Đặng Hữu
Con đường quá độ lên CNXH theo
phương thức “phát triển rút ngắn” – “bỏ qua giai đoạn phát triển TBCN” theo
nghĩa không bỏ qua hoàn toàn hình thái KT-XH TBCN, mà là con đường phát triển
có chọn lọc, kế thừa và tiếp thu những thành tựu văn hóa, văn minh mà nhân loại
đã đạt được dưới chế độ TBCN; có điều chỉnh và định hướng các thành tố, động lực
và xu hướng phát triển theo tiến trình của CMVN – đó là quan điểm nhất quán của ĐCSVN kể từ khi Đảng ra đời (3 – 2 – 1930) đến nay.
Trên phương diện lý luận, chúng
ta có thể khẳng định, quan điểm đó của ĐCSVN là sự vận dụng
đúng đắn và phát triển sáng tạo quan điểm của CN M-L về thời kỳ quá độ, về con
đường và phương thức quá độ lên CNXH ở những nước lạc hậu, tiền TBCN.
1. Quan điểm của CN M-L về con đường quá độ lên CNXH theo
phương thức “phát triển rút ngắn”
Chúng ta đều biết, các nhà sáng lập
CN Mác – C.Mác và Ph.Ăngghen – chưa bao giờ sử dụng khái niệm “thời kỳ quá độ từ
CNTB lên CNXH. Chúng ta chỉ biết trong lý luận của các ông về CNXH có quan niệm
về thời kỳ quá độ này qua sự thừa nhận của V.I.Lênin rằng, “Mác có nói đến cả một
thời kỳ chuyên chính vô sản, thời kỳ quá độ từ CNTB lên CNXH”([1]).
Chỉ có V.I.Lênin sử dụng khái niệm thời kỳ quá độ từ CNTB lên CNXH và khái niệm
quá độ lên CNXH “không phải trải qua giai đoạn phát triển TBCN”([2]).
Song, một điều mà chúng ta không thể phủ nhận là, cả C.Mác, Ph.Ăngghen và
V.I.Lênin đều nói đến con đường quá độ
lên CNXH theo phương thức “phát triển rút ngắn”, khi các ông luận giải về
cách mạng xã hội CN và khả năng thắng lợi của CNXH.
Trước hết, chúng ta nói về quan
điểm của C.Mác và Ph.Ăngghen. Khi luận giải về khả năng thắng lợi của cách mạng
xã hội CN, về tính tất yếu lịch sử của CNXH, trên cơ sở phân tích vận mệnh lịch
sử của CNTB ở giai đoạn phát triển cạnh tranh tự do của nó và trong bối cảnh sục
sôi đấu tranh giai cấp và bão táp cách mạng ngay trên mảnh đất đã sản sinh ra CNTB
- ở châu Âu thế kỷ XIX, C.Mác và Ph.Ăngghen đã đưa ra dự báo về khả năng thắng
lợi đồng thời của cách mạng xã hội CN ở tất cả các nước TBCN phát triển. Song,
vốn là những nhà triết học duy vật biện chứng, các ông không bao giờ coi học
thuyết, lý luận của mình là hoàn chỉnh và đã xong xuôi hẳn, càng không bao giờ
các ông coi đó là những giáo điều, tín niệm. Các ông chỉ coi học thuyết của
mình như một sự gợi ý về phương pháp, như một kim chỉ nam cho hành động sáng tạo
cách mạng và trong nó tuyệt nhiên không có sẵn và đầy đủ mọi câu trả lời cho tất
cả những sự biến đổi sinh động của thực tiễn cuộc sống.
Về điều này, chính Ph.Ăngghen đã
khẳng định rằng, toàn bộ lý luận của C.Mác “không phải là một học thuyết, mà là
một phương pháp”; rằng, lý luận đó “không đem lại những giáo điều có sẵn, mà
đem lại những điểm xuất phát cho việc tiếp tục nghiên cứu và phương pháp cho sự nghiên cứu đó”([3]).
Do vậy, một khi thực tiễn cách mạng vượt qua những kiến giải khoa học đã có và
làm cho một số luận điểm nào đó trong học thuyết của các ông trở nên không còn
thích hợp, các ông đã kịp thời tự phê phán và đưa ra những giải thích, những luận
chứng bổ sung mới.
Với quan niệm duy vật về lịch sử,
với học thuyết về hình thái KT-XH, khi tiến hành phân tích hình thái KT-XH TBCN,
C.Mác đã khẳng định sự phát triển của những hình thái KT-XH là một quá trình lịch
sử - tự nhiên, song không phải quốc gia dân tộc nào cũng nhất thiết phải trải
qua tất cả các hình thái KT-XH đã có trong lịch sử, và do những điều kiện khách
quan, chủ quan nhất định, một quốc gia dân tộc nào đó có thể bỏ qua một hình
thái nhất định nào đó. C.Mác còn lưu ý rằng, một xã hội, ngay cả khi đã phát hiện
được quy luật tự nhiên trong sự vận động của nó, cũng không thể nào nhảy qua
các giai đoạn phát triển tự nhiên ấy hay dùng sắc lệnh để xóa bỏ, nhưng nó có thể rút ngắn và làm dịu bớt những cơn
“đau đẻ” – “những đau khổ của chế độ tư bản”. Trong Thư gửi ban biên tập tờ “Ký sự nước nhà”, khi nói về nước Nga, về
khả năng nước Nga có thể “không cần phải trải qua những đau khổ của chế độ tư bản”,
C.Mác đã nói đến cơ hội tiến lên CNXH như một khả năng lựa chọn mà lịch sử đã mở
ra, đã dành cho nước Nga.
Sau này, C.Mác và Ph.Ăngghen,
trong Lời tựa viết cho lần xuất bản Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản bằng tiếng
Nga (năm 1882), đã khẳng định nước Nga mới là nước “đang đi tiên phong trong
phong trào cách mạng châu Âu”, cách mạng Nga mới là cuộc cách mạng “báo hiệu một
cuộc cách mạng vô sản ở phương Tây”; với cuộc cách mạng này và khi được sự ủng
hộ, “bổ sung” bởi cuộc cách mạng vô sản ở châu Âu thì nước Nga có thể tiến lên CNXH bỏ qua giai đoạn phát triển TBCN.
Lời khẳng định này còn được
Ph.Ăngghen nhắc lại một lần nữa 8 năm sau đó, khi ông viết Lời tựa cho lần xuất bản bằng tiếng Đức (năm 1890) tác phẩm Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản. Và, 4 năm
sau, trong Lời bạt viết cho tác phẩm Về vấn đề xã hội ở Nga, Ph.Ăngghen lại
thêm một lần nữa khẳng định khả năng nước Nga có thể “rút ngắn một cách đáng kể
quá trình phát triển của mình lên xã hội xã hội CN và có thể tránh được phần lớn
những đau khổ và những cuộc đấu tranh mà ở Tây Âu… phải trải qua”. Hơn nữa, ông
còn khẳng định rằng, “con đường phát triển
rút ngắn như vậy… không chỉ đúng với
nước Nga, mà với tất cả các nước đang ở trong giai đoạn phát triển tiền TBCN”([4])
(chúng tôi nhấn mạnh – Đ.H.T).
Theo đó, có thể nói, khi vẫn giữ
quan niệm về khả năng thắng lợi đồng thời của cách mạng xã hội CN ở các nước TBCN
phát triển, C.Mác và Ph.Ăngghen đã đưa ra
những dự báo về khả năng thắng lợi của cuộc cách mạng đó không phải ở các nước TBCN
phát triển, mà ở các nước kém phát triển, thậm chí ở các nước đang trong giai
đoạn phát triển tiền ta bản CN. Với dự báo này, các ông đã nói đến con đường
“phát triển rút ngắn” không qua giai đoạn phát triển TBCN của các nước này, mà
nước Nga lạc hậu, đang trong giai đoạn phát triển tiền TBCN là một ví dụ cụ thể.
V.I.Lênin, vào cuối thế kỷ XIX –
đầu thế kỷ XX, khi phân tích CNTB trong giai đoạn đế quốc CN – giai đoạn phát
triển độc quyền của nó, và với việc phát hiện ra quy luật phát triển không đồng
đều về kinh tế và chính trị của CNTB, đã đi đến kết luận về khả năng thắng lợi của cách mạng xã hội CN ở một số nước TBCN,
thậm chí ở một nước, và hơn nữa, đó có thể là nước TBCN kém phát triển nhất, hay đang trong giai đoạn phát triển tiền TBCN.
Sau thắng lợi của Cách mạng tháng
Mười Nga, vào năm 1920, V.I.Lênin đã nói đến con đường phát triển không qua
giai đoạn phát triển TBCN và khả năng quá độ lên CNXH “không phải trải qua giai
đoạn phát triển TBCN” của các nước lạc hậu, tiểu nông, chậm phát triển([5]).
Và, với kinh nghiệm của những năm thực hiện “chính sách kinh tế mới” (NEP), ông
đã khẳng định rằng, con đường quá độ lên CNXH có thể có những hình thức khác
nhau tùy thuộc vào trình độ phát triển của lực lượng sản xuất. Ông cho rằng,
hình thức “quá độ trực tiếp” là con đường “phát triển tuần tự” từ CNTB lên CNXH, còn hình thức “quá độ gián tiếp” là con đường “phát triển rút ngắn”, bỏ qua giai đoạn
phát triển TBCN, là con đường từ tiền TBCN lên CNXH.
Ở đây, cần lưu ý rằng, trong quan
niệm của V.I.Lênin, những loại hình khác nhau này của con đường phát triển xã hội,
“phát triển tuần tự” hay “phát triển rút ngắn” cũng đều phải tuân
theo quy luật khách quan và đều là con đường phát triển lịch sử - tự nhiên. Và,
trong sự “phát triển tuần tự” cũng có thể có khả năng “rút ngắn” nào đó, nghĩa
là con đường phát triển này không nhất thiết phải trải qua toàn bộ sự phát triển
đầy đủ của CNTB rồi mới tiến lên CNXH. Nước Nga với “chính sách kinh tế mới”
chính là một trường hợp như vậy và V.I.Lênin coi đó là con đường “phát triển
rút ngắn trong tuần tự”. Con đường “quá độ gián tiếp” theo phương thức “phát
triển rút ngắn” lại khác. Ở con đường này không diễn ra sự “phát triển tuần tự”,
mà diễn ra theo kiểu bỏ qua, “không kinh qua” chế độ TBCN, quá độ đi lên CNXH từ
các quan hệ phong kiến hay tiền TBCN.
Như vậy, có thể nói, trên phương
diện lý luận, cả C.Mác, Ph.Ăngghen và V.I.Lênin đều đã nói đến con đường quá độ
lên CNXH theo phương thức “phát triển rút ngắn” và khẳng định đó là con đường
phát triển tất yếu khách quan đối với các nước lạc hậu, đang trong giai đoạn
phát triển tiền TBCN, hay chưa phát triển TBCN.
2. Đảng Cộng sản Việt Nam vận dụng và phát triển sáng tạo
quan điểm của CN M-L về con đường quá độ lên CNXH theo phương thức “phát triển
rút ngắn”
Xác định CN M-L là cơ sở lý luận
nền tảng, lấy quan điểm của CN M-L về con đường quá độ lên CNXH theo phương thức
“phát triển rút ngắn” làm kim chỉ nam cho CMVN, ngay tại Đại hội thành lập Đảng,
trong Chánh cương vắn tắt của Đảng, Đảng
ta đã khẳng định chủ trương “làm tư sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách mạng
để đi tới xã hội cộng sản”([6]).
Cụ thể hóa đường lối cách mạng
đó, tại Đại hội II (tháng 2 năm 1951), trong Chính cương của Đảng đã chỉ rõ nhiệm vụ cơ bản của CMVN và khẳng định:
“Cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân Việt
Nam nhất định sẽ đưa Việt Nam tiến tới CNXH”([7])
(chúng tôi nhấn mạnh – Đ.H.T).
Tại Đại hội III (tháng 9 năm
1960), Đảng đã xác định đường lối chung của miền Bắc trong thời kỳ quá độ là
“đưa miền Bắc tiến nhanh, tiến mạnh, tiến vững chắc lên CNXH”, củng cố miền Bắc
thành cơ sở vững mạnh cho cuộc đấu tranh thực hiện hòa bình, thống nhất nước
nhà, góp phần tăng cường hệ thống xã hội CN, bảo vệ hòa bình trong phạm vi khu
vực và trên thế giới.
Sau Đại thắng mùa Xuân 1975, Tổ
quốc Việt Nam đã thống nhất, cả dân tộc Việt Nam cùng bước vào một giai đoạn
cách mạng mới – tiến hành công cuộc xây dựng CNXH trên phạm vi cả nước, tại Đại
hội IV (tháng 12 năm 1976), Đảng đã xác định: Trong thời đại ngày nay, khi độc
lập dân tộc và CNXH không thể tách rời nhau và ở Việt Nam, “khi giai cấp công nhân giữ vai trò lãnh đạo cách mạng thì thắng lợi của
cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân cũng là sự bắt đầu của cách mạng xã hội CN,
sự bắt đầu của thời kỳ quá độ lên CNXH”([8]).
Với tư tưởng quán xuyến này, Đảng
đã quyết định lựa chọn con đường cả nước cùng đi lên CNXH. Sự lựa chọn đó là
hoàn toàn phù hợp với thực tiễn phát triển của CMVN, phù hợp với xu thế chung của
thời đại. Song, do Việt Nam bước vào xây dựng CNXH trên cơ sở của một nền kinh
tế còn rất lạc hậu, cơ sở vật chất – kỹ thuật còn non yếu, phần lớn lao động vẫn
là thủ công, sản xuất xã hội chưa bảo đảm được nhu cầu, Đảng đã khẳng định: Dẫu
Việt Nam “vẫn đang ở trong quá trình từ một
xã hội mà nền kinh tế còn phổ biến là sản xuất nhỏ”, song con đường cách mạng
của Việt Nam vẫn là “tiến thẳng lên CNXH,
bỏ qua giai đoạn phát triển TBCN”([9]).
Quá độ lên CNXH từ xuất phát điểm
thấp, lại bỏ qua giai đoạn phát triển TBCN là con đường hoàn toàn mới mẻ, chưa
từng có tiền lệ trong lịch sử nhân loại. Do vậy, việc thực hiện con đường phát
triển này đòi hỏi rất nhiều sự nỗ lực của nhân tố chủ quan. Trên cơ sở của đường
lối chung, chúng ta cần phải cụ thể hóa cho phù hợp để từ đó, xác định bước đi,
cách thức thực hiện trong thực tiễn. Song, trong quá trình thực hiện con đường
phát triển đó, trên thực tế, chúng ta đã mắc không ít sai lầm, khuyết điểm, như
“chủ quan, nóng vội, bảo thủ, trì trệ”, chưa thực sự nắm chắc quy luật của quá
trình tiến từ nền sản xuất nhỏ lên sản xuất lớn xã hội CN, chưa có những hiểu
biết đầy đủ về thực tế và còn thiếu, thậm chí rất thiếu kiến thức kinh tế,… Những
sau lầm chủ quan đó cùng với hoàn cảnh khách quan của một nền sản xuất nhỏ quá
độ lên CNXH, lại bỏ qua giai đoạn phát triển TBCN đã khiến Việt Nam rơi vào
tình trạng khủng hoảng KT-XH.
Trong bối cảnh khủng hoảng KT-XH
đó, niềm tin vào CNXH đã giảm sút ở không ít người, thậm chí có người còn quy kết
sai lầm đó là ở việc lựa chọn con đường xã hội CN. Bác bỏ sự quy kết đó, Đảng Cộng
sản Việt Nam đã khẳng định: Không phải sai lầm dẫn đến khủng hoảng KT-XH là ở
việc lựa chọn con đường xã hội CN, mà là ở việc chúng ta đã thiết kế một mô
hình phát triển kinh tế không phù hợp với thực tiễn đất nước và cách thức tiến
hành không thích hợp. Thực tiễn khủng hoảng KT-XH đó đã đặt ra trước chúng ta
nhiệm vụ nhận thức lại con đường phát triển, đổi mới nhận thức về CNXH, về mô
hình phát triển kinh tế, về cách thức tiến hành. Nhiệm vụ bức thiết này đã được
chúng ta giải quyết tại Đại hội VI của Đảng.
Tại Đại hội VI (tháng 12 năm
1986) – Đại hội đổi mới, con đường quá độ
lên CNXH theo phương thức “phát triển
rút ngắn” của CMVN đã được Đảng chính thức khẳng định với việc sử dụng cụm
từ “bỏ qua giai đoạn phát triển TBCN”.
Khi đó, với nhận định rằng, ngày nay, chúng ta đã có những điều kiện để hiểu biết
đầy đủ hơn về con đường tiến lên CNXH ở Việt Nam, Đảng đã khẳng định: Từ CNTB
lên CNXH phải trải qua thời kỳ quá độ là một tất yếu khách quan, và độ dài của
thời kỳ đó phụ thuộc vào điều kiện chính trị,
kinh tế, xã hội của mỗi nước. Thời
kỳ quá độ ở Việt Nam, do tiến thẳng lên CNXH từ
một nền sản xuất nhỏ, bỏ qua giai đoạn phát triển TBCN, đương nhiên phải
lâu dài và rất khó khăn([10])
(chúng tôi nhấn mạnh – Đ.H.T). Đó là cả một thời kỳ cải biến cách mạng sâu sắc,
toàn diện và triệt để nhằm xây dựng từ đầu một chế độ xã hội mới cả về lực lượng
sản xuất lẫn quan hệ sản xuất và kiến trúc thượng tầng.
Quan điểm đó đã được Đảng ta cụ
thể hóa hơn tại Đại hội VII (tháng 6 năm 1991). Và, trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH được
thông qua tại Hội nghị đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ khóa VII, khi nhận định
Việt Nam quá độ lên CNXH trong hoàn cảnh quốc tế đang có những biến đổi to lớn
và sâu sắc, đặc biệt là với sự sụp đổ của Liên Xô và các nước xã hội CN Đông Âu
đã khiến cho phong trào cách mạng xã hội CN trên phạm vi toàn thế giới lâm vào
thoái trào tạm thời, CNXH đứng trước nhiều khó khăn, thử thách; lịch sử thế giới
đang trải qua những bước quanh co, song loài người cuối cùng nhất định sẽ tiến
tới CNXH vì đó là quy luật tiến hóa của lịch sử, Đảng đã tiếp tục khẳng định
con đường CMVN là quá độ lên CNXH theo phương thức “phát triển rút ngắn”.
Với khẳng định đó, Đảng ta đã chỉ
rõ, con đường quá độ lên CNXH theo phương thức “phát triển rút ngắn” đòi hỏi
chúng ta “phải tiếp tục nâng cao ý chí tự
lực tự cường, phát huy mọi tiềm năng vật chất và trí tuệ của dân tộc đồng thời
mở rộng quan hệ hợp tác quốc tế, tìm tòi bước đi, hình thức và biện pháp
thích hợp xây dựng thành công CNXH” nhằm mục tiêu tổng quát khi kết thúc thời kỳ
quá độ là xây dựng xong về cơ bản những cơ sở kinh tế của CNXH, với kiến trúc
thượng tầng về chính trị và tư tưởng, văn hóa phù hợp, làm cho Việt Nam trở
thành một nước xã hội CN phồn vinh. Quá độ lên CNXH ở Việt Nam là “quá trình
lâu dài, trải qua nhiều chặng đường. Mục
tiêu của chặng đường đầu là: thông qua đổi mới toàn diện, xã hội đạt tới trạng
thái ổn định vững chắc, tạo thế phát triển nhanh ở chặng sau”([11]).
Con đường quá độ lên CNXH theo
phương thức “phát triển rút ngắn” được thể hiện trong Cương lĩnh đó đã được Đảng ta tiếp tục khẳng định tại các đại hội
tiếp theo của Đảng. Gần đây nhất, tại Đại hội XI (tháng 1 năm 2011), khi đưa ra
đánh giá tổng quát 25 năm đổi mới, 20 năm thực hiện Cương lĩnh xây dựng xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH, Đảng
đã khẳng định: Với sự nỗ lực phấn đấu của toàn Đảng, toàn dân và toàn quân,
“chúng ta đã giành được những thành tựu
to lớn có ý nghĩa lịch sử. Đất nước thực hiện thành công bước đầu công cuộc
đổi mới, ra khỏi tình trạng kém phát triển; đời sống nhân dân được cải thiện rõ
rệt. Hệ thống chính trị và khối đại đoàn kết dân tộc được củng cố, tăng cường.
Độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ và chế độ xã hội CN được giữ
vững; vị thế và uy tín của Việt Nam trên trường quốc tế được nâng cao. Sức mạnh
tổng hợp của đất nước đã tăng lên rất nhiều, tạo tiền đề để nước ta tiếp tục
phát triển mạnh mẽ hơn theo con đường xã hội CN([12]).
Những thành tựu đó chứng tỏ đường
lối đổi mới của Đảng là đúng đắn, sáng tạo, phù hợp với thực tiễn Việt Nam. Nhận
thức về CNXH và con đường đi lên CNXH ngày càng sáng tỏ hơn; hệ thống quan điểm
lý luận về công cuộc đổi mới, về xã hội xã hội CN và con đường đi lên CNXH ở Việt
Nam đã hình thành trên những nét cơ bản. Những thành tự đó cho chúng ta càng thấy
rõ giá trị định hướng và chỉ đạo của Cương
lĩnh mà ở đó, con đường quá độ lên CNXH theo phương thức “phát triển rút ngắn”
đã được Đảng xác định là đường lối chiến lược của CMVN.
Như vậy, chúng ta có thể khẳng định,
con đường quá độ lên CNXH theo phương thức
“phát triển rút ngắn” (“bỏ qua giai đoạn phát triển TBCN”) là đường lối cách mạng
nhất quán của Đảng Cộng sản Việt Nam; là sự vận dụng đúng đắn và phát triển
sáng tạo CN M-L về cách mạng xã hội CN; là bước phát triển quan trọng trong nhận
thức và tư duy lý luận của Đảng thời kỳ đổi mới.
Chúng ta khẳng định đó là đường lối
cách mạng nhất quán của Đảng Cộng sản Việt Nam, bởi như trên chúng tôi đã trình
bày, quá độ lên CNXH bỏ qua giai đoạn phát triển TBCN ngay từ đầu đã được Đảng
xác định là con đường phát triển của CMVN. Từ Chánh cương vắn tắt được thông qua tại Đại hội thành lập Đảng và
trong suốt tiến trình phát triển của CMVN từ đó đến nay, chưa bao giờ Đảng ta
xa rời đường lối cách mạng này.
3. Quá độ lên CNXH bỏ qua giai đoạn phát triển TBCN ở Việt
Nam, về thực chất, là con đường “phát triển rút ngắn” với các biện pháp “quá độ
gián tiếp”- bước phát triển quan trọng trong
nhận thức và tư duy lý luận của Đảng Cộng sản Việt Nam thời kỳ đổi mới
Trong quan điểm của Đảng
ta, thực hiện con đường này là để tạo ra sự biến đổi về chất của xã hội Việt
Nam trên tất cả các lĩnh vực. Song, khi nói quá độ lên CNXH bỏ qua giai đoạn
phát triển TBCN là con đường “phát triển rút ngắn”, trước hết Đảng đã chỉ rõ cần
phải hiểu “rút ngắn” là thế nào và có thể “rút ngắn” giai đoạn nào trong quá
trình phát triển ấy.
Chúng ta đều biết, trong quan niệm
của các nhà sáng lập CN M-L, tiến trình phát triển của lịch sử nhân loại được
quy định bởi sự phát triển của lực lượng sản xuất. Tương ứng với mỗi giai đoạn
phát triển nhất định của lực lượng sản xuất là một quan hệ sản xuất phù hợp. Sự
ra đời quan hệ sản xuất mới trên cơ sở phát triển của lực lượng sản xuất là tất
yếu, khách quan và toàn các quan hệ sản xuất này hợp thành cơ sở kinh tế của xã
hội mà trên đó, dựng lên một thượng tầng kiến trúc pháp lý và chính trị với những
hình thái ý thức xã hội tương ứng. Hay nói cách khác, ứng với mỗi giai đoạn
phát triển nhất định trong lịch sử nhân loại là một hình thái KT-XH cụ thể. Sự
thay thế lẫn nhau của các hình thái KT-XH trong tiến trình phát triển lịch sử
nhân loại là một quá trình lịch sử - tự nhiên. Sự vận động đi lên của xã hội
loài người được quy định bởi các quy luật khách quan, trong đó quy luật nền tảng
là quy luật về sự phù hợp của quan hệ sản xuất với trình độ phát triển của lực
lượng sản xuất. Lực lượng sản xuất xã hội ngày một phát triển khiến cho quan hệ
sản xuất từ chỗ phù hợp trở thành xiềng xích cản trở sự phát triển tiếp theo của
lực lượng sản xuất và khi đó, bắt đầu thời đại của một cuộc cách mạng xã hội.
Trên phạm vi toàn thế giới, sự thay thế lẫn nhau của các
hình thái KT-XH là một quá trình lịch sử - tự nhiên, song ở phạm vi một quốc
gia dân tộc, do quy luật phát triển không đồng đều về kinh tế, chính trị, do cách mạng
xã hội có thể có những bước phát triển đột biến, nhảy vọt, có thể diễn ra sự “bỏ qua” hay “rút ngắn” một hình thái KT-XH nào đó, kể
cả việc “bỏ qua” hay “rút ngắn” một giai đoạn phát triển nào đó trong một hình
thái KT-XH. Song, dù là “phát triển
tuần tự” hay “phát triển rút ngắn” cũng đều là sự phát triển liên tục của lực
lượng sản xuất, nghĩa là không thể “bỏ qua” được sự phát triển của lực lượng
sản xuất. Mọi sự “phát triển rút ngắn” đều phải nhằm mục đích cuối cùng là tạo
ra sự phát triển vượt bậc, thậm chí là nhảy vọt của lực lượng sản xuất. Và do vậy,
về thực chất, “phát triển rút ngắn” chỉ
có thể là “rút ngắn” các giai đoạn hay bước đi trong tiến trình phát triển liên
tục của lực lượng sản xuất.
Trong
thời đại của cuộc cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại, với sự phát triển
mạnh mẽ, phát triển với tốc độ vũ bão của khoa học và công nghệ sản xuất, trình
độ sản xuất, kỹ năng lao động, trình độ tổ chức và quản lý sản xuất của con
người được tăng lên đáng kể và đến lượt mình, nó cho phép con người có thể “rút
ngắn” các giai đoạn phát triển hay hình thức công nghệ của sự phát triển lực
lượng sản xuất. Song, theo quy luật về sự phù hợp của quan hệ sản xuất với
trình độ phát triển của lực lượng sản xuất thì sự phát triển của lực lượng sản
xuất tất dẫn đến sự thay đổi các quan hệ sản xuất. Và do vậy, một khi đã không
thể bỏ qua được sự phát triển của lực lượng sản xuất trong tiến trình “phát
triển rút ngắn”, thì về nguyên tắc, cũng
không thể bỏ qua được các quan hệ sản xuất phù hợp với sự phát triển ấy của lực
lượng sản xuất. Thế nhưng, trong tiến trình “phát triển rút ngắn”, nhờ có
sự phát triển vượt bậc, nhờ tạo ra được sự phát triển nhảy vọt của lực lượng
sản xuất mà người ta có thể làm biến đổi
các quan hệ sản xuất, thậm chí còn có
khả năng xuất hiện những hình thức quan hệ sản xuất mới, tiên tiến trong
mối bước nhảy vọt ấy của lực lượng sản xuất.
Như
vậy, có thể nói, trong tiến trình của sự "phát triển rút ngắn", sự phát triển nhảy vọt của lực lượng sản
xuất là cái quy định sự ra đời của một hệ thống các quan hệ sản xuất mới,
phù hợp với trình độ phát triển ấy của lực lượng sản xuất. Hệ thống các quan hệ
sản xuất này, ngoài những quan hệ sản xuất của hình thái KT-XH đang hướng tới -
những quan hệ sản xuất đóng vai trò nền tảng, quy định xu hướng vận động và
phát triển của xã hội, còn có cả những quan hệ sản xuất thuộc hình thái KT-XH
đã qua nhưng vẫn còn tác dụng phối hợp điều tiết các mối quan hệ của con người
và qua đó, còn có khả năng thúc đẩy sự phát triển KT-XH. Tương ứng với một cơ
sở kinh tế như vậy là một kiến trúc thượng tầng đảm bảo cho sự vận hành và phát
triển của xã hội theo hướng hiện thực hoá hình thái KT-XH đang hướng tới.
Theo
đó, quá độ lên CNXH bỏ qua giai đoạn phát
triển TBCN theo phương thức "phát triển rút ngắn" nhằm mục tiêu
cuối cùng là tạo ra sự phát triển nhảy vọt của lực lượng sản xuất trên cơ sở
một hệ thống các quan hệ sản xuất mà trong đó, các quan hệ sản xuất xã hội CN
dần chiếm vị trí chi phối trong nền kinh tế quốc dân, phải có nghĩa là bỏ qua việc xác lập vị trí thống trị của
quan hệ sản xuất TBCN; mà bỏ qua việc xác lập vị trí thống trị của quan hệ
sản xuất TBCN lại có nghĩa là ở đó, không còn tồn tại cơ sở kinh tế cho việc
xác lập kiến trúc thượng tầng TBCN và do vậy, cũng là bỏ qua việc xác lập vị trí thống trị của kiến trúc thượng tầng TBCN.
Tương tự như vậy, do không thể bỏ qua sự phát triển liên tục của lực lượng sản
xuất, thì đương nhiên, cũng không thể bỏ qua được những thành tựu văn hoá, văn
minh mà nhân loại đã đạt được dưới chế độ TBCN, nhất là những thành tựu khoa học
và công nghệ.
Điều
đó cho thấy, Đảng Cộng sản Việt Nam đã hoàn toàn đúng khi khẳng định con đường
đi lên, con đường phát triển của CMVN là "sự phát triển quá độ lên CNXH, bỏ qua chế độ TBCN, tức là bỏ qua việc
xác lập vị trí thống trị của quan hệ sản xuất và kiến trúc thượng tầng TBCN,
nhưng tiếp thu, kế thừa những thành tựu mà nhân loại đã đạt được dưới chế độ TBCN,
đặc biệt về khoa học và công nghệ, để phát triển nhanh lực lượng sản xuất, xây
dựng nền tảng kinh tế hiện đại"([13])
(chúng tôi nhấn mạnh - Đ.H.T.).
Chúng
ta đang trong thời kỳ quá độ lên CNXH với phương thức “phát triển rút ngắn”
nhằm mục tiêu “phát triển nhanh lực lượng sản xuất, xây dựng nền kinh tế hiện
đại”, trong bối cảnh toàn cầu hoá kinh tế đã trở thành xu thế khách quan, khoa
học và công nghệ có bước tiến nhảy vọt, kinh tế tri thức có vai trò ngày càng
nổi bật trong quá trình phát triển lực lượng sản xuất. Do vậy, để đạt được mục
tiêu chiến lược “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh” với “mục tiêu tổng quát khi kết thúc thời kỳ
quá độ” là “xây dựng được về cơ bản nền tảng kinh tế của CNXH với kiến trúc
thượng tầng về chính trị, tư tưởng, văn hoá phù hợp, tạo cơ sở để… trở thành một nước xã hội CN ngày càng phồn vinh, hạnh phúc”, mà “từ nay
đến giữa thế kỷ XXI, toàn Đảng, toàn dân ta phải ra sức phấn đấu xây
dựng nước ta trở thành một nước công
nghiệp hiện đại, theo định hướng xã hội CN”([14]),
chúng ta không thể không đẩy nhanh tiến trình “công nghiệp hoá, hiện đại hoá
đất nước gắn với phát triển kinh tế tri thức”([15]).
Theo đó, có thể nói, với Việt Nam hiện nay, quá độ lên CNXH theo phương thức "phát triển rút ngắn", về phương diện
kinh tế, chính là quá trình thực hiện con
đường “đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước gắn với phát triển kinh
tế tri thức” theo cách "rút ngắn thời gian, vừa có những bước tuần tự, vừa có bước nhảy vọt".
Nhận
thức rõ con đường quá độ lên CNXH theo phương thức “phát triển rút ngắn” nhằm
tạo ra sự biến đổi về chất của xã hội trên tất cả các lĩnh vực là sự nghiệp rất
khó khăn, phức tạp, tại Đại hội XI, khi thông qua Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH (Bổ
sung, phát triển năm 2011, Đảng ta đã xác định rõ: “Đây là một quá trình cách
mạng sâu sắc, triệt để, đấu tranh phức tạp giữa cái cũ và cái mới nhằm tạo ra
sự biến đổi về chất trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội, nhất thiết
phải trải qua một thời kỳ quá độ lâu dài với nhiều bước phát triển, nhiều hình
thức tổ chức kinh tế, xã hội đan xen”([16]).
Quá
độ lên CNXH bỏ qua hay "không trải qua", "không kinh qua"
giai đoạn phát triển CNTB đầy đủ - đó là quan điểm nhất quán của ĐCSVN về con đường phát triển của CMVN. Quan điểm đó được hình thành trên cơ
sở vận dụng đúng đắn và phát triển sáng tạo quan điểm của CN Mác - Lênin về
cách mạng XHCN và công cuộc xây dựng CNXH.
Quá
độ lên CNXH bỏ qua giai đoạn phát triển TBCN ở Việt Nam là con đường "quá
độ gián tiếp" theo phương thức “phát triển rút ngắn”, là bước phát triển
tất yếu, khách quan, hợp quy luật theo tiến trình phát triển lịch sử - tự
nhiên, là con đường phát triển phù hợp với nguyện vọng, khát vọng của đông đảo
quần chúng nhân dân lao động VN, con đường phát triển nhằm mục tiêu dân
giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.
Phương
thức phát triển của con đường quá độ đó là "phát triển rút ngắn". Nội
dung cơ bản của con đường quá độ đó là bỏ qua việc xác lập vị trí thống trị của
quan hệ sản xuất và kiến trúc thượng tầng TBCN để phát triển nhanh lực lượng
sản xuất, xây dựng nền kinh tế hiện đại và do vậy, là con đường quá độ không bỏ
qua sự phát triển liên tục của lực lượng sản xuất và trong tiến trình phát
triển của nó, có bao hàm cả sự tiếp thu, kế thừa những thành tựu văn hoá, văn
minh mà nhân loại đã đạt được dưới chế độ TBCN, đặc biệt là những thành tựu
khoa học và công nghệ.
Quá
độ lên CNXH bỏ qua giai đoạn phát triển TBCN nhằm tạo ra sự phát triển nhảy vọt
về lực lượng sản xuất và nhanh chóng xây dựng nền kinh tế hiện đại trong bối
cảnh của thời đại ngày nay chính là con đường đẩy mạnh CNH,HĐH gắn với phát triển kinh tế tri thức theo cách rút ngắn thời gian, vừa
có những bước tuần tự, vừa có bước nhảy vọt trong suốt tiến trình phát triển.
Quá độ lên CNXH bỏ qua giai đoạn phát triển TBCN nhằm tạo
ra sự biến đổi về chất của xã hội trên tất cả các lĩnh vực không bao giờ là con
đường bằng phẳng, dễ dàng và do vậy, việc phải trải qua một thời kỳ quá độ lâu
dài với nhiều bước phát triển, nhiều chặng đường, nhiều hình thức tổ chức kinh
tế, xã hội đan xen, có tính chất quá độ là một tất yếu khách quan.
Đó
chính là bước phát triển quan trọng trong
nhận thức và tư duy lý luận của ĐCSVN, khi vận dụng, phát
triển sáng tạo quan điểm của CN M-L về con đường quá độ lên CNXH theo phương
thức “phát triển rút ngắn” trong thời kỳ đổi toàn diện đất nước theo định hướng
xã hội CN.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét