PGS,TS Đàm Đức Vượng
Một bản Hiến pháp được xây dựng trên nền
tảng của một nhà nước xã hội chủ nghĩa:
Trên các trang mạng gần đây và hiện nay lại rộ lên những bài
viết của những phần tử chống đối, đòi xóa bỏ Hiến pháp hiện hành của nước Cộng
hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, bên cạnh việc họ đòi đa nguyên đa đảng. Thực
chất là họ muốn xóa bỏ Đảng Cộng sản Việt Nam
và Nhà nước Cộng hòa xã hội Việt Nam. Họ nói rằng, “Điều 4 Hiến pháp
đã chống lại cải cách”, cho nên cần phải “ban hành dự thảo Hiến pháp mới”?...
Nói như vậy là vô căn cứ, phản khoa học. Họ không biết rằng, để có một bản Hiến
pháp là do sự đóng góp ý kiến của toàn dân, được nhân nhất trí, được các tổ
chức, đoàn thể thảo luận nhiều lần, cuối cùng, mang ra thảo luận tại Quốc hội
và được Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam thông qua. Chủ tịch
nước ký lệnh ban hành.
Nhà nước được hình thành với các dân tộc, sắc tộc, lãnh thổ, ngôn
ngữ, văn hóa mang bản sắc riêng. Các bộ tộc chưa phải là một nhà nước. Xã hội
xuất hiện sớm hơn nhà nước và gắn với nhà nước.
Nhà nước là một thiết chế
quyền lực gắn với dân chủ xã hội; gắn với quyền của con người; gắn với chế độ
xã hội.
Nhà nước có thủ đô, quốc
kỳ, quốc huy, quốc ca, ngày quốc khánh.
Nhà nước có các giai cấp,
tầng lớp, tôn giáo, tín ngưỡng. Hạ tầng (hạ tằng) cơ sở của nhà nước là nền
tảng bên dưới của xã hội. Kinh tế là hạ tầng cơ sở của nhà nước. Thượng tầng
(thượng tằng) kiến trúc của nhà nước là những công trình ở bên trên cơ sở kinh
tế của nhà nước đó, như văn hóa, chính trị, nghệ thuật, đạo đức, tôn giáo.
Bộ máy của nhà nước bao gồm
các cơ quan lập pháp, hành pháp, tư pháp. Ba cơ quan này hoạt động độc lập,
nhưng dưới sự quản lý chung của một bộ máy nhà nước thượng tầng.
Phương thức sản xuất ra đời
gắn với mỗi nhà nước tương ứng. Trong lịch sử đã xuất hiện 5 phương thức sản
xuất là phương thức sản xuất nguyên thủy; phương thức sản xuất chiếm hữu nô lệ;
phương thức sản xuất phong kiến; phương thức sản xuất tư bản; phương thức sản
xuất xã hội chủ nghĩa. Tuy nhiên, trong lịch sử, mới chỉ xuất hiện 4 hình thức
nhà nước là nhà nước chiếm hữu nô lệ; nhà nước phong kiến; nhà nước tư sản; nhà
nước xã hội chủ nghĩa.
Trên thế giới hiện nay tồn
tại ba loại hình nhà nước là nhà nước quân chủ lập hiến; nhà nước cộng hòa; nhà
nước dân chủ nhân dân và xã hội chủ nghĩa.
Nhà nước quân chủ lập hiến
là nhà nước vẫn duy trì chế độ vua, nhưng có hiến pháp, có quốc hội, có chính
phủ như Vương quốc Anh, Nhật Bản, Tây Ban Nha, Thụy Điển,...
Nhà nước cộng hòa là nhà
nước không có vua với người đứng đầu là tổng thống; có hiến pháp và các cơ quan
lập pháp, hành pháp, tư pháp, như Nga, Mỹ, Ấn Độ, Hàn Quốc,... Tương ứng với nó
là nền cộng hòa, dân chủ.
Nhà nước dân chủ nhân dân
và xã hội chủ nghĩa là nhà nước được xây dựng trên cơ sở lý luận chủ nghĩa xã
hội khoa học; có hiến pháp; người đứng đầu nhà nước là chủ tịch hoặc chủ tịch
hội đồng nhà nước và các cơ quan lập pháp, hành pháp, tư pháp. Tương ứng với nó
là nền cộng hòa và nền dân chủ xã hội chủ nghĩa. Nhà nước xã hội chủ nghĩa thực
chất là nhà nước dân chủ theo kiểu mới. Đảng cộng sản là lực lượng lãnh đạo nhà
nước xã hội chủ nghĩa. Chức năng của nhà nước xã hội chủ nghĩa là đối nội, đối
ngoại, xây dựng và bảo vệ đất nước, mang lại lợi ích và hòa bình, tự do, dân
chủ cho nhân dân.
Tính chất nhà nước cũng
biểu hiện khác nhau giữa các quốc gia. Có nhà nước mang tính chất dân chủ pháp
quyền nhằm đạt đến sự đồng thuận. Có nhà nước mang tính chất tập quyền, thể
hiện mọi quyền lực đều tập trung trong tay chính quyền trung ương. Nhà nước
liên bang thể hiện quyền lực được phân chia giữa chính quyền trung ương và
chính quyền địa phương, chính quyền bang. Cấu tạo nhà nước liên bang mang tính
chất dân chủ hơn nhà nước tập quyền. Nhà nước liên hiệp có chính phủ trung
ương, nhưng quyền lực nằm trong tay các chính phủ thành viên.
Hiến pháp là luật cơ bản, hoặc luật của luật của một nhà nước,
thể hiện những nguyên tắc, nguyên lý cơ bản của cơ cấu nhà nước và xã hội; quy
định những quyền lợi và nghĩa vụ của công dân và tổ chức chính quyền.
Trong thế giới ngày nay, cho dù là một
nhà nước quân chủ lập hiến, nhà nước cộng hòa hay nhà nước xã hội chủ nghĩa,
đều phải có hiến pháp. Nhà nước nào không có hiến pháp là nhà nước đó không có
chính thể.
Ngoài những nước có hiến
pháp thành văn là một số nước có hiến pháp không thành văn. Hiến pháp không
thành văn là hiến pháp dựa vào phong tục và luật lệ mà một nhóm người đặt ra,
chứ không phải do một cơ quan lập hiến thảo ra.
Hiến pháp bao giờ cũng gắn
liền với hình thái kinh tế - xã hội, tức là chế độ kinh tế và kiến trúc thượng
tầng (thượng tằng) thích ứng với chế độ kinh tế ấy của một xã hội ở một giai
đoạn nhất định trong sự tiến hóa của lịch sử. Công xã nguyên thủy, chế độ nô
lệ, chế độ phong kiến, chế độ tư bản, chế độ xã hội chủ nghĩa đều là những hình
thái kinh tế - xã hội khác nhau, thể hiện những giai đoạn đặc biệt trong sự
phát triển của xã hội loài người. Cơ sở kinh tế của mỗi xã hội sinh ra một kiến
trúc thượng tầng (thượng tằng). Đó là những quan điểm chính trị, pháp luật, tôn
giáo, triết học, nghệ thuật của xã hội cùng những cơ cấu chính trị, pháp luật
và tổ chức khác phù hợp với những quan điểm ấy. Mỗi hình thái kinh tế - xã hội
đều có những quy luật lịch sử riêng biệt chi phối sự phát sinh và phát triển
của xã hội ấy và cũng có những quy luật chung chi phối tất cả những hình thái
kinh tế - xã hội ấy thành một thể thống nhất, tạo thành lịch sử nhà nước. Sự chuyển
biến từ một hình thái xã hội này đến một hình thái xã hội khác, không có tính
chất ngẫu nhiên, mà nó diễn ra theo những quy luật chặt chẽ. Cơ sở của việc một
hình thái kinh tế - xã hội này thay thế cho một hình thái kinh tế - xã hội khác
diễn ra như một quy luật khách quan phù hợp với xu thế phát triển của xã hội
loài người. Hiến pháp được xây dựng cũng theo tinh thần đó.
Hiến pháp của một nhà
nước xã hội chủ nghĩa ở thời kỳ quá độ là đạo luật cơ bản của toàn dân, thể
hiện hệ thống chính trị, kinh tế hình thành trong điều kiện của nhà nước đó.
Chúng ta hãy tìm hiểu
xem một hệ thống Hiến pháp từ Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đến Nhà nước
Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam hiện nay sẽ thấy rõ bản chất của Nhà nước
cách mạng Việt Nam đã được thể hiện trong các Hiến pháp là độc lập dân tộc,
thống nhất đất nước, tiến lên xây dựng nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa hòa bình,
dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh, nhân dân có cuộc sống ấm no,
tự do, hạnh phúc, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam và sự quản lý của
Nhà nước (bao gồm cơ quan lập pháp, cơ quan hành pháp, cơ quan tư pháp) Cộng
hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Nhìn lại lịch sử,
trước năm 1946, Việt Nam
bị Chính phủ Đông Pháp đô hộ, cho nên không có Hiến pháp. Đến năm 1946, ngay
sau khi Cách mạng tháng Tám thành công, nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ra đời,
Nhà nước công nông đầu tiên của Đông Nam châu Á, nước ta mới có một bản Hiến
pháp của một nhà nước cách mạng non trẻ. Đó là Hiến pháp năm 1946.
Bản Hiến pháp thứ nhất, năm 1946:
Bản Hiến pháp này
được toàn thể Quốc hội nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (nay là Quốc hội nước
Cộng hòa xã hội Việt Nam) thông qua ngày 9-11-1946. Đây là bản Hiến pháp đầu
tiên của nước Việt Nam dân
chủ mới, đánh dấu bước mở đầu cho lịch sử tư tưởng lập hiến Việt Nam. Hiến pháp
năm 1946 gồm 7 chương với 70 điều. Đó là bản Hiến pháp của thời kỳ cách mạng
dân tộc dân chủ nhân dân.
Bản Hiến pháp thứ hai, năm 1959:
Hiến pháp năm 1959,
được Quốc hội nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa thông qua ngày 31-12-1959, gồm 10
chương, 112 điều. Đây là Hiến pháp của thời kỳ xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền
Bắc và đấu tranh giải phòng miền Nam, thống nhất đất nước.
Bản Hiến pháp thứ ba, năm 1992:
Hiến pháp năm 1992,
được Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam thông qua ngày 15-4-1992,
gồm 12 chương, 147 điều. Đây là Hiến pháp của đất nước đã thống nhất, Hiến pháp
của thời kỳ đổi mới toàn diện.
Bản Hiến pháp thứ tư, năm 2013:
Bản Hiến pháp năm
2013, được Quốc hội khóa XIII thông qua ngày 28-11-2013, hồm 11 chương, 120
điều. Đây là bản Hiến pháp tiếp tục của thời kỳ đổi mới toàn diện đất nước,
thời kỳ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc và hội nhập quốc tế trong tình hình mới.
Hiến pháp Việt Nam
được xây dựng trên nền tảng của một nhà nước xã hội chủ nghĩa của dân, do dân,
vì dân.
Tính chất và quyền lực của Nhà nước:
Điều 2 của Hiến pháp
năm 2013, khẳng định:
(1) “Nhà nước Cộng
hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân.
(2) Nước Cộng hòa xã
hội chủ nghĩa Việt Nam do Nhân dân làm chủ; tất cả quyền lực nhà nước thuộc về
Nhân dân mà nền tảng là liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân
và đội ngũ trí thức.
(3) Quyền lực nhà
nước là thống nhất, có sự phân công, phối hợp, kiểm soát giữa các cơ quan nhà
nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp”.
Về vấn đề này, trên
các trang mạng đòi không được ghi “nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa” và cần
thực hiện “tam quyền phân lập”. Như vậy, họ cố tình phủ nhận “Nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam” và đòi Đảng và Nhà nước ta phải thực hiện “tam
quyền phân lập”. Họ không biết rằng, đây mang dấu ấn đặc thù của một nhà nước
xã hội chủ nghĩa ở thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội.
Thuật ngữ “nhà nước
pháp quyền” do các chuyên gia về hiến pháp và luật pháp người Đức và người Áo
nêu ra lần đầu tiên vào đầu thế kỷ XIX. Từ đấy, thuật ngữ “pháp quyền” được áp
dụng tại nhiều nước theo một tiêu chí như một chế độ của nhà nước và có có thể
sánh được với quá trình phát triển khái niệm “nhân quyền”. Khi nói đến “nhà
nước” là nói đến một tổ chức chính trị - xã hội, cơ quan chuyên chính của một
giai cấp nắm quyền thống trị về kinh tế. Khi nói đến “pháp quyền” là nói đến hệ
thống luật pháp tiêu biểu cho quyền lực của một nhà nước, cho bản chất của một
chế độ. Có nhà nghiên cứu cho rằng, nhà nước pháp quyền không phải là một kiểu
nhà nước, mà là một hình thức phân công và tổ chức quyền lực nhà nước. Đến nay,
lịch sử loài người đã trải qua bốn kiểu nhà nước: nhà nước chiếm hữu nô lệ; nhà
nước phong kiến; nhà nước tư sản; nhà nước xã hội chủ nghĩa, trong đó có ba
kiểu nhà nước bóc lột chủ yếu: nhà nước chiếm hữu nô lệ; nhà nước phong kiến;
nhà nước tư sản. Nhà nước xã hội chủ nghĩa là một kiểu nhà nước mới, nhà nước
dân chủ theo kiểu mới và chuyên chính theo kiểu mới, khẳng định nhân dân lao
động là chủ thể của xã hội. Nhà nước xã hội chủ nghĩa thủ tiêu chế độ người bóc
lột người, xây dựng một xã hội do nhân dân lao động làm chủ. Đảng Cộng sản là
lực lượng lãnh đạo nhà nước xã hội chủ nghĩa.
Bản chất của một nhà
nước pháp quyền cùng với tiêu chí của nó chưa được xác định một cách rành mạch.
Một nhà nghiên cứu người Đức, Giáo sư, Tiến sĩ Umbach cho rằng, qua các cuộc
thảo luận về ý nghĩa của thuật ngữ “pháp quyền” mang lại ít kết quả, vì nó rất
trừu tượng. Theo Ông, yêu cầu về pháp chế đã được xây dựng và thực hiện ở các
quốc gia sẽ có ý nghĩa nhiều hơn. Với Ông, các đặc điểm khác nhau của nhà nước
pháp quyền đã được thể hiện theo nhiều cách, được chia thành nhóm và phân loại
các thành phần. Tuy nhiên, các giáo sư, các chuyên gia người Đức không có một
thỏa thuận nào về vấn đề này.
Qua các trạng mạng
internet, chúng ta thấy trong giới nghiên cứu của nhiều nước đang nói đến “nhà
nước pháp quyền”, coi đó như một xu thế để phát triển nhà nước trong tình hình
mới, nhất là trong xu thế tòan cầu hóa kinh tế.
Nhiều nhà khoa học
trên thế giới đã bắt đầu để ý nghiên cứu nhà nước pháp quyền. Tại Cộng hòa Liên
bang Đức, Chính phủ bắt đầu nghiên cứu một số dự án về nhà nước pháp quyền. Có
điều là ở châu Âu, nơi phát sinh khái niệm “nhà nước pháp quyền” cũng không
(hoặc chưa) xác định những tiêu chí chung của một nhà nước pháp quyền, mà tùy
theo mỗi nước mà xác định cho phù hợp với đặc điểm và hiến pháp của nước đó.
Một số nhà khoa học trên thế giới cho rằng, không cần phải theo mô hình nhà
nước pháp quyền của châu Âu hay châu Á, mà nên theo mô hình của nước mình. Vấn
đề đặt ra là phải bảo đảm quyền cơ bản của con người. Vì vậy, cho đến nay, vẫn
chưa có một tiêu chí chung cho một nhà nước pháp quyền.
Tuy nhiên, gần đây,
Giáo sư, Tiến sĩ Bery Hagơ (Barry Hager) thuộc Trung tâm Mansfield về các vấn
đề Thái Bình Dương, đưa ra một số vấn đề có tính nguyên tắc của một nhà nước
pháp quyền: (1) Khi cơ quan lập pháp thông qua một đạo luật, công dân phải có
quyền xem xét tính hợp hiến của đạo luật đó. (2) Khi cơ quan hành pháp tiến
hành khởi kiện, công dân phải có quyền xem xét tính hợp pháp và hợp hiến của vụ
kiện đó. (3) Khi cơ quan tư pháp tiến hành khởi kiện, công dân được quyền kháng
cao đối với vụ kiện đó, khi cần. Ba vấn đề mà GS,TS Bery Hagơ nêu ra phản ánh
tính dân chủ trong một nhà nước pháp quyền, nhằm vào quyền và trách nhiệm của
công dân đối với vấn đề lập pháp, hành pháp, tư pháp trong nhà nước pháp quyền.
Ông coi đó là quyền cơ bản của con người trong nhà nước pháp quyền. Rõ ràng, xu
hướng nghiên cứu của Ông về nhà nước pháp quyền là thiên về quyền công dân.
Giáo sư, Tiến sĩ
D.C.Umbach lại cho rằng, ý nghĩa nội dung của nhà nước pháp quyền là nhà nước
bảo vệ công lý. Nhưng công lý là gì, lại là một vấn đề trừu tượng, mỗi nước
hiểu theo một cách khác nhau do nền chính trị nước đó quy định. Ông đã đưa ra
cách tiếp cận để nghiên cứu về nhà nước pháp quyền: (1) Xác định nền công lý
thực tại. (2) Áp dụng luật pháp thống nhất, bắt buộc và tính ổn định của pháp
luật. (3) Giới hạn sự tự áp đặt của nhà nước pháp quyền thông qua việc bảo đảm
các quyền cơ bản, thỏa thuận ràng buộc bởi nguyên tắc tương xứng và sự phân
chia quyền lực.
Nhà nước pháp quyền
không phải là toàn quyền, mà có giới hạn của nó; nếu không, nó sẽ lộng quyền.
Giáo sư, Tiến sĩ
D.C.Umbach cho rằng, không một “quỹ chính trị” nào có thể trả lời được câu hỏi
thế nào là công lý? Phải chăng, đó là nguyên tắc “không trừng phạt khi không có
tội” và nguyên tắc “trừng phạt phải phù hợp với tội trạng”.
Giáo sư, Tiến sĩ
D.C.Umbach nhấn mạnh đến nhà nước pháp quyền không được hoạt động tùy tiện,
hoặc ngẫu nhiên, mà nhất thiết phải tuân theo các tiêu chuẩn đã quy định. Nhà
nước pháp quyền phải được chỉ đạo theo các quy tắc của luật pháp chính thức có
tính chất phổ biến chung.
Ông Ibrahim Shihata,
Luật sư của Ngân hàng thế giới (WB) định nghĩa tóm tắt về nhà nước pháp quyền
là một nhà nước mà “các nguyên tắc về quyền hạn của chính phủ phải theo đúng
pháp luật; các tòa án độc lập; sự minh bạch của pháp luật và việc giám sát tư
pháp về tính hợp hiến của các đạo luật và các văn bản pháp quy khác”1. Xu hướng nghiên cứu này thiên về pháp
luật.
Vấn đề phân chia
quyền lực của nhà nước pháp quyền cũng được đặt ra để nghiên cứu. Nhiều nước
hiện nay vẫn đang áp dụng mô hình “tam quyền phân lập”, bảo đảm cho các cơ quan
lập pháp, hành pháp, tư pháp hoạt động riêng biệt và không nhất thiết phải có
sự ăn khớp với nhau. Họ cho rằng, mâu thuẫn trong công lý và pháp lý, nhiều khi
lại bảo đảm lẽ phải và công lý và phần nào khắc phục được các vụ án oan sai. Vì
vậy, quan điểm của họ về “tam quyền phân lập” là sự cần thiết trong nhà nước
pháp quyền. Tuy nhiên, không phải tất cả các nước đều áp dụng “tam quyền phân
lập”, mà có nước thấy rằng, khi áp dụng “tam quyền phân lập” thường dẫn đến sự
đánh giá khác nhau về các vụ án, bên nào cũng có lý lẽ của mình, dẫn đến tình
trạng bản án kéo dài, không kết luận được, làm cho bị cáo cứ ngắc ngoải trông
chờ.
Về xây dựng Nhà nước
pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân,
xuất hiện lần đầu trong Văn kiện Hội nghị đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ khóa
VII (tháng 1-1994) và được phát triển lên tại các hội nghị Trung ương sau đó. Nghị
quyết Hội nghị Trung ương 9, khóa IX (tháng 1-2004) khẳng định: “Tiếp tục đổi
mới phương thức lãnh đạo của Đảng, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa, phát huy dân chủ, tăng cường kỷ cương, củng cố khối đại đoàn kết toàn
dân tộc”2. Đó là phương hướng cơ bản của Đảng về
xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Bản chất của Nhà nước
pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam thể hiện bộ mặt tinh thần và đạo đức xã
hội, tính thực thi của pháp luật, sinh hoạt xã hội lành mạnh và quyền làm chủ
của công dân; từng bước đẩy mạnh và nâng cao chất lượng hoạt động lập pháp, thể
chế hóa, cụ thể hóa đường lối của Đảng thành luật pháp và các văn bản pháp quy
trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội. Đây là một vấn đề rất mới ở Việt
Nam, cho nên nghị quyết của Đảng cũng chỉ phác thảo ra những hướng chung nhất
về một nhà nước pháp quyền kiểu Việt Nam. Vấn đề đặt ra hiện nay là phải xây
dựng được một hệ thống lý luận về Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt
Nam.
Chủ trương xây dựng
Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam là sự thừa nhận và khẳng định Nhà
nước pháp quyền là tất yếu lịch sử. Nó không chỉ là sản phẩn riêng của nhà nước
tư sản, mà là tinh hoa, sản phẩm pháp lý trí tuệ của xã hội loài người, của nền
văn minh nhân loại.
Sự
lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước:
Điều 4, Hiến pháp hiện hành, ghi rõ:
“1. Đảng Cộng sản
Việt Nam – Đội tiên phong của giai cấp công nhân, đồng thời là đội tiên phong
của nhân dân lao động và của dân tộc Việt Nam, đại biểu trung thành lợi ích của
giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của cả dân tộc, lấy chủ nghĩa Mác –
Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, là lực lượng lãnh đạo Nhà
nước và xã hội.
2. Đảng Cộng sản Việt
Nam gắn bó mật thiết với Nhân dân, phục vụ Nhân dân, chịu sự giám sát của Nhân
dân, chịu trách nhiệm trước Nhân dân về những quyết định của mình.
3. Các tổ chức của
Đảng và đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và
pháp luật”1.
Hiến pháp ghi như vậy
là đầy đủ về sự lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước; đồng thời, cũng khẳng định
các tổ chức và đảng viên của Đảng hoạt động trong khổ Hiến pháp và pháp luật.
Đảng lãnh đạo Nhà nước, đồng thời, các tổ chức đảng và đảng viên nằm trong Nhà
nước, hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật.
Nhìn lại lịch sử,
thấy rằng, ngay từ khi thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam (năm 1930), Nguyễn Ái
Quốc đã đặt vấn đề “Dựng ra Chính phủ công nông binh”1.
Như vậy, Đảng đã sinh ra chính quyền nhà nước. Đến tháng 8-1945, Đảng và Chủ tịch
Hồ Chí Minh đã lãnh đạo nhân dân ta vùng lên tổng khởi nghĩa, giành chính quyền
về tay nhân dân, lập nên Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (nay là Nhà nước
Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam) với bản Hiến pháp năm 1946, trở thành Đảng
cầm quyền. Đến đây, chính quyền cách mạng đã trở thành hiện thực do Đảng khai
sinh. Từ đấy, trải qua hai cuộc kháng chiến chống xâm lược, Đảng đã lãnh đạo
Nhà nước cách mạng non trẻ với một hệ thống chính quyền các cấp, thực hiện cuộc
cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân tiến lên cách mạng xã hội chủ nghĩa. Hiện
nay, Đảng đang lãnh đạo Nhà nước và cùng nhân dân xây dựng chủ nghĩa xã hội ở
thời kỳ quá độ.
Về mối quan hệ Đảng
lãnh đạo, Nhà nước quản lý, Nhân dân làm chủ, có ý nghĩa quyết định để hoàn
thành thắng lợi những nhiệm vụ cách mạng quan trọng và cấp bách trong thời gian
tới. Mối quan hệ này phải trở thành cơ chế quản lý chung trong toàn xã hội. Vì
vậy, cần phải thắt chặt mối liên hệ giữa Đảng, Nhà nước với Nhân dân, bảo đảm
cho mối quan hệ này trở thành hệ thống quan điểm của Đảng trong thời kỳ đổi
mới. Hiện nay, trong ba thành tố của cấu trúc trên, vai trò lãnh đạo của Đảng
và sự quản lý của Nhà nước đã tương đối rõ, nhưng vai trò làm chủ của Nhân dân
mới chỉ rõ về mặt nhận thức, ý thức, còn chưa rõ về mặt cơ chế. Nhân dân làm
chủ như thế nào và làm chủ bằng cách nào đang còn là vấn đề chưa rõ, cần được
tiếp tục hoàn thiện.
Vấn đề quan trọng
nhất trong mối quan hệ này là Đảng và Nhà nước phải thật sự có uy tín với Nhân
dân. Muốn có uy tín với Nhân dân, thì phải tăng cường chống tiêu cực (trong đó
có các vụ tham nhũng) trong Đảng và trong Nhà nước. Vấn đề giải quyết tham
nhũng hiện nay vẫn đang còn dang dở, nó đang như “đứt cây động rừng”; bỏ dở
trong cuộc đấu tranh chống tham nhũng là mất lòng tin của các thành viên trong
xã hội. Người bỏ cuộc sẽ là người bại cuộc và sẽ mất uy tín. Thỏa hiệp ngầm, dĩ
hòa vi quý, “an bài” trong lúc này cũng sẽ dẫn đến mất lòng tin của người dân
đối với chế độ. Cái khó trong lúc này của chúng ta là có nhiều quan điểm khác
nhau giải quyết sự việc và con người phạm tội, mà một khi đã nói đến quan điểm
là động chạm đến vấn đề về mối quan hệ giữa con người với con người.
Hãy
chờ xem tình hình sẽ diễn biến như thế nào và cách giải quyết ra sao, rồi mới
có thể kết luận được.
1
Dẫn theo “Luật pháp quốc tế”, Klumer, xuất bản năm 1997, tr.5.
2
Văn kiện Hội nghị Trung ương 9, khóa IX,
Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2001, tr. 131.
1
Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia – Sự
thật, Hà Nội, 2014, tr. 9, 10.
1 Hồ Chí
Minh: Toàn tập, Nxb Chính trị quốc
gia – Sự thật, Hà Nội, 2011, tập 3, tr. 1.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét