Nguyễn Phúc
Nghiên cứu, tổng kết sự
phát triển của lịch sử loài người, C.Mác đã chứng minh về sự thay thế tất yếu của
các chế độ từ chế độ cộng sản nguyên thủy đến chế độ chiếm hữu nô lệ, chế độ
phong kiến, chế độ tư bản và chế độ XHCN. Đó là lý luận về hình thái KT-XH mà
cho đến nay, giá trị khoa học và hiện thực của nó ngày càng được khẳng định và
làm sáng tỏ. Với những phát minh vĩ đại, Mác được thế giới suy tôn là một trong
số những nhà khoa học hàng đầu không chỉ của thế kỷ XIX mà của cả thiên niên kỷ.
Khi phát kiến học thuyết
CNXH khoa học, C.Mác và Ph.Ăngghen đã
phát triển những ý tưởng tốt đẹp về CNXH trước đó. Điều quan trọng không phải dừng
lại ý tưởng hay mong muốn thành tâm trong sự nghiệp giải phóng giai cấp lao khổ,
giải phóng con người mà phải là tính hiện thực. Ăngghen từng nhấn mạnh, từ khi CNXH
trở thành một khoa học, đòi hỏi phải đối xử với nó như một khoa học, nghĩa là
phải được nghiên cứu. Ăngghen cho rằng: “Muốn làm cho CNXH thành một khoa học
thì trước hết phải đặt CNXH trên một cơ sở hiện thực”[1].
Giá trị khoa học chính là ở cơ sở hiện thực, ở khả năng hiện thực hóa học thuyết
ấy. Mác cũng nhấn mạnh giữa xã hội tư bản
chủ nghĩa và xã hội cộng sản chủ nghĩa là một thời kỳ cải biến cách mạng từ xã
hội nọ sang xã hội kia. Đó là lý luận về thời kỳ quá độ lên CNXH cần được
kiểm chứng từ thực tiễn. Nhận thức của Mác và Ăngghen về CNXH và quá độ lên CNXH
đã được xác định trên những vấn đề cơ bản về kinh tế, chính trị, xã hội. Các
ông không coi học thuyết mà các ông nêu ra là giáo điều, là công thức có sẵn
hay cái gì đó đã hoàn tất, mà cần được bổ sung, phát triển từ hiện thực lịch sử.
Phát triển tư tưởng của
Mác và Ăngghen, Lênin và Đảng Bonsevich Nga đã bắt đầu hiện thực hóa lý luận CNXH
khoa học từ thắng lợi của cuộc Cách mạng Tháng Mười năm 1917. Trước đó, Lênin
đã nêu rõ: “Người ta không thể coi cách mạng XHCN là một công cuộc làm một lần
thì xong, mà phải coi đó là một thời đại”[2].
Sau Cách mạng Tháng Mười, trong nhiều tác phẩm quan trọng và từ thực tiễn của
cách mạng XHCN, Lênin đã nêu rõ những nội dung, hay những đặc trưng của thời kỳ
quá độ lên CNXH. Chính sách kinh tế mới (NEP) do Lênin khởi xướng đã làm sáng tỏ
hơn những quy luật xây dựng CNXH.
Công cuộc xây dựng CNXH
được đẩy mạnh ở Liên Xô mặc dù chính sách kinh tế mới không được tiếp tục thực
hiện triệt để. Trước Cách mạng Tháng Mười, nước Nga có trình độ phát triển tư bản
trung bình. Ngày 30-12-1922 thành lập Liên bang Xô viết (Liên Xô), các nước
thành viên còn ở trình độ rất lạc hậu cả về kinh tế và xã hội. Phát triển theo
con đường XHCN, Liên Xô đã có bước phát triển mạnh mẽ về kinh tế, nhất là công
nghiệp hóa, tăng cường sức mạnh của lực lượng xã hội và chế độ chính trị. Nếu
không có sức mạnh đó, thì Liên Xô không thể chiến thắng trong cuộc chiến tranh
giữ nước vĩ đại và đánh bại chủ nghĩa phát xít hùng mạnh và tàn bạo, góp phần
cùng các lực lượng Đồng minh tiêu diệt chủ nghĩa phát xít, quân phiệt, cứu loài
người khỏi thảm họa. Đó là hiện thực lịch sử không ai có thê phủ nhận. Chính
con đường xây dựng CNXH ở Liên Xô đã có ý nghĩa khai phá và cổ vũ các dân tộc
tiến lên theo mục tiêu cao cả của CNXH là xây dựng một xã hội không còn áp bức,
bất công, một xã hội thật sự vì nhân dân, vì con người.
Sau chiến tranh thế giới
thứ II, Liên Xô tiếp tục đẩy mạnh xây dựng CNXH. Nhiều nước ở Đông Âu và Châu Á
từng bước hoàn thành cuộc cách mạng dân tộc dân chủ và chuyển lên cách mạng XHCN
và xây dựng CNXH. Thế giới hình thành hai phe đối lập trong chiến tranh lạnh:
phe tư bản chủ nghĩa và phe XHCN. Liên Xô trở thành một siêu cường quốc trong cục
diện tồn tại 2 siêu cường là Mỹ và Liên Xô. Cuộc đấu tranh giữa hai phe, 2 siêu
cường không chỉ là đấu tranh đơn thuần về ý
thức hệ, mà là giữa chế độ XHCN hiện thực và chủ nghĩa tư bản, đế quốc. CNXH
hiện thực đã tự khẳng định sức mạnh và những ưu việt không thể phủ nhận.
Một chế độ xã hội mới ra
đời là một quá trình lịch sử. Đó là quá trình tự hoàn thiện và loại bỏ những gì
không đúng, không thích hợp. Các nước tư bản đạt tới trình độ phát triển cao
cũng phải trải qua mấy thế kỷ để thực hiện nội dung cách mạng tư sản, loại bỏ
những tàn tích phong kiến. Liên Xô, các nước Đông Âu và các nước khác trải qua
mấy chục năm xây dựng CNXH có được những thành tựu to lớn, nhưng cũng bộc lộ những
khuyết điểm, yếu kém cần phải sửa chữa thông qua cải cách, cải tổ, đổi mới. Những
yếu kém, khuyết điểm dễ thấy ở các nước XHCN là lực lượng sản xuất, khoa học
công nghệ còn kém phát triển so với các nước tư bản, do đó năng suất lao động,
hiệu quả kinh tế thấp. Quan hệ sản xuất có những yếu tố cản trở sự phát triển lực
lượng sản xuất, hạn chế những động lực phát triển kinh tế. Những vấn đề xã hội,
chính sách xã hội để nâng cao đời sống nhân dân còn hạn chế. Chế độ chính trị
có những khuyết tật về chủ nghĩa quan liêu, đặc quyền, đặc lợi, tham nhũng, vi
phạm dân chủ và quyền làm chủ của nhân dân. Những khuyết tật, khuyết điểm đó
trong thời kỳ quá độ lên CNXH, nghĩa là chưa có CNXH đầy đủ, là điều khó tránh.
Khuyết tật, khuyết điểm đó cũng do nhận thức chưa rõ, chưa đúng với quy luật, đặc
trưng của thời kỳ quá độ theo quan điểm của Mác, Lênin, và hoàn toàn có thể sửa
chữa được. Sự đổ vỡ của mô hình CNXH ở Liên Xô và các nước Đông Âu không phải
do những khuyết tậ, khuyết điểm đó mà do cách thức và động cơ sửa chữa. Chủ
nghĩa cơ hội, những phần tử chống CNXH đã cố tình làm cho những khuyết điểm
thêm trầm trọng và lấy đó làm cái cớ để xóa bỏ chế độ XHCN.
Chế độ XHCN ở Liên Xô và
Đông Âu sụp đổ là tổn thất lớn đối với phong trào cách mạng thế giới. Không một
người cách mạng chân chính nào lại không thấy đau buồn về tổn thất đó. Sự thật
đó đặt ra yêu cầu khách quan phải nhận thức lại để tiến hành cách mạng XHCN và
xây dựng CNXH phù hợp với quy luật và thực tiễn. Cần phải nhấn mạnh một thực tiễn
sinh động là, từ đầu thập niên 90 của thế kỷ XX đến nay, một số nước theo con
đường XHCN vẫn kiên định mục tiêu, lý tưởng, tiến hành cải cách, đổi mới, giành
được những thành tựu to lớn và tiếp tục phát triển. Xu hướng xã hội XHCN phát
triển mới ở một số nước lực lượng cánh tả cầm quyền. Thế giới hiện nay đang tồn
tại các nước có chế độ chính trị khác nhau, trong đó có các nước theo con đường
XHCN. Dù còn phải trải qua khó khăn, thách thức, song theo quy luật tiến hóa của lịch sử, loài người nhất định sẽ tiến tới CNXH.
Ở VN, nhận thức về CNXH
bắt đầu từ những năm 20 của thế kỷ XX, khi Nguyễn Ái Quốc tiếp thụ chủ nghĩa
Mác-Lênin và xác định con đường đấu tranh giải phóng dân tộc VN. Độc lập dân tộc
là điều Nguyễn Ái Quốc khẳng định trên hết, trước hết. Giành độc lập rồi hoàn
toàn có thể phát triển theo con đường XHCN. CNXH là chế độ xã hội tốt đẹp, là sự
bảo đảm vững chắc cho độc lập dân tộc. Năm 1921, Nguyễn Ái Quốc cho rằng, do điều
kiện về văn hóa, xã hội và lịch sử “cho phép CNCS thâm nhập vào Châu Á dễ dàng
hơn là ở Châu Âu”[3]. Cần
phải nhận thức CNCS cho đúng đắn. Không nên nhận thức CNCS là sự phá bỏ tất cả
hoặc chỉ là giải phóng khỏi ách thống trị của nước ngoài. Cương lĩnh đầu tiên của
ĐCSVN (2-1930) xác định rõ con đường đấu tranh, làm cho nước Nam hoàn toàn độc
lập để đi tới xã hội cộng sản. Luận
cương chính trị tháng 10-1930 xác định cách mạng VN “bỏ qua thời kỳ tư bản
tranh đấu thẳng lên con đường XHCN”[4].
Đó là sự lựa chọn đúng đắn
con đường phát triển của cách mạng và dân tộc VN. Sự lựa chọn đó đã dứt khoát từ
năm 1930, khi ĐCSVN ra đời trong lúc các phong trào yêu nước từ lập trường Cần
Vương đến lập trường tư sản, tiểu tư sản, qua khảo nghiệm của lịch sử đều lần
lượt thất bại. Con đường cách mạng do người cộng sản cũng là người yêu nước
Nguyễn Ái Quốc khởi xướng được những nhà yêu nước nổi tiếng khi đó ủng hộ và đặt
niềm tin. Phan Châu Trinh trong thư gửi Nguyễn Ái Quốc ở Paris ngày 18-2-1922 đã khuyên Nguyễn Ái Quốc
trở về nước “hô hào quốc dân đồng bào đồng tâm hiệp lực đánh đổ cường quyền áp
chế”. Phan Châu Trinh thấy Nguyễn Ái Quốc như “cây đương lộc”, “nghị lực có thừa,
dày công học hỏi, lý thuyết tinh thông”[5].
Còn Phan Bội Châu trong thư gửi Nguyễn Ái Quốc ở Quảng Châu (Trung Quốc) ngày
14-2-1925 đã hoàn toàn đặt niềm tin vào Nguyễn Ái Quốc. “Bây giờ đem kẻ già này
so với cháu, Bác thấy rất xấu hổ. Nhận được liên tiếp hai lá thư của cháu, bác
cảm thấy vừa buồn vừa mừng. Buồn là buồn cho thân bác, mà mừng là mừng cho đất
nước ta. Việc thừa kế nay đã có người… Việc gây dựng lại giang sơn, ngoài cháu
có ai để nhờ ủy thác, gánh vác trách nhiệm thay mình”[6].
Từ năm 1930 đến nay, ĐCSVN
do lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc-Hồ Chí Minh sáng lập đã lãnh đạo toàn dân tộc VN thực
hiện mục tiêu, con đường đã lựa chọn và đã đi từ thắng lợi này đến thắng lợi
khác. Thắng lợi của cuộc Cách mạng Tháng Tám năm 1945 chấm dứt chế độ phong kiến,
thuộc địa, mở ra thời đại độc lập vẻ vang của dân tộc. Thắng lợi của các cuộc
kháng chiến oanh liệt chống thực dân, đế quốc, giải phóng và bảo vệ Tổ quốc,
giành độc lập, thống nhất hoàn toàn. Thắng lợi của công cuộc đổi mới đưa đất nước
quá độ lên CNXH với những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử. Đó là những thắng
lợi vĩ đại của toàn dân tộc VN do ĐCS lãnh đạo, được toàn dân và cả thế giới khẳng
định và không một thế lực thù địch nào có thể xuyên tạc hoặc phủ nhận.
Trong xây dựng CNXH ở VN
đã có được những thành quả quan trọng. Đó là sức mạnh của chế độ chính trị vì
nhân dân, vì lợi ích của quốc gia, dân tộc với chế độ dân chủ nhân dân và từng
bước phát triển nền dân chủ XHCN gắn liền với pháp chế XHCN. Từng bước xác lập
nền kinh tế XHCN với sự phát triển lực lượng sản xuất, cơ sở vật chất-kỹ thuật
của CNXH thông qua quá trình công nghiệp hóa và nhận thức ý nghĩa then chốt của
cách mạng khoa học-kỹ thuật và xóa bỏ chế độ người bóc lột người. Thực hiện các
chính sách xã hội để từng bước bảo đảm đời sống nhân dân và sự công bằng xã hội.
Xây dựng văn hóa và con người với sự kết hợp chủ nghĩa yêu nước và lý tưởng XHCN.
Tăng cường quốc phòng, an ninh, đối ngoại. Chính sức mạnh của chế độ XHCN đã bảo
đảm cho miền Bắc đứng vững và hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ của hậu phương lớn đối
với tiền tuyến lớn miền Nam
trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước. Cũng chính sức mạnh của chế độ XHCN
đã bảo đảm cho cả nước sau năm 1975 vượt qua những khó khăn, thử thách nặng nề,
bảo vệ vững chắc Tổ quốc trong các cuộc chiến tranh ở biên giới Tây-Nam và biên
giới phía Bắc, tiếp tục có những bước phát triển mới.
Với tinh thần nhìn thẳng vào sự thật, đánh giá đúng sự thật,
nói rõ sự thật,
Đại hội VI ĐCSVN (12-1986) trong khi khẳng định những thành quả cũng đã thẳng
thắn chỉ ra những khuyết điểm, yếu kém dẫn tới khó khăn, trì trệ kéo dài trong
xây dựng CNXH và khủng hoảng KT-XH. Nguyên nhân của tình trạng đó là bệnh chủ
quan, duy ý chí, nóng vội trong cải tạo XHCN và đề ra các chủ trương, chính
sách; chưa tôn trọng và vận dụng đúng đắn các quy luật khách quan, nhất là các
quy luật và đặc trưng của thời kỳ quá độ phù hợp với đặc điểm thực tiễn VN. Thẳng
thắn nhìn nhận sự không thành công trong thực hiện quy luật quan hệ sản xuất phải
phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất. “Kinh nghiệm thực tế chỉ
rõ: lực lượng sản xuất bị kìm hãm không chỉ trong trường hợp quan hệ sản xuất lạc
hậu mà cả khi quan hệ sản xuất phát triển không đồng bộ, có những yếu tố đi quá
xa so với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất. Tình hình thực tế của nước
ta đòi hỏi phải coi trọng những hình thức kinh tế trung gian, quá độ từ thấp
lên cao, từ quy mô nhỏ lên quy mô lớn”[7].
Đường lối đổi mới toàn
diện do Đại hội VI ĐCSVN (12-1986) khởi xướng là kết tinh của tư duy lý luận mới,
nhận thức đúng đắn về CNXH và quá độ lên CNXH phù hợp với thực tiễn VN, khắc phục
tư duy chủ quan, giản đơn, nóng vội, giáo điều. Chủ tịch Hồ Chí Minh nhấn mạnh
sự cần thiết phải nắm bắt sâu sắc đặc điểm riêng của VN để tìm ra hình thức, bước
đi và quy luật riêng của VN, không thể làm giống như nước khác. Hồ Chí Minh nêu
rõ:
“Cuộc cách mạng XHCN là
một cuộc biến đổi khó khăn nhất và sâu sắc nhất. Chúng ta phải xây dựng một xã
hội hoàn toàn mới xưa nay chưa từng có trong lịch sử dân tộc ta… Chúng ta lại
phải tiến hành những nhiệm vụ đó trong những điều kiện đặc biệt của nước ta,
nghĩa là trên cơ sở của một xã hội vừa mới thoát khỏi ách thực dân, phong kiến,
hết sức lạc hậu”[8].
“Trong những điều kiện
như thế, chúng ta phải dùng những phương pháp gì, hình thức gì, đi theo tốc độ
nào để tiến dần lên CNXH?... Chúng ta phải nâng cao sự tu dưỡng về chủ nghĩa
Mác - Lênin để dùng lập trường, quan điểm, phương pháp chủ nghĩa Mác - Lênin mà
tổng kết những kinh nghiệm của Đảng ta, phân tích một cách đúng đắn những đặc
điểm của nước ta. Có như thế, chúng ta mới có thể dần dần hiểu được quy luật
phát triển của cách mạng VN, định ra được những đường lối, phương châm, bước đi
cụ thể của cách mạng XHCN thích hợp với tình hình nước ta”[9].
Từ đường lối cách mạng XHCN của Đại hội III (9-1960), Đại hội IV
(12-1976) đến đường lối đổi mới của Đại
hội VI (12-1986) là bước phát triển rất quan trọng về tư duy lý luận của ĐCSVN
về CNXH và về thời kỳ quá độ lên CNXH. Đó cũng là kết quả của sự tổng kết và khảo
nghiệm thực tiễn rất phong phú và sinh động. Trên cơ sở đổi mới tư duy lý luận
và trả lời những vấn đề do thực tiễn đặt ra mà Đại hội VII của Đảng (6-1991)
thông qua Cương lĩnh xây dựng đất nước
trong thời kỳ quá độ lên CNXH và Cương lĩnh được bổ sung, phát triển tại Đại
hội XI của Đảng (1-2011).
Quá trình đổi mới theo
con đường XHCN đxa tạo ra những chuyển biến căn bản và sâu sắc diện mạo của đất
nước, xã hội và đời sống của nhân dân. Một
là, đã chuyển đổi từ nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung, khép kín, kinh tế
hiện vật, công hữu, bao cấp sang nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, đa sở hữu,
vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước, nền kinh tế thị trường
định hướng XHCN. Hai là, về chính trị,
từ thực hiện những chức năng, nhiệm vụ của chuyên chính vô sản sang xây dựng,
hoàn thiện hệ thống chính trị, xây dựng Nhà nước pháp quyền, không ngừng hoàn
thiện hệ thống pháp luật, phát huy dân chủ XHCN, bảo đảm quyền công dân, quyền
con người; đổi mới và nâng cao năng lực lãnh đạo, năng lực cầm quyền của Đảng Cộng
sản. Ba là, thực hiện tốt hơn những vấn
đề xã hội và chính sách xã hội, củng cố đoàn kết và đồng thuận xã hội, bảo đảm
an sinh xã hội, không ngừng cải thiện đời sống vật chất và văn hóa, tinh thần của
nhân dân, từng bước thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội. Bốn là, tích cực và chủ động hội nhập quốc tế, thực hiện đường lối
đối ngoại độc lập, tự chủ, đa phương hóa, đa dạng hóa các quan hệ, VN là bạn,
là đối tác tin cậy, thành viên có trách nhiệm của cộng đồng quốc tế, khẳng định
vị thế của VN trên trường quốc tế; tăng cường quốc phòng, an ninh, bảo vệ vững
chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ, biển, đảo của Tổ quốc,
bảo vệ lợi ích quốc gia, dân tộc.
Nghiên cứu lý luận và tổng
kết thực tiễn luôn luôn được ĐCSVN coi trọng để có được những luận cứ khoa học
vững chắc cho việc hoạch định Cương lĩnh, đường lối, chiến lược phát triển và
chính sách. Từ những chuyển biến của thực tiễn đất nước dựa trên nền tảng tư tưởng
là chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, nhận thức về CNXH và con đường
đi lên CNXH ở VN đã ngày càng sáng tỏ hơn. Sáng tỏ về mục tiêu và mô hình xã hội
XHCN mà VN phấn đấu xây dựng với 8 đặc trưng, trong đó nội dung hàng đầu là xây
dựng xã hội dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh. Sáng tỏ hơn những
vấn đề kinh tế, chính trị, xã hội, văn hóa, con người của thời kỳ quá độ, nhất
là những hình thức tổ chức kinh tế, xã hội quá độ, chặng đường, bước đi của thời
kỳ quá độ. Sáng tỏ hơn khả năng bỏ qua chủ nghĩa tư bản, bỏ qua quan hệ sản xuất
và kiến trúc thượng tầng tư bản chủ nghĩa, nhưng có thể kế thừa những thành tựu
loài người đạt được dưới chế độ tư bản, nhất là thành tựu về khoa học-công nghệ.
Sáng tỏ hơn trong những định hướng lớn trong xây dựng phát triển đất nước và xử
lý đúng đắn các mối quan hệ lớn đã được Đại hội XI của Đảng xác định, bảo đảm
cho đất nước phát triển nhanh và bền vững.
CNXH trên thế giới mới
trải qua lịch sử xây dựng gần một trăm năm, có thành công, khuyết điểm và cả sự
đổ vỡ. Sự ra đời đầy khó khăn của một xã họi hoàn toàn mới là điều dễ hiểu. Con
đường phát triển chẳng bao giờ thẳng tắp, dễ dàng. Cách mạng tư sản trước đây,
có nước đã phải làm lại nhiều lần và trải qua mấy thế kỷ mới trở thành nước tư
bản phát triển. Sự đổ vỡ, thất bại của mô hình CNXH từ những sai lầm chủ quan của
Đảng cầm quyền vẫn cần được tiếp tục nghiên cứu và có được những lý giải khoa học.
Từ bài học Liên Xô, Đông Âu, các nước đang kiên định con đường XHCN vẫn tiếp tục
phát triển với nhận thức phù hợp với đặc điểm mỗi nước và đạt được những thành
tựu quan trọng. Trên thực tế, quá trình toàn cầu hóa, hội nhập quốc tế đang diễn
ra với sự tham gia của tất cả các nước có chế độ chính trị khác nhau, trong đó
có các nước đang xây dựng CNXH và hướng tới mục tiêu của CNXH.
VN đang đổi mới thành
công và từng bước hiện thực hóa mục tiêu của CNXH. VN công khai con đường XHCN
với vai trò lãnh đạo, cầm quyền của Đảng Cộng sản và quản lý điều hành của Nhà
nước pháp quyền XHCN, đã và đang giành được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa
lịch sử. VN phát triển theo con đường XHCN và được đông đảo các nước hợp tác để
cùng phát triển trong xu thế hội nhập quốc tế. VN đang có quan hệ ngoại giao với
185 nước trong tổng số 193 nước thành viên LHQ, có quan hệ đối tác chiến lược với
13 nước gồm những cường quốc và các nước phát triển hàng đầu, tham gia nhiều diễn
đàn thế giới, khu vực và nhiều tổ chức của LHQ. Vị thế quốc tế của VN tự nó khẳng
định tính đúng đắn của con đường xây dựng, phát triển đất nước.
Con đường xây dựng CNXH ở
VN vẫn còn những khuyết điểm, yếu kém cả về kinh tế, xã hội, văn hóa, đạo đức,
hay sự lãnh đạo, quản lý. Đó là khuyết điểm trong quá trình phát triển và không
thể vì những khuyết điểm yếu kém đó để phủ nhận những thành tựu cơ bản và lớn
lao đang làm biến đổi sâu sắc đất nước. Con đường XHCN để hướng tới một xã hội
tốt đẹp, thật sự vì con người, vì lợi ích quốc gia, dân tộc thì tại sao lại phải
từ bỏ nó. ĐCSVN lãnh đạo toàn dân xây dựng CNXH là vì mục tiêu đất nước giàu mạnh,
người dân được tự do, ấm no, sung sướng, hạnh phúc, vì một xã hội dân chủ, công
bằng, văn minh. Để đạt tới mục tiêu đó cần sự nỗ lực đóng góp công sức, trí tuệ
của mỗi người, của toàn dân với sức sáng tạo to lớn.
Những người phê phán con đường XHCN đã cố tình
phủ nhận lịch sử, quay lưng lại với thực tiễn, thành quả phát triển của đất nước,
để thực hiện mưu đồ chính trị xóa bỏ thành quả cách mạng, xóa bỏ chế độ XHCN và
vai trò lãnh đạo của ĐCSVN, đưa đất nước đi chệch hướng để thực hiện tham vọng
chính trị của họ. Điều dễ thấy là họ lợi dụng những khuyết điểm, yếu kém rồi thổi
phồng lên để phê phán, phủ nhận. Những thành tựu và những điều tốt đẹp thì họ lại
tìm cách bóp méo, xuyên tạc và phủ nhận. Vì vậy, cần phải tỉnh táo và có đủ trí
tuệ, bản lĩnh để nhận diện và bác bỏ quan điểm sai trái đó. Ta quyết tâm sửa chữa
những khuyết điểm, yếu kém và vững tin vào con đường đúng đắn. Lịch sử đất nước,
dân tộc đang phát triển trên con đường đúng đắn đó và không thế lực nào có thể
cản trở , phá hoại, vì đó là con đường phù hợp với quy luật tiến hóa của lịch sử.
[1] C.Mác
và Ph.Ăngghen Toàn tập, Nxb CTQG, Hà Nội, 1995, tập 19, trang 293.
[2] Lênin
Toàn tập, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva, 1980, tập 26, trang 444.
[3] Hồ
Chí Minh Toàn tập, Nxb CTQG, Hà Nội, 2011, tập 1, trang 47.
[4] Hồ
Chí Minh Toàn tập, Nxb CTQG, Hà Nội, 2011, tập 1, trang 94.
[5] Đại
cương lịch sử Việt Nam, tập II, Nxb Giáo dục, 1999, trang 252.
[6] Hồ
Chí Minh Tiểu sử, Nxb Lý luận chính trị, Hà Nội, 2006, trang 161.
[7] ĐCSVN:Văn kiện Đảng Toàn tập, Nxb CTQG, H, 2006, tập 47, trang 390.
[9] Hồ
Chí Minh Toàn tập, Nxb CTQG, Hà Nội, 2011, tập 11, trang 92.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét