Như đã
thành thói quen, cứ vào dịp đất nước ta kỷ niệm Cách mạng Tháng Tám và Quốc
khánh 2-9 là trên một số trang mạng và cơ quan truyền thông ở nước ngoài, một
số người Việt lưu vong có thâm thù với chế độ XHCN lại tung ra những thông tin
xuyên tạc sự thật, bóp méo lịch sử, bôi nhọ thành quả cách mạng của nhân dân
Việt Nam. Với dụng ý xuyên tạc sự thật, những ý kiến cá nhân mang tính tư biện,
suy diễn một cách chủ quan, phiến diện, họ hồ đồ khi cho rằng: Cách mạng
Tháng Tám năm 1945 ở Việt Nam đã “không đem lại dân chủ, tự do thực sự cho
người dân,...”. Không hiểu họ lấy tư cách gì mà phán xét như vậy?
Thật
là nực cười! Vì họ đã cố tình bóp méo lịch sử, ngoảnh mặt, quay lưng lại với
đất nước, xúc phạm lòng tự tôn dân tộc. Họ cố tình quên một sự thật hiển nhiên: Cách
mạng Tháng Tám năm 1945 là bước ngoặt vĩ đại trong lịch sử dân tộc Việt Nam,
đập tan ách thống trị của thực dân và phong kiến, giành chính quyền về tay nhân
dân. Sau đó, bằng cuộc Tổng tuyển cử phổ thông đầu phiếu ngày 06-01-1946, nhân
dân ta đã lập nên Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hòa (nay là Cộng hòa XHCN Việt
Nam) - một nhà nước với thể chế chính trị dân chủ đầu tiên ở Đông Nam Á,
mở ra kỷ nguyên mới trong tiến trình lịch sử của dân tộc Việt Nam - kỷ nguyên độc
lập, tự do và CNXH. Cách mạng vừa thành công, thể chế dân chủ cộng hòa vừa mới
ra đời đã phải đương đầu với những khó khăn từ mọi phía, cùng một lúc phải đối
phó với nhiều kẻ thù; đặc biệt là quân Pháp trở lại xâm lược Việt Nam. Trong
khi đó, nền kinh tế Việt Nam kiệt quệ, tiêu điều bởi hậu quả nặng nề từ chính
sách cai trị hà khắc của chế độ thực dân, phong kiến, v.v. Có thể nói, đây là
thời kỳ vận mệnh dân tộc Việt Nam ở thế “ngàn cân treo sợi tóc”, v.v. Thế
nhưng, với sức mạnh và ưu thế của chế độ dân chủ mới, khối đại đoàn kết toàn
dân dưới sự lãnh đạo của Đảng, sau chín năm trường kỳ kháng chiến kiên cường và
anh dũng, chúng ta đã đánh thắng kẻ thù xâm lược mạnh hơn mình gấp nhiều lần về
tiềm lực kinh tế và quân sự, mà đỉnh cao là Chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ
năm 1954. Chiến thắng đó đã khẳng định bản lĩnh, trí tuệ và sức mạnh Việt Nam.
Sau
khi Hiệp định Giơ-ne-vơ được ký kết, cuộc chiến tranh xâm lược của thực dân
Pháp đối với Việt Nam kết thúc. Theo Hiệp định Giơ-ne-vơ, sau 2 năm Việt Nam sẽ
tổ chức Tổng tuyển cử thống nhất đất nước. Thế nhưng, với ý đồ xâm lược Việt
Nam từ lâu, đế quốc Mỹ đã lợi dụng cơ hội thực dân Pháp rút quân khỏi nước ta,
nhảy vào dựng lên chính quyền tay sai Ngô Đình Diệm, viện trợ kinh tế, quân sự,
biến miền Nam Việt Nam thành thuộc địa kiểu mới, hòng chia cắt lâu dài đất nước
ta. Một lần nữa, cả dân tộc ta bước vào cuộc kháng chiến chống quân xâm lược
mới. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, quân và dân ta đã đoàn kết triệu người như một,
lần lượt đánh bại các chiến lược chiến tranh của đế quốc Mỹ và tay sai, làm nên
Đại thắng mùa Xuân năm 1975. Với chiến thắng đó, nhân dân Việt Nam vĩnh viễn
thoát khỏi ách nô dịch của chủ nghĩa đế quốc, thoát khỏi họa đất nước bị chia
cắt, giải phóng hoàn toàn miền Nam, hoàn thành cuộc cách mạng dân tộc dân chủ
nhân dân trên cả nước; bảo vệ và phát huy những thành quả của Cách mạng Tháng
Tám năm 1945 và những thành tựu bước đầu của cách mạng XHCN ở miền Bắc, đưa cả
nước bước vào kỷ nguyên mới: kỷ nguyên độc lập, tự do, thống nhất và đi lên
CNXH.
Vào cuối thập kỷ 80 của thế kỷ XX, dân tộc ta tiếp
tục vượt qua ảnh hưởng của “cơn lốc lớn” từng làm sụp đổ chế độ XHCN ở Liên Xô
và các nước XHCN ở Đông Âu, giữ vững chế độ XHCN ở Việt Nam, phát triển
kinh tế thị trường theo định hướng XHCN, phát huy dân chủ XHCN, xây dựng nhà
nước pháp quyền của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Dưới sự
lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam,
công cuộc đổi mới của Nước ta trong hơn 30 năm qua đã đạt được những thành tựu
to lớn, có ý nghĩa lịch sử, tạo được thế và lực mới để xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam
XHCN. Những thắng lợi đó đã tạo nên sự tiến bộ rõ nét của con người và xã hội
Việt Nam, đưa nước ta từ một xứ thuộc địa nửa phong kiến trở thành một quốc gia
độc lập, tự do, ổn định và phát triển theo con đường XHCN; nhân dân ta từ thân
phận nô lệ trở thành người làm chủ đất nước, làm chủ xã hội và làm chủ bản
thân, chất lượng cuộc sống ngày càng được nâng cao. Cương lĩnh xây dựng
đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH (bổ sung, phát triển năm 2011) của Đảng Cộng
sản Việt Nam tiếp tục khẳng định: “Xã hội XHCN mà nhân dân ta xây dựng là một
xã hội: Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh; do nhân dân làm chủ;
có nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và quan hệ
sản xuất tiến bộ phù hợp; có nền văn hoá tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; con
người có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện;
các dân tộc trong cộng đồng Việt Nam bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng và giúp
nhau cùng phát triển; có Nhà nước pháp quyền XHCN của nhân dân, do nhân dân, vì
nhân dân do Đảng Cộng sản lãnh đạo; có quan hệ hữu nghị và hợp tác với các nước
trên thế giới”. Đồng thời, nhấn mạnh: con người là trung tâm của chiến lược
phát triển, đồng thời là chủ thể phát triển. Tôn trọng và bảo vệ quyền con
người, gắn quyền con người với quyền và lợi ích của dân tộc, đất nước và quyền
làm chủ của nhân dân; dân chủ XHCN là bản chất của chế độ ta, vừa là mục tiêu,
vừa là động lực của sự phát triển đất nước. Đại hội XII của Đảng tiếp tục khẳng
định những cam kết quốc tế của Nhà nước ta với cộng đồng quốc tế về quyền con
người: “Coi trọng chăm lo hạnh phúc và sự phát triển toàn diện của con người,
bảo vệ và bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp, chính đáng của con người, tôn trọng
và thực hiện các điều ước quốc tế về quyền con người mà nước ta ký kết”[1]. Xây dựng và từng bước hoàn thiện nền dân chủ XHCN,
bảo đảm dân chủ được thực hiện trong thực tế cuộc sống ở mỗi cấp, trên tất cả
các lĩnh vực. Dân chủ gắn liền với kỷ luật, kỷ cương và phải được thể chế hóa
bằng pháp luật, được pháp luật bảo đảm, v.v. Đảng, Nhà nước và nhân dân ta đã
có những cố gắng rất lớn trong thực hiện Mục tiêu Phát triển Thiên niên kỷ,
được cộng đồng quốc tế đánh giá cao. Việt Nam đã hoàn thành sớm một số mục
tiêu, như: xóa bỏ tình trạng nghèo cùng cực; phổ cập giáo dục tiểu học; cơ bản
hoàn thành mục tiêu về bình đẳng giới và nâng cao vị thế của phụ nữ; các quyền
con người trên tất cả các nhóm quyền, từ quyền dân sự, chính trị, đến quyền
kinh tế, xã hội và văn hóa ngày càng được nâng cao. Tình hình chính trị xã hội ổn định, quốc phòng, an ninh được
tăng cường, môi trường hòa bình được giữ vững, bảo vệ
vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc. Vai trò, vị thế và uy tín của Việt Nam
trong khu vực và trên thế giới tiếp tục được nâng cao.
Dù còn không ít khó khăn và hạn chế, song
những thành tựu của Việt Nam về phát triển con người, thực thi dân chủ đã và
đang được thực tiễn chứng minh và khẳng định, không thể phủ nhận. Bà Pratibha
Mehta, Điều phối viên thường trú của Liên hợp quốc, đánh giá: “Việt Nam là một
trong những nước rất năng động và đạt được tiến bộ phát triển con người rất
nhanh”, v.v. Có thể nói, ngoài mục đích trực tiếp là giành độc lập, tự do cho
dân tộc, Cách mạng Tháng Tám năm 1945 còn mở đường để Việt Nam đi lên CNXH từng
bước vững chắc.
Cách mạng Tháng Tám năm 1945 - một
sự kiện lịch sử hào hùng, thiêng liêng của dân tộc và có ý nghĩa thời đại sâu
sắc. Những nhận định hồ đồ của một số người về vấn đề này cho thấy, họ không
hơn những “kẻ qua đường” chỉ “cưỡi ngựa xem hoa” đứng ngoài những sự kiện lịch
sử trọng đại. Người ta có thể đặt câu hỏi: những nhận định đó là cảm tính, ngộ
nhận, hay là sự cố tình “tráo trở”, rắp tâm lợi dụng những khó khăn,
hạn chế trong quá trình đi lên của đất nước để phủ nhận sạch trơn những thành
quả mà cách mạng đã mang lại cho đất nước và dân tộc?
Sự thật
vẫn là sự thật, mà đã là sự thật lịch sử thì không thể thay đổi. Vì động cơ
chính trị thấp hèn mà họ đang trở thành kẻ vô lương tâm, “vong ân bội nghĩa”
khi quay lưng lại lịch sử hào hùng của dân tộc mình, đất nước mình. Cho dù họ có ra sức xuyên tạc, vu cáo, bôi đen với
mọi hình thức thì cũng không thể bác bỏ được những thành thành tựu to lớn, vững
chắc trên mọi lĩnh vực của Đảng và Nhà nước ta, nhất là trong thời kỳ đổi
mới, hội nhập quốc tế (từ năm 1986 đến nay).
Những tiếng nói lạc điệu trên, có thể ít
nhiều tác động đến số ít người nhẹ dạ, cả tin. Song sự “trở cờ”, “quay lưng”
của một số nhân vật càng cho chúng ta cảm nhận sâu sắc thêm về cuộc đấu tranh
chống chiến lược “Diễn biến hòa bình”, âm mưu bạo loạn lật đổ của các thế lực
thù địch; đặc biệt, là cuộc đấu tranh phòng, chống “tự diễn biến”, “tự chuyển
hóa” trong nội bộ không chỉ mang tính cấp thiết, mà còn rất gay go, quyết liệt
và lâu dài.
Phiếm Đàm
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét