QĐND - Ở tất
cả các quốc gia, chính sách đối ngoại luôn luôn liên quan mật thiết đến chính
sách đối nội và ngược lại. Đối với Đảng và Nhà nước ta, nhất là trong công cuộc
đổi mới, hội nhập quốc tế, tôn trọng và bảo vệ quyền con người, thực hiện nghĩa
vụ của quốc gia thành viên các Công ước quốc tế về quyền con người mà Việt Nam
đã gia nhập không chỉ là một mục tiêu, mà hơn nữa còn là một động lực của sự
phát triển đất nước. Chính vì vậy mà trước Đại hội VI - Đại hội được xem là
khởi đầu của công cuộc đổi mới, năm 1982 Nhà nước ta đã gia nhập nhiều Công ước
quốc tế về quyền con người, trong đó có 2 công ước: “Công ước quốc tế về các
quyền dân sự, chính trị”, 1966; “Công ước quốc tế về các quyền kinh tế, xã hội
và văn hóa”[1], năm 1966. Đây là hai công ước cơ bản quy định toàn diện về các
quyền con người.
Là một thành viên
có trách nhiệm của Cộng đồng quốc tế và của các Công ước quốc tế về quyền con
người, Việt Nam đã nội luật hóa các Công ước quốc tế mà mình là thành viên vào
hệ thống pháp luật quốc gia. Cho đến nay, Việt Nam đã tham gia hầu hết các Công
ước quốc tế về quyền con người, trừ Công ước “Chống tra tấn”. Công ước
này đang được Quốc hội xem xét các điều kiện trước khi tham gia. Tuy nhiên
những nội dung của công ước này đã được quy định trong “Công ước quốc tế về các
quyền dân sự chính trị”, mà Việt Nam là thành viên. Có thể nói, cho đến nay, hệ
thống pháp luật của Việt Nam về cơ bản đã tương thích với hệ thống công ước
quốc tế về quyền con người của Liên hợp quốc.
Trên cơ sở đường
lối đối ngoại độc lập, tự chủ, chính sách đối ngoại về quyền con người của Việt
Nam theo nguyên tắc: Nhất quán; tích cực; có trách nhiệm và tuân thủ các
chuẩn mực quốc tế về quyền con người. Là thành viên của Liên hợp quốc,
Việt Nam đã tham gia, đóng góp xây dựng và có trách nhiệm trên nhiều vấn đề
quốc tế, trong đó có lĩnh vực quyền con người. Việt Nam rất coi trọng cơ
chế kiểm điểm phổ cập định kỳ và đã thực hiện nghiêm túc Báo cáo kiểm điểm lần
đầu ngày 8-5-2009. Nhiều đại biểu tham gia hội nghị đã đánh giá cao báo
cáo của Việt Nam về tính khách quan, trung thực và những sáng tạo của Việt Nam
trong việc bảo đảm quyền con người trong điều kiện của một quốc gia đang phát
triển. Việt Nam cũng đã chấp thuận và đang nghiêm túc thực hiện các khuyến nghị
trong kiểm điểm đợt 1, nhằm tăng cường đối thoại theo cơ chế “Thủ tục đặc
biệt”. Từ tháng 7-2010 đến nay, Việt Nam đã đón 4 đại diện “Thủ tục đặc biệt”
của Liên hợp quốc về các vấn đề: “Dân tộc thiểu số”; về “đói nghèo cùng cực và
nhân quyền”; về “quyền được chăm sóc y tế”. Thời gian tới, Việt Nam sẽ đón các
đại diện “Thủ tục đặc biệt” về “Quyền giáo dục”, “Quyền có lương thực”, “Quyền
văn hóa” như đã cam kết trong các công ước quốc tế về quyền con người, đồng
thời sẽ tiếp tục xem xét đón thêm một số đại diện “Thủ tục đặc biệt” khác.
Trong quan hệ song
phương, Việt Nam cũng đã tăng cường hợp tác, đối thoại với nhiều quốc gia trên
lĩnh vực quyền con người. Việt Nam có cơ chế đối thoại nhân quyền hằng năm với
nhiều nước, trong đó có Hoa Kỳ, EU, Thụy Sỹ…Việt Nam cũng có những đóng góp
thiết thực đáng kể để tăng cường hợp tác về nhân quyền trong ASEAN, đặc biệt
trong quá trình thành lập và hoạt động của Ủy ban liên chính phủ ASEAN về nhân
quyền (AICHR) và việc xây dựng Tuyên ngôn Nhân quyền ASEAN, được thông qua tại
Hội nghị Cấp cao ASEAN tại Phnôm Pênh, tháng 11-2012.
Trong quan hệ với
Hoa Kỳ, quyền con người là một vấn đề xuyên suốt các thời kỳ lịch sử, từ những
trang đen tối trong chiến tranh đến những trang mới mẻ từ khi 2 nước thiết lập
quan hệ bình thường. Điều quan trọng là cho đến nay, Việt Nam và Hoa Kỳ đã có
chung điều kiện và nhận thức về nhiều vấn đề đa phương và song phương. Chẳng
hạn: Việt Nam và Hoa Kỳ đều là thành viên có trách nhiệm của Liên hợp quốc và
của các công ước quốc tế về quyền con người; nhân dân Việt Nam và Hoa Kỳ, trong
đó có nhiều cựu chiến binh, mong muốn phát triển quan hệ hợp tác toàn diện giữa
hai quốc gia, trước hết là về kinh tế, văn hóa cho đến những vấn đề khác như an
ninh, quốc phòng nhằm duy trì hòa bình, ổn định trong khu vực, nhất là ở Biển
Đông. Trên lĩnh vực quyền con người, hai bên cũng đã đạt được những bước tiến
nhất định, đó là đã thiết lập được cơ chế đối thoại hằng năm giữa hai quốc gia
trên lĩnh vực này. Không phủ nhận rằng, cho đến nay hai bên vẫn còn nhiều khác
biệt về nhận thức, quan điểm cụ thể, nhưng cũng không thể phủ nhận được rằng,
trong các cuộc đối thoại, cả hai bên đã thể hiện một cách thẳng thắn, cởi mở
quan điểm của mình. Phía Việt Nam cũng đã ghi nhận những vấn đề nhân quyền mà
phía Hoa Kỳ nêu ra.
Trong thời đại toàn
cầu hóa, sự khác biệt về hệ tư tưởng, thể chế quốc gia không phải là rào cản
không thể vượt qua trong quan hệ giữa các nước. Thực tế cho thấy, trên thế giới
hiện tồn tại nhiều quốc gia với sự khác biệt về hệ tư tưởng và thể chế chính
trị. Chẳng hạn, các nước theo chế độ cộng hòa tổng thống, cộng hòa đại nghị;
các nước theo chế độ quân chủ, quân chủ nghị viện; các nước theo chế độ dân chủ
nhân dân…và cả nhà nước tôn giáo (Vatican). Mặc dù có sự khác biệt nào đó nhưng
cộng đồng quốc tế vẫn là một thể thống nhất. Sự khác biệt nào đó về quyền con
người giữa Hoa Kỳ và Việt Nam là có thể hiểu được. Sự khác biệt đó bắt nguồn từ
những đặc thù về lịch sử, văn hóa và trình độ phát triển giữa hai quốc gia.
Đồng thời, nhân đây
cũng phải thẳng thắn nói rằng: Việt Nam đang phải đối diện với những thế lực
thù địch và những người mang quan điểm cực đoan, cường quyền, mưu toan lợi dụng
vấn đề dân chủ và nhân quyền nhằm lật đổ chế độ xã hội và Nhà nước hiện hữu,
chuyển sang mô hình dân chủ, nhân quyền “ngoại nhập”. Chẳng hạn như người ta
xuyên tạc, vu cáo Việt Nam vi phạm quyền tự do ngôn luận báo chí, bắt bớ bỏ tù
những người được gọi là “bất đồng chính kiến” trong đó có các blogger; hoặc họ
cho rằng Việt Nam đối xử tàn bạo với các tôn giáo với bằng chứng là những vụ
xét xử 14 người có đạo ở Nghệ An, 20 người ở Phú Yên hoặc đạo “Hà Mòn" ở
Tây Nguyên. Những người có nhận thức công bằng, khách quan thì không khó để bác
bỏ những lập luận và chứng cớ nói trên. Pháp luật của bất cứ quốc gia nào cũng
phải đồng thời bảo vệ nhân quyền và chế độ xã hội. Trong điều kiện hiện nay,
một số quốc gia luôn phải đối diện với các lực lượng chính trị đối lập
với sự trợ giúp của các lực lượng chính trị cường quyền ở nước ngoài nhằm thay
đổi chính phủ hiện hữu. Cái gọi là hoạt động “ôn hòa”, “bất bạo động” không nói
lên bản chất chính trị, bất hợp pháp của những kẻ mưu toan lật đổ chế độ xã
hội. Bởi vậy, Luật Hình sự Việt Nam có một số điều, như Điều 88, "Tội
tuyên truyền chống Nhà nước CHXHCN Việt Nam”; Điều 258, “Tội lợi dụng các quyền
tự do dân chủ xâm phạm lợi ích của Nhà nước…”; Điều 79, “Tội hoạt động nhằm lật
đổ chính quyền nhân dân”… nhằm ngăn cấm những hoạt động làm tổn hại đến
chế độ xã hội là điều đương nhiên.
Về những cáo buộc
vô căn cứ rằng Việt Nam vi phạm quyền tự do tôn giáo, “đối xử tàn bạo” với các
tôn giáo, sự thật là những người có đạo bị đưa ra tòa xét xử không phải vì họ
theo tôn giáo này hay tôn giáo khác, mà là vì họ vi phạm pháp luật. Đúng hơn,
họ đã lợi dụng quyền tự do tôn giáo để phục vụ ý đồ chính trị, lật đổ chế độ xã
hội, thậm chí còn có ý đồ thành lập quốc gia riêng của họ. Chẳng hạn vụ án “Hội
đồng công luật công án Bia Sơn”. Tổ chức này núp bóng doanh nghiệp hoạt động du
lịch sinh thái, với tham vọng lớn: Lật đổ nhà nước CHXHCN Việt Nam, thành
lập “Nhà nước Đại Nam Kinh Châu”.
Đường lối, chính sách
của Đảng, pháp luật của Nhà nước ta về quyền con người như đã nói ở trên đều
xuất phát từ mục tiêu, lý tưởng của Đảng, từ bản chất của chế độ ta. Nó hoàn
toàn không phải xuất phát từ sức ép nào đó của cộng đồng quốc tế hoặc của các
lực lượng chính trị đối lập trong và ngoài nước. Đường lối, chính sách nhất
quán của Nhà nước Việt Nam trên lĩnh vực quyền con người xuất phát từ tôn trọng
giá trị nhân quyền phổ quát, đồng thời bắt nguồn từ truyền thống lịch sử, văn
hóa hàng nghìn năm của dân tộc.
Đường lối, chính
sách trên lĩnh vực quyền con người ở Việt Nam là tiếp tục hoàn thiện pháp luật,
các cơ chế bảo đảm quyền con người; bảo đảm cân bằng giữa các nhóm quyền dân
sự, chính trị với nhóm quyền kinh tế, xã hội và văn hóa; quan tâm nhiều hơn đến
nhóm người nghèo, đồng bào vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào các dân tộc thiểu
số…, những nhóm trong xã hội dễ bị tổn thương, như trẻ em, nữ giới, các dân tộc
thiểu số... Việt Nam đặt lên hàng đầu yêu cầu bảo đảm an ninh quốc gia, trật tự
công cộng như là điều kiện cho tăng trưởng kinh tế, xóa đói giảm nghèo, đảm bảo
an sinh xã hội.
Hợp tác quốc tế
trên lĩnh vực quyền con người đối với Việt Nam không chỉ là việc thực hiện các
cam kết quốc tế, mà trước hết là tranh thủ các nguồn lực về tinh thần, vật chất
để phát triển đất nước, giữ vững và phát triển chế độ xã hội. Bởi vậy Đảng và
Nhà nước ta khẳng định, chính sách nhất quán của Việt Nam là tăng cường hợp tác
quốc tế, trong đó có hợp tác với Hoa Kỳ trên lĩnh vực quyền con người, bao gồm
tiếp tục đối thoại về nhân quyền, thu hẹp những bất đồng về nhận thức giữa hai
bên, giải quyết những vấn đề nhân quyền thiết thực trong đó có trách nhiệm của
Hoa Kỳ đối với nạn nhân trong chiến tranh, tìm kiếm, hồi hương hài cốt binh sĩ,
xử lý ô nhiễm chất độc đi-ô-xin.
ĐỨC
THÀNH - THANH TRÚC
1]- Trung tâm
nghiên cứu quyền con người, “Các văn kiện quốc tế cơ bản về quyền con người”,
2002. Tr 650
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét