xã
hội Việt Nam
đầu thế kỷ XX có thể ví như con chim trúng thương rã cánh bị bầy diều hâu thi
nhau rỉa rói. Nhân dân lao động lầm than, gày gò, rách rưới, đói khát, sống
quằn quại dưới sự thống trị của thực dân Pháp. Kẻ bóc lột ra sức bóc lột, người
bị bóc lột cũng ra sức bị bóc lột. Nước mất, nhà tan!
Đó
là tình trạng trong nước và ngoài nước, khi Nguyễn Tất Thành còn là một thanh
niên mới lớn. Người sớm hiểu biết và rất đau xót trước cảnh thống khổ của nhân
dân. “Lúc bấy giờ, anh đã có chí đuổi thực dân Pháp, giải phóng đồng bào”1.
Người “muốn đi ra nước ngoài, xem nước Pháp và các nước khác. Sau khi xem xét
họ làm như thế nào, tôi sẽ trở về giúp đồng bào chúng ta”2. Đó là
mục đích ra đi của Nguyễn Tất Thành. Và anh đã ra đi tìm đường cứu nước, cứu
dân, chứ không phải như Búi Tín nói Nguyễn Tất Thành ra nước ngoài với mục đích
cá nhân.
Cuộc
hành trình đi tìm đường cứu nước trở thành bước rẽ ngoặt trong xu thế cứu nước
mới của Nguyễn Tất Thành. Người xuống tàu biển Amiran Latusơ Tơrêvin (Amiral
Latouche Tréville), mở đầu cuộc hành trình đi tìm đường cứu nước. Đầu tiên,
Người sang Pháp, ở lại hải cảng Mácxây ít ngày, rồi đi vòng quanh châu Phi.
Người làm bất cứ việc gì để sống và để đi, vì mục đích cứu nước, cứu dân.
Nguyễn
Tất Thành khảo sát thực tế tại nhiều nước thuộc địa đã giúp cho Người nhìn rõ
hơn, sát hơn bộ mặt thật của CN thực dân đi “khai hóa văn minh”. Người nhìn rõ
cảnh áp bức giai cấp và áp bức dân tộc đè nặng lên các màu da; nhìn rõ “bằng
xương bằng thịt” hình thái kinh tế tư bản CN; nhìn rõ bản chất tàn bạo của CN
thực dân ở các nước thuộc địa; nhìn rõ tình cảnh lam lũ của những người lao
động thuộc địa.
Rời
châu Phi, Nguyễn Tất Thành vượt đại dương đến Mỹ, và từ đây, đi đến Luân Đôn,
thủ đô nước Anh vào cuối năm 1913. Ngày 3-12-1917, Người từ nước Anh trở lại
nước Pháp và lần đầu tiên tới Pari, thủ đô nước Pháp.
Trong
những ngày ở Pháp, vào năm 1919, Nguyễn Tất Thành lấy tên là NAQ, tiếp tục hoạt
động yêu nước và cách mạng. CN yêu nước Việt Nam trong Người lúc này được đẩy
lên một nấc thang mới, khi Người kêu gọi các dân tộc bị áp bức hãy vùng lên.
Một
trong những công việc mà NAQ tiến hành ở Pari là giáo dục, huấn luyện, đào tạo
người Việt Nam tại Pháp, đồng thời, đào tạo, bồi dưỡng những người của các nước
thuộc địa lúc ấy đang ở Pháp. Người căn dặn: “Nhớ làm nhiệm vụ của người dân
mất nước”3. Người viết báo, viết văn và cùng với một số người có tâm
huyết ra báo “Người cùng khổ” (Le Paria) tại Pari, nhằm giác ngộ lòng yêu nước
cho đồng bào.
Tại
Pari, vào năm 1920, NAQ được đọc bản “Sơ thảo lần thứ nhất những luận cương về
vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc địa” của V.I.Lênin trình bày tại Đại hội II Quốc
tế Cộng sản. Ngoài văn kiện quan trọng này, Người còn nghiên cứu một số tác
phẩm của C.Mác, trong đó có bộ “Tư bản”. Sau khi đọc Luận cương của V.I.Lênin, NAQ
đã tìm thấy con đường giải phóng cho dân tộc mình. Luận cượng đã gợi mở cho
Người một đường lối cứu nước mới. Đây là bước rẽ ngoặt về tư tưởng của Người:
từ CN yêu nước đến CN Mác - Lênin. Từ đây, Người bước trên con đường đầy chông
gai và thử thách.
Con
đường Nguyễn Ái Quóc đi bao giờ cũng bắt đầu từ CN yêu nước. Cơ sở tư tưởng của
Người trước lúc ra đi tìm đường cứu nước chính là CN yêu nước, và từ CN yêu
nước, Người đã tìm ra con đường cứu nước theo kiểu mới.
NAQ
là đảng viên Đảng Xã hội Pháp từ năm 1918 (có tài liệu viết năm 1919). Đại hội
đại biểu toàn quốc lần thứ XVIII Đảng Xã hội Pháp họp tại thành phố Tua
(Tours), Pháp, từ ngày 25-12-1920 đến ngày 30-12-1930, thảo luận vấn đề có nên
gia nhập Quốc tế III (Quốc tế Cộng sản), hay ở lại Quốc tế II?. Với 3.208 phiếu
tán thành gia nhập Quốc tế III, chiếm đa số; 1022 phiếu đề nghị ở lại Quốc tế
II, chiếm thiểu số. Đảng Xã hội Pháp tán thành gia nhập Quốc tế III. Bộ phận
tiên tiến trong Đảng Xã hội Pháp (trong đó có NAQ) nhóm họp riêng để thành lập
ra một tổ chức chính trị mới: ĐCS Pháp. Từ đây, Người trở thành đảng viên ĐCS
Pháp và cũng là người cộng sản đầu tiên ở Đông Dương.
Năm
1921, tại Pari, Pháp, NAQ tham gia sáng lập “Hội Liên hiệp thuộc địa”. Người
được bầu vào Ban Chấp hành Trung ương Hội, làm Ủy viên Thường vụ và trở thành
một trong những người lãnh đạo Hội. Hội là một tổ chức của những người yêu nước
của các thuộc địa Pháp như Mađagátxca, Máctiních,
Haiti, Angiêri,
Đông Dương,… Hội là một hình thức mặt trận thống nhất của nhân dân các nước
thuộc địa. Hội ra “Tuyên ngôn” do NAQ soạn thảo. Mục đích hoạt động của Hội là
lãnh đạo nhân dân các nước thuộc địa vùng lên đấu tranh chống xâm lược thuộc
địa, vì độc lâp, tự do của nhân dân các dân tộc bị áp bức. NAQ phát biểu: “Công
cuộc giải phóng này, “chỉ có thể thực hiện được bằng sự nỗ lực của bản thân anh
em”4.
Cũng
tại Pari, ngoài việc tham gia sáng lập “Hội Liên hiệp thuộc địa”, NAQ còn tham
gia vào việc thành lập “Ban Nghiên cứu thuộc địa” của ĐCS Pháp. Người đề nghị
Ban Nghiên cứu thuộc địa phải có trách nhiệm giúp các nước thuộc địa trong việc
tìm ra con đường giải phóng phù hợp và đi đến thắng lợi.
Sự
hoạt động không biết mệt mỏi của NAQ ở Pari đã làm cho nhiều người cảm động và
rất khâm phục. Ông Lêô Pônđét, Chủ nhiệm Câu lạc bộ Phôbua, Pari, nhận xét về NAQ:
“Chỉ là một người thợ ảnh giản dị ở ngõ hẻm Côngpoanh, ông đã từng tham gia với
chúng tôi trong những cuộc thảo luận náo nhiệt. Ngay những người cừu địch với
ông, không ai không thán phục trí thông minh, tài năng và lòng thành thật của
ông”5.
Đầu
năm 1923, NAQ chủ trương xuất bản báo “Việt Nam hồn” bằng tiếng Việt nhằm giác
ngộ lòng yêu nước, ý thức cách mạng cho Việt kiều đang sống ở Pháp lúc ấy và
gửi về nước kêu gọi đồng bào nổi dậy đấu tranh đánh đổ chế độ thực dân Pháp ở
Đông Dương, giành độc lập, tự do cho Tổ quốc. Người cũng muốn thông qua báo
“Người cùng khổ” và báo “Việt Nam hồn” để tuyên truyền, bồi dưỡng cho nhân dân
Việt Nam (trong đó có Việt kiều ở Pháp) lòng yêu nước và lòng tự trọng, đấu
tranh để giành lại nước. Trước cảnh nước mất, nhà tan, ở nơi đất khách quê
người, NAQ đã làm hết sức mình vì nhân dân mình, đất nước thân yêu của mình.
Để
tuyên truyền chính trị và tư tưởng cho nhân dân các nước thuộc địa, trong những
ngày ở Pari, NAQ viết tác phẩm :Bản án chế độ thực dân Pháp”. Người lên án
những tội ác của CN thực dân ở các nước thuộc địa trên các mặt kinh tế, văn
hóa, xã hội. Người vạch rõ, dưới ách thống trị của thực dân, cuộc sống của nhân
dân lao động ở các nước thuộc địa vô cùng cực khổ. Họ bị đế quốc, phong kiến
phản động, tư sản áp bức, bóc lột bằng mọi hình thức, kể cả những hình thức dã
man nhất như “thuế máu”. Thông qua tác phẩm, người kêu gọi nhân dân các dân tộc
bị áp bức hãy vùng lên đấu tranh để tự giải phóng.
Ngoài
tác phẩm “Bản án chế độ thực dân Pháp”, trong thời gian ở Pari, NAQ còn viết
nhiều bài chính luận, truyện, ký, tố cáo chế độ thực dân và kêu gọi sự giải
phòng nhân dân các nước thuộc địa, kêu gọi sự giải phóng cho nhân dân Việt Nam.
Có
thể nói trong những ngày ở Pháp, NAQ đã đặt viên gạch nền móng đầu tiên cho một
ý thức hệ mới và truyền bá ý thức hệ này cho lớp cán bộ cách mạng trẻ Việt Nam. Ý
thức hệ này chính là vấn đề giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng
con người, dân tộc gắn với giai cấp, độc lập dân tộc gắn với CN xã hội, dân tộc
gắn với thời đại.
NAQ
ở Pari từ năm 1917 đến năm 1923, thì tới Liên Xô. Trong những ngày ở Mátxcơva,
Liên Xô, NAQ đã là một chiến sĩ cộng sản mang tầm vóc quốc tế. Người làm việc ở
Ban Phương Đông Quốc tế Cộng sản và tham gia các hoạt động của các đoàn thể
trong Quốc tế Cộng sản. Người nói: “Tôi phải nói các đồng chí rằng, chúng tôi
bị cai trị bởi một chế độ nô lệ”6.
Bùi
Tín đánh giá trong những ngày ở Liên Xô, NAQ cũng có thể là một người yêu nước,
nhưng yêu nước theo kiểu Quốc tế Cộng sản. Theo Bùi Tín, lòng yêu nước theo
kiểu Quốc tế Cộng sản và lòng yêu nước theo truyền thống khác nhau hay sao? Bùi
Tín đã nhầm. Thực ra, lòng yêu nước theo truyền thống và lòng yêu nước theo
Quốc tế Cộng sản chỉ là một, không có kiểu yêu nước theo Quốc tế Cộng sản với
tinh thần yêu nước truyền thống. CN yêu nước là tình cảm đặc sắc nhất, đã tồn
tại trong lòng dân tộc qua hàng nghìn năm dựng nước và giữ nước. Đó là ý thức
của nhân dân lao động với dân tộc mình; thể hiện lòng trung thành của nhân dân
lao động đối Tổ quốc của mình. Nhưng bởi vì Tổ quốc là một môi trường kinh tế -
xã hội, chính trị và văn hóa, thay đổi theo lịch sử, cho nên CN yêu nước ở
những thời đại khác nhau, cũng có những nội dung khác nhau, nó được quy định
không phải bởi một tinh thần dân tộc hoặc chủng tộc thần bí nào đó như một số
nhà tư tưởng tư sản quả quyết, mà bởi những điều kiện kinh tế - xã hội. CN yêu
nước có ý nghĩa đặc biệt trong thời kỳ hình thành dân tộc, khi nó đã trở thành
ngọn cờ đấu tranh chống lại tình cảm cát cứ phong kiến và áp bức dân tộc.
Sau
Đại hội V Quốc tế Cộng sản (1924) họp, NAQ càng nóng lòng trở về phương Đông,
rồi về Việt Nam.
Người tâm sự với người bạn chí cốt tên là D.D.Manuinxki, rằng, tại Đông Dương
chưa có ĐCS, cho nên Người muốn thành lập càng nhanh càng tốt một ĐCS tại Đông
Dượng, vì đã có điều khách quan làm việc đó. Muốn vậy, phải nhanh chóng trở về
phương Đông.
Bằng
những nỗ lực hết sức của mình và được sự giúp đỡ của D.D.Manuinxki, cuối cùng,
từ Liên Xô, NAQ cũng đã về được Quảng Châu vào ngày 11-11-1924. Quảng Châu là
thủ phủ tỉnh Quảng Đông, một trung tâm cách mạng của miền Nam Trung Quốc.
Về
Quảng Châu, NAQ tự xác định là tiến hành công tác chính trị, tư tưởng, tổ chức
(đặc biệt là việc đào tạo cán bộ), chuẩn bị điều kiện cần có và phải có để thành
lập chính đảng cách mạng ở Việt Nam.
Những
ngày ở Quảng Châu, NAQ tập trung thời gian vào việc huấn luyện cán bộ cách mạng
Việt Nam.
Người mở lớp huấn luyện chính trị, tuyển chọn những thanh niên yêu nước Việt Nam sang học.
Cùng
với việc tổ chức lớp học chính trị, vào tháng 5-1925, NAQ xúc tiến thành lập
một tổ chức yêu nước cách mạng đầu tiên ở Việt Nam: “Hội Việt Nam Cách mạng
Thanh niên (còn gọi là Việt Nam Thanh niên Cách mạng đồng chí Hội - gọi tắt là
Thanh niên).
NAQ
rời Quảng Châu và trở lại Liên Xô lần thứ hai vào tháng 6-1927 với lý do là
tránh quân đội Tưởng Giới Thạch đang lùng bắt Người. Tại Liên Xô, Người tiếp
tục đào tạo cán bộ cho cách mạng Việt Nam bằng cách liên lạc với trong
nước, cử những thanh niên ưu tú sang học tại Trường Đại học Phương Đông,
Mátxcơva, Liên Xô. Trong số những người sang học lần này có Trần Phú, sau là
Tổng Bí thư đầu tiên của ĐCS Đông Dương.
Ở
Liên Xô, nhưng NAQ vẫn nóng lòng trở về Đông Dương để cùng nhân dân thực hiện
cuộc cách mạng giải phóng dân tộc. Nguyện vọng chính đáng của Người đã được
Quốc tế Cộng sản giải quyết.
Từ
Liên Xô, NAQ đến Thái Lan, điểm nối tiếp trong cuộc hành trình về phương Đông.
Vào một ngày của tháng 7-1928, NAQ đến Băng Cốc, thù đô nước Xiêm (Thái Lan) và
gây dựng phong trào yêu nước trong Việt kiều ở đây. Từ Xiêm, Người đến Hương
Cảng (Hồng Kông) vào ngày 23-12-1929 để chuẩn bị thành lập Đảng.
Hội
nghị thành lập Đảng diễn ra tại một địa điểm ở đảo Cửu Long thuộc quần đảo
Hương Cảng (Hồng Kông) từ ngày 3 đến ngày 7-2-1930. Đây là Hội nghị hợp nhất
giữa ba tổ chức cộng sản trong nước thành lập trước đó là Đông Dương Cộng sản
Đảng, An Nam Cộng sản Đảng, Đông Dương Cộng sản Liên đoàn, do NAQ, Thay mặt
Quốc tế Cộng sản chủ trì. NAQ nhận xét:
“Việc
thành lập Đảng là một bước ngoặt vô cùng quan trọng trong lịch sử cách mạng
Việt Nam
ta. Nó chứng tỏ rằng giai cấp vô sản ta đã trưởng thành và đủ sức lãnh đạo cách
mạng”7.
Người
tổng kết:
“CN
Mác - Lênin kết hợp với phong trào công nhân và phong trào yêu nước đã dẫn đến
việc thành lập ĐCS Đông Dương vào đầu năm 1930”8.
Sau
khi Đảng được thành lập, phong trào cách mạng Đông Dương rơi vào tình thế cực
kỳ khó khăn. Rất nhiều cán bộ được NAQ đào tạo đã bị địch bắt, giết, thì ngày
6-6-1931, Người bị nhà cầm quyền Anh bắt ở Hương Cảng và chiều ngày 22-1-1933,
nhờ sự bố trí của luật sư Lôdơbi, Người đã trốn thoát khỏi Hồng Kông để trở lại
Liên Xô lần thứ ba. Lần này, Người công tác và học tập tại Liên Xô từ năm 1933
đến năm 1938. Sau đó, Người lại trở lại Xiêm và đến năm 1941, NAQ trở về nước,
chủ trì Hội nghị Trung ương 8 (tháng 5-1941), ra Nghị quyết quyết định tổng
khởi nghĩa giành chính quyền trong cả nước.
Ngày
13-8-1942, Người lấy tên là Hồ Chí Minh sang Trung Quốc để liên lạc với các lực
lượng cách mạng của những người Việt Nam ở đó. Nhưng chẳng may, Người đã
bị chính quyền địa phương của Tưởng Giới Thạch bắt giam hơn một năm, bị giải
tới, giải lui khắp 13 huyện và khoảng 30 nhà lao tỉnh Quảng Tây.
Ngày
10-9-1943, Hồ Chí Minh được trả lại tự do.
Ngày
20-9-1944, Hồ Chí Minh trở về Việt Nam, cùng với ĐCS Đông Dương lãnh đạo cách
mạng Việt Nam, tiến tới giành thắng lợi trong Cách mạng tháng Tám năm 1945 và
thành lập nước VNDCCH (nay là nước CHXHCN Việt Nam).
Một
trang sử mới lại bắt đầu…
Sự
thật rành rành là thế, vậy mà Bùi Tín cố tình xuyên tạc, bóp méo sự thật lịch
sử về Hồ Chí Minh, cần phải phê phán.
Chú
thích:
1.
Trần Dân Tiên: Những mẩu chuyện về đời
hoạt động của Hồ Chủ tịch, Nxb Sự thật, Hà Nội, 1975, tr. 12.
2.
Trần Dân Tiên: Những mẩu chuyện về đời
hoạt động của Hồ Chủ tịch, sđd, tr. 13.
3.
Bùi Lâm: Gặp Bác ở Pari, in
trong sách “Bác Hồ”, Nxb Văn học, Hà
Nội, 1960, tr. 47.
4 Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb Chính trị quốc
gia - Sự thật, 1995, tập 2, tr. 128.
5.
Lêô Pônđét: Chúng quanh Chủ tịch Hồ Chí
Minh, Tuần báo Ici Paris, số 53, ngày 11,12-6-1946.
6.
Hồ Chí Minh: Toàn tập, sdđ, 2000, tập
1, tr. 208.
7,8.
Hồ Chí Minh: Toàn tập, sdđ, 2000, tập
10, tr.8.