Ngày 12-6-2018, với 423 phiếu
thuận, Luật An ninh mạng, với 07 chương, 43 điều đã được kỳ họp thứ 5, Quốc hội khóa XIV nước Cộng hòa xã hội chủ
nghĩa Việt Nam thông qua và có hiệu lực từ ngày 01-01-2019. Sự ra đời của Luật
An ninh mạng với những quy định bảo đảm hoạt động trên không gian mạng không
gây phương hại chủ quyền, an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội, quyền và lợi
ích hợp pháp của các tổ chức, cá nhân; đồng thời, quy định trách nhiệm của cơ
quan, tổ chức, cá nhân có liên quan.
Ấy thế mà, ngay sau đó, trên
VOA, BBC, RFA và một số trang mạng đăng tuyên bố của một số tổ chức cá nhân lên
tiếng phản đối. Điển hình như, Văn phòng Nhân quyền Liên hợp quốc chuyên trách
Đông Nam Á; Tổ chức Ân xá Quốc tế (AI); Tổ chức Phóng viên Không biên giới
(RSF), v.v. Họ cho rằng, một số điều khoản trong Luật “trái với các nghĩa vụ của
Việt Nam theo Công ước Quốc tế về các Quyền Dân sự và Chính trị”, gây “hậu quả
tàn hại cho tự do ngôn luận ở Việt Nam”,… và yêu cầu, Việt Nam cần “thu hồi luật
mới khắc nghiệt này”. Thậm chí, Daniel Bastard (người đứng đầu văn phòng phụ
trách Châu Á - Thái Bình Dương trong RSF) còn ngang ngược: “yêu cầu các nhà lập
pháp Việt Nam thu hồi luật mới khắc nghiệt này, vốn là công cụ để củng cố sự kiểm
soát của chính phủ đối với việc tiếp cận thông tin.” (!)
Phải khẳng định ngày, đây là những
tuyên bố, đòi hỏi phi lý của những kẻ mang tư tưởng chống cộng cực đoan, chuyên
xuyên tạc tình hình nhân quyền và kỳ thị với “Việt Nam là điều kỳ diệu của thế
giới”, như Tổng thống Hoa Kỳ D. Trump phát biểu; đồng thời, vi phạm các điều ước
quốc tế về quyền con người, quyền công dân, cổ vũ cho những hành động gây mất
an ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội ở đất nước Việt Nam cũng như các quốc
gia khác trên thế giới. Những tổ chức, cá nhân này không xứng với danh xưng
đang mang.
Theo đó, Điều 8, Luật An ninh mạng,
nghiêm cấm các hành động sau: (1) Tuyên truyền chống Nhà nước Cộng hòa xã hội
chủ nghĩa Việt Nam như xuyên tạc, phỉ báng chính quyền, xúc phạm dân tộc, quốc
kỳ…; xuyên tạc lịch sử, phủ nhận thành tựu cách mạng, phá hoại khối đại đoàn kết
toàn dân tộc, xúc phạm tôn giáo, phân biệt đối xử về giới, phân biệt chủng tộc;
(2) Kích động gây bạo loạn, phá rối an ninh, gây rối trật tự công cộng như kêu
gọi tụ tập đông người gây rối, chống người thi hành công vụ; (3) Làm nhục, vu
khống như xúc phạm nghiêm trọng danh dự, uy tín, nhân phẩm của người khác;
thông tin sai sự thật xâm phạm danh dự, uy tín hoặc gây thiệt hại đến quyền và
lợi ích hợp pháp của người khác; (4) Xúi giục, lôi kéo, kích động người khác phạm
tội bằng không gian mạng; (5) Đưa lên không gian mạng những thông tin thuộc bí
mật cá nhân, bí mật gia đình, đời sống riêng tư trái quy định của pháp luật;
(6) Xâm phạm trật tự quản lý kinh tế như thông tin sai sự thật về sản phẩm,
hàng hóa…; thông tin sai sự thật trong lĩnh vực tài chính, ngân hàng, thương mại
điện tử, thanh toán điện tử,…; (7) Thông tin sai sự thật gây hoang mang trong
nhân dân, gây thiệt hại cho các hoạt động kinh tế - xã hội, gây khó khăn cho hoạt
động của cơ quan nhà nước hoặc người thi hành công vụ, xâm phạm quyền và lợi
ích hợp pháp của người khác; (8) Tuyên truyền, quảng cáo, mua bán hàng hóa, dịch
vụ thuộc danh mục cấm theo quy định của pháp luật; (9) Thông tin hoạt động mại
dâm, tệ nạn xã hội, mua bán người; đăng tải thông tin dâm ô, đồi trụy, tội ác;
phá hoại thuần phong, mỹ tục của dân tộc, đạo đức xã hội, sức khỏe cộng đồng;
(10) Cố ý xóa, làm hư hỏng, thay đổi thông tin thuộc bí mật nhà nước; bí mật
kinh doanh, cá nhân, gia đình và đời sống riêng tư được truyền đưa, lưu trữ
trên không gian mạng; cố ý thay đổi, hủy bỏ hoặc làm vô hiệu hóa các biện pháp
kỹ thuật được xây dựng, áp dụng để bảo vệ thông tin thuộc bí mật nhà nước, kinh
doanh, cá nhân và đời sống riêng tư; (11) Cố ý nghe, ghi âm trái phép các cuộc
đàm thoại; hành vi cố ý xâm phạm bí mật nhà nước, bí mật công tác, bí mật kinh
doanh, bí mật cá nhân, bí mật gia đình và đời sống riêng tư. Điều 8 của Luật
này cũng cấm lợi dụng hoạt động bảo vệ an ninh mạng để xâm phạm chủ quyền, như
các hành vi sau: (1) Sản xuất, đưa vào sử dụng phương tiện, phần mềm hoặc có
hành vi cản trở, gây rối loạn hoạt động của mạng máy tính, viễn thông; phát tán
chương trình tin học gây hại cho hoạt động của mạng máy tính, viễn thông,
phương tiện điện tử; xâm nhập trái phép vào mạng máy tính, viễn thông hoặc
phương tiện điện tử của người khác; (2) Chống lại hoặc cản trở hoạt động của lực
lượng bảo vệ an ninh mạng; tấn công, vô hiệu hóa trái pháp luật làm mất tác dụng
biện pháp bảo vệ an ninh mạng; lợi dụng hoạt động bảo vệ an ninh mạng để xâm phạm
chủ quyền, lợi ích, an ninh quốc gia; (3) Thực hiện tấn công, khủng bố mạng;
làm sai lệch, ngưng trệ, tê liệt hoặc phá hoại hệ thống thông tin quan trọng về
an ninh quốc gia; (4) Giả mạo trang thông tin điện tử của cơ quan, tổ chức, cá
nhân; làm giả, lưu hành, trộm cắp, mua bán, thu thập, trao đổi trái phép thông
tin thẻ tín dụng, tài khoản ngân hàng của người khác; phát hành, cung cấp, sử dụng
các phương tiện thanh toán trái phép; (5) Chiếm đoạt tài sản; tổ chức đánh bạc,
đánh bạc qua mạng internet; trộm cắp cước viễn thông quốc tế trên nền internet;
vi phạm bản quyền và sở hữu trí tuệ trên không gian mạng, v.v. Luật cũng quy định
rõ, ai vi phạm những điều trên, tùy theo tính chất, mức độ mà người vi phạm sẽ
bị xử lý kỷ luật, xử phạt vi phạm hành chính hoặc bị truy cứu trách nhiệm hình
sự; nếu gây thiệt hại thì phải bồi thường theo quy định của pháp luật.
Thực tế cho thấy, trước sự phát
triển mạnh mẽ của internet và ứng dụng internet vào cuộc sống, chủ quyền, an
ninh của các quốc gia, dân tộc, quyền con người không chỉ đơn thuần là những hoạt
động trên đất liền, trên biển, trên không, mà còn là những hoạt động trên không
gian mạng. Bên cạnh những ưu điểm, những hoạt động trên không gian mạng đã bộc
lộ những vấn đề rất nguy hại, nhất là việc lợi dụng không gian mạng để lừa đảo,
xuyên tạc, bôi nhọ,… vi phạm quyền con người, quyền của các tổ chức, cá nhân; đồng
thời, truyền bá tư tưởng cực đoan, tổ chức lực lượng, khích động các hoạt động
gây mất an ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội, thậm chí đòi lật đổ chế độ,…
làm phương hại đến độc lập, thống nhất, an ninh của mồi quốc gia và hòa bình, ổn
định và phát triển của khu vực cũng như trên thế giới. Bài học về những cái gọi
là “cách mạng màu” diễn ra ở Liên Xô, Đông Âu, Trung Đông, Bắc Phi,… thời gian
qua đã cho thấy rõ hậu quả của việc không gian mạng bị lợi dụng như thế nào. Vì
thế, để bảo vệ chủ quyền, an ninh, nhiều quốc gia đã ban hành nhiều văn bản
pháp luật, Luật An ninh mạng, trong đó có Việt Nam để đảm bảo các hoạt động
trên không gian mạng có lợi ích trong việc thực thi quyền con người, bảo vệ động
lập, thống nhất của quốc gia, loại trừ những mặt trái trong hoạt động ở không
gian mạng.
Như vậy, việc xây dựng, thông
qua Luật An ninh mạng của Quốc hội khóa XIV của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa
Việt Nam là việc làm khách quan, cấp thiết, nhằm bảo vệ chủ quyền, an ninh quốc
gia, quyền con người, quyền công dân; đồng thời, phù hợp với Hiến chương Liên hợp
quốc về nhân quyền (năm 1945), Tuyên ngôn nhân quyền quốc tế của Đại hội đồng
Liên hợp quốc (năm 1948), Công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị của
Liên hợp quốc (năm 1966) và thông lệ quốc tế. Sự ra đời của Luật An ninh mạng
là công cụ hữu hiệu để Nhà nước Việt Nam bảo đảm ngày càng tốt hơn trong bảo vệ
quyền con người, chủ quyền, an ninh quốc gia.
Minh Quân
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét