Tự do báo chí là một quyền cơ bản của con người. Song thực hiện quyền
đó ra sao lại phải căn cứ vào quy định của các điều ước quốc tế và truyền thống
văn hóa, đạo đức, chế độ xã hội, hệ thống luật pháp của mỗi quốc gia. Đó là sự
tất yếu khách quan mà mỗi tổ chức và cá nhân ở bất cứ quốc gia nào, trong đó có
Việt Nam đều phải tuân thủ. Mọi tổ chức, cá nhân lợi dụng quyền tự do báo chí,
quyền tự do ngôn luận trên báo chí xâm phạm tới quyền và lợi ích của mọi cá
nhân, tổ chức và lợi ích quốc gia, dân tộc là vi phạm pháp luật và nhất thiết bị
nghiêm trị. Có như vậy, quyền tự do báo chí mới được sử dụng một cách thiết thực,
hiệu quả, có ý nghĩa tích cực với xã hội theo tinh thần “Sống và làm việc theo
Hiến pháp, pháp luật”. Điều 19, Tuyên ngôn quốc tế nhân quyền Liên hợp quốc
(Tuyên ngôn) khẳng định:“Mọi người đều có
quyền tự do ngôn luận và bày tỏ ý kiến. Quyền này bao gồm sự tự do giữ quan điểm
không có sự can thiệp và sự tự do tìm kiếm, tiếp nhận, chia sẻ những ý tưởng và
thông tin bằng bất kỳ phương tiện truyền thông nào và không có biên giới”.
Song, tại Khoản 2, Điều 29, Tuyên ngôn lại chỉ rõ: “Trong khi thực hiện các quyền và quyền tự do cho cá nhân mọi người chỉ
phải tuân thủ các hạn chế do luật định nhằm mục đích duy nhất là bảo đảm việc
thừa nhận, tôn trọng đối với các quyền và quyền tự do của những người khác, đáp
ứng được những đòi hỏi chính đáng về đạo đức, trật tự công cộng, phúc lợi chung
trong một xã hội dân chủ”. Công ước Quốc tế về các quyền dân sự và chính trị
của Liên hợp quốc (Công ước), tại Khoản 2, Điều 19, khẳng định: “Mọi người đều có quyền tự do phát biểu quan
điểm; quyền này bao gồm quyền tự do tìm kiếm, tiếp nhận, và phổ biến mọi tin tức
và ý kiến bằng truyền khẩu, bút tự hay ấn phẩm, dưới hình thức nghệ thuật, hay bằng mọi phương tiện truyền thông
khác, không kể biên giới quốc gia” và Khoản 3, Điều 19, Công ước chỉ rõ: “Việc hành xử quyền tự do phát biểu quan điểm
(ghi ở khoản 2 nói trên) đòi hỏi đương sự phải có các bổn phận, trách nhiệm đặc
biệt. Quyền này chỉ có thể bị giới hạn bởi pháp luật vì nhu cầu: a. Tôn trọng
các quyền tự do và thanh danh của người khác; b. Bảo vệ an ninh quốc gia, trật
tự công cộng, sức khỏe công cộng hay đạo lý”.
Như mọi quốc gia dân chủ trên thế giới, Việt Nam thừa nhận quyền tự do
báo chí đã được quy định trong Tuyên ngôn, Công ước; đồng thời, căn cứ vào thực
tiễn đất nước đã cụ thể hóa thành những quy định trong hệ thống luật pháp để mọi
tổ chức và công dân thực hiện. Hiến pháp của Việt Nam năm 1946 (Hiến pháp đầu
tiên) và được sửa đổi, bổ sung (năm: 1959, 1980, 1992, 2013), đều khẳng định
người dân có quyền tự do báo chí và được pháp luật bảo đảm. Khoản 2, Điều 14, Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt
Nam, năm 2013 ghi rõ: “Quyền con người,
quyền công dân chỉ có thể bị hạn chế theo quy định của pháp luật trong trường hợp
cần thiết vì lý do quốc phòng, an ninh quốc gia, trật tự an toàn xã hội, đạo đức
xã hội, sức khỏe của cộng đồng” và Điều 25, khẳng định: “Công dân có quyền tự do ngôn luận, tự do
báo chí, tiếp cận thông tin, lập hội, biểu tình. Việc thực hiện các quyền này
do pháp luật quy định”. Theo đó, Nhà nước Việt Nam đã cụ thể hóa việc thực
hiện quyền con người, quyền công dân, trong đó có quyền tự do báo chí thành các
điều luật ở các bộ luật, luật, như: Bộ luật Hình sự năm 2015, Luật An ninh quốc
gia năm 2004, Luật Báo chí năm 2016, v.v. Đặc biệt, Điều 1, Luật Báo chí năm
2016, chỉ rõ “Phạm vi Điều chỉnh: Luật
này quy định về quyền tự do báo chí, quyền tự do ngôn luận trên báo chí của
công dân; tổ chức và hoạt động báo chí; quyền và nghĩa vụ của cơ quan, tổ chức,
cá nhân tham gia và có liên quan đến hoạt động báo chí; quản lý nhà nước về báo
chí”. Đây là sự luật hóa quyền tự do báo chí và xác lập nội dung luật pháp
tương ứng, nhằm tạo điều kiện bảo đảm tốt nhất cho việc thực thi quyền tự do
báo chí của mỗi tổ chức, cá nhân. Điều 10, Luật Báo chí 2016, quy định công dân
có quyền tự do: sáng tạo tác phẩm báo chí; cung cấp thông tin cho báo chí; phản
hồi thông tin trên báo chí; tiếp cận thông tin báo chí; liên kết với cơ quan
báo chí thực hiện sản phẩm báo chí; in, phát hành báo in. Điều 11, của Luật,
quy định công dân có quyền tự do ngôn luận trên báo chí, như: phát biểu ý kiến
về tình hình đất nước và thế giới; tham gia ý kiến xây dựng và thực hiện đường
lối, chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước; góp ý kiến, phê
bình, kiến nghị, khiếu nại, tố cáo trên báo chí đối với các tổ chức của Đảng,
cơ quan nhà nước, tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức chính trị xã hội - nghề
nghiệp, tổ chức xã hội, tổ chức xã hội - nghề nghiệp và các tổ chức, cá nhân
khác. Điều 12, của Luật, quy định: cơ quan báo chí phải đăng, phát kiến nghị,
phê bình, tin, bài, ảnh, tác phẩm báo chí khác của công dân phù hợp với tôn chỉ,
mục đích; trường hợp không đăng, phát phải trả lời, nêu rõ lý do khi có yêu cầu;
trả lời hoặc yêu cầu tổ chức, người có thẩm quyền trả lời bằng văn bản hoặc trả
lời trên báo chí về kiến nghị, khiếu nại, tố cáo của công dân gửi đến. Điều 13
của luật cũng quy định rõ: Nhà nước tạo điều kiện thuận lợi để công dân thực hiện
các quyền này và để báo chí phát huy đúng vai trò của mình; báo chí, nhà báo hoạt
động trong khuôn khổ pháp luật và được Nhà nước bảo hộ; không ai được lạm dụng
quyền tự do báo chí, quyền tự do ngôn luận trên báo chí để xâm phạm lợi ích của
Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức và công dân; báo chí không bị
kiểm duyệt trước khi in, truyền dẫn và phát sóng. Nhà nước Việt nam không chấp
nhận báo chí tự do “ngoài vòng pháp luật”. Những cá nhân, tổ chức lợi dụng báo
chí để “tự do” xuyên tạc sự thật, bôi nhọ lịch sử, kích động gây rối an ninh trật
tự, chia rẽ, gây hận thù, truyền bá chủ nghĩa ly khai, can thiệp vào công việc
nội bộ nước khác, tung ra những thông tin, hình ảnh khiêu dâm, kích dục độc hại
không phù hợp với thuần phong mỹ tục của dân tộc,… sẽ bị nghiêm trị. Riêng nội
dung này, ngay ở Hoa Kỳ, quốc gia vốn được
coi là “đất nước của tự do báo chí”, Điều 2358, Bộ luật Hình sự Hoa Kỳ nghiêm cấm:
“In ấn, xuất bản, biên tập, phát thanh, truyền bá, buôn bán, phân phối hoặc
trưng bày công khai bất kỳ tài liệu viết hoặc in nào có nội dung vận động, xúi
giục hoặc giảng giải về trách nhiệm, sự cần thiết tham vọng hoặc tính đúng đắn
của hành vi lật đổ hoặc tiêu diệt bất kỳ chính quyền cấp nào tại Hoa Kỳ bằng vũ
lực hoặc bạo lực”.
Hiện thực trên cho thấy, luật pháp quốc tế cũng như pháp luật các quốc
gia đều thừa nhận quyền tự do báo chí, tự do ngôn luận trên báo chí của mọi tổ
chức, cá nhân, nhưng cũng khẳng định, đó không phải là quyền “tự do tuyệt đối”.
Khi thực hiện quyền này, con người phải chịu những hạn chế nhất định nhằm bảo vệ
lợi ích chung của xã hội, nhà nước, của người dân. Như vậy, cả về lý luận, thực
tiễn và pháp lý đều khẳng định, tự do báo chí luôn phải tuân thủ pháp luật;
không thể có thứ “tự do báo chí” ngoài vòng pháp luật.
Thế nhưng, bất chấp lẽ phải, bằng nhiều thủ đoạn, phương tiện khác
nhau, các thế lực thù địch lợi dụng quyền tự do báo chí, tự do ngôn luận trên
báo chí, tìm mọi cách tác động Quốc hội Hoa Kỳ và các nước phương Tây, tổ chức
quốc tế thông qua các dự luật, nghị quyết, báo cáo thường niên,… để xuyên tạc,
vu khống Việt Nam: “Không có tự do ngôn luận, tự do báo chí”, “Nhà nước Việt
Nam kiểm soát và bóp nghẹt quyền tự do báo chí, tự do internet”, v.v. Chúng ra
sức lôi kéo một số chính khách cực đoan trong Quốc hội Hoa Kỳ, Anh, Ca-na-đa,
Úc,… tổ chức điều trần, hội thảo,… đồng thời, tổ chức ra các tờ báo, kênh phát
thanh - truyền hình và lập hàng nghìn báo điện tử, blog phản động tiếng Việt. Thực
chất của chúng là nhằm làm cho mọi tổ chức, cá nhân hiểu lầm rằng: tự do báo
chí là một quyền tuyệt đối; cổ xúy các phần tử cơ hội, bất mãn, các đối tượng
chống đối lợi dụng quyền tự do báo chí hoạt động chống phá Nhà nước Việt Nam
tích cực và quyết liệt hơn.
Thực tế cho thấy, với đường lối nhất quán của Đảng và hệ thống pháp luật
chặt chẽ, khoa học, sát thực tiễn của Nhà nước, Việt Nam đã đạt được những thành
tựu to lớn trong việc bảo đảm quyền tự do báo chí của người dân. Hiện nay, Việt
Nam có hơn 18.000 nhà báo được cấp thẻ, làm việc ở gần 900 cơ quan báo chí đủ
các loại hình từ truyền thống đến hiện đại. Các cơ quan báo chí đều có tôn chỉ,
mục đích rõ ràng, cơ sở vật chất ngày càng hiện đại, đội ngũ nhà báo đang hằng
ngày, hằng giờ chuyển tải thông tin trong nước và quốc tế một cách khách quan,
trung thực, đáp ứng đầy đủ nhu cầu người dân. Không những thế, báo chí còn là
diễn đàn, phương tiện phản biện xã hội tích cực, tham gia có hiệu quả trong đấu
tranh, ngăn chặn sự suy thoái về tư tưởng chính trị, phẩm chất đạo đức, lối sống,…
xây dựng xã hội dân chủ, văn minh, tiến bộ. Vì thế, báo chí Việt Nam thực sự trở
thành cầu nối giữa “lòng dân, ý Đảng”, tạo đồng thuận xã hội, thúc đẩy công cuộc
xây dựng, phát triển đất nước; là phương tiện kiểm tra, giám sát thực thi pháp
luật, công cụ bảo vệ lợi ích xã hội và quyền, nghĩa vụ của người dân. Bên cạnh
đó, qua mạng internet người dân Việt Nam còn được tiếp nhận nhiều thông tin từ những hãng
thông tấn, báo chí lớn, như: CNN, BBC, TV5, NHK, DW, Australia Network, KBS,
Bloomberg, AFP, AP, Reuters, Kyodo, v.v. Vì thế, nhiều tổ chức và chuyên gia quốc
tế đánh giá: Việt Nam là quốc gia có tốc độ phát triển internet hàng đầu khu vực, đặc biệt là mạng Facebook. Hiện tại, Việt Nam có 50 triệu
người sở hữu tài khoản Facebook; trong đó, 30 triệu người truy cập hằng ngày
thông qua thiết bị di động và là quốc gia có lượng người dùng internet lớn thứ 3 tại khu vực Đông Nam Á. Đây là minh chứng sinh động cho việc bảo đảm quyền tự do báo chí, tự do
ngôn luận trên báo chí, tự do internet ở Việt Nam. Tự nó, bác bỏ mọi luận điệu
xuyên tạc, vu cáo “Nhà nước Việt Nam kiểm soát và bóp nghẹt quyền tự do báo
chí, tự do internet”. Cần khẳng định rằng: đây là những cáo buộc vô căn cứ,
không chỉ xuyên tạc quyền tự do báo chí ở Việt Nam, mà còn vi phạm những quy định
của luật pháp quốc tế về quyền con người, quyền công dân, cũng như pháp luật Việt
Nam. Mọi hành động lợi dụng tự do báo chí phục vụ cho những mưu đồ xấu, vi phạm
dân chủ, đạo đức và thuần phong mỹ tục, pháp luật nhất thiết phải bị nghiêm trị./.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét