PGS, TS. Nguyễn Văn Oánh
Những
năm gần đây, xuất hiện một số người phủ nhận chủ nghĩa Mác - Lênin, họ cho rằng
“Đảng Cộng sản Việt Nam
lấy chủ nghĩa Mác - Lênin làm nền tảng tư tưởng là sai lầm”. Họ lý giải chủ
nghĩa Mác - Lênin ra đời ở châu Âu với nội dung đấu tranh giai cấp bỏ quên dân
tộc, không phù hợp với thực tiễn Việt Nam; rằng ở Việt Nam chỉ cần tư tưởng Hồ
Chí Minh là đủ.
Để
góp phần phê phán quan điểm sai lầm “phủ nhận chủ nghĩa Mác - Lênin”, bài viết
này trình bày sự thống nhất chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và thực
tiễn cách mạng Việt Nam suốt thế kỷ XX đến nay, với 3 nội dung:
-
Chủ nghĩa Mác - Lênin là sự thống nhất giữa bản chất giai cấp công nhân với
tính nhân dân và tính dân tộc.
-
Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định vai trò dẫn đường của chủ nghĩa Mác - Lênin với
cách mạng Việt Nam.
-
Thực tiễn cách mạng Việt Nam
và quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về chủ nghĩa Mác - Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh.
1. Chủ nghĩa Mác - Lênin là sự
thống nhất giữa bản chất giai cấp công nhân với tính nhân dân và tính dân tộc.
Chủ nghĩa Mác - Lênin là khoa học
nghiên cứu về bản chất và điều kiện giải phóng giai cấp công nhân và nhân dân
lao động trên phạm vi toàn thế giới khỏi mọi ách áp bức, bóc lột, bất công;
khỏi mọi tình trạng nghèo nàn, lạc hậu và khỏi mọi sự phân chia giai cấp và đấu
tranh giai cấp. Chủ nghĩa Mác - Lênin, hệ tư tưởng của giai cấp mang bản chất
quốc tế, đồng thời mang tính nhân dân và tính dân tộc sâu sắc, vì “giai cấp
công nhân ở mỗi nước trước hết phải thanh toán giai cấp tư sản ở nước mình,
vươn lên trở thành dân tộc, xây dựng giai cấp công nhân thành giai cấp dân tộc
(Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản). Khi chủ nghĩa tư bản chuyển sang chủ nghĩa đế
quốc, vấn đề dân tộc trở thành vấn đề dân tộc thuộc địa thì cuộc đấu tranh của
giai cấp công nhân chống giai cấp tư sản ở chính quốc và cuộc đấu tranh của
nhân dân các dân tộc thuộc địa chống chủ nghĩa đế quốc gắn bó hữu cơ với nhau.
Từ đó, Lênin đã nêu ra Cương lĩnh dân tộc với 3 nội dung: “Các dân tộc hoàn
toàn bình đẳng; các dân tộc được quyền tự quyết; liên hợp công nhân tất cả các
dân tộc lại: đó là cương lĩnh dân tộc mà chủ nghĩa Mác, kinh nghiệm toàn thế
giới và kinh nghiệm của nước Nga dạy cho công nhân”[1]. Cũng
từ đó Lênin nêu ra khẩu hiệu: Vô sản tất cả các nước và các dân tộc bị áp bức
đoàn kết lại.
Chủ nghĩa Mác - Lênin không chỉ
mang bản chất giai cấp công nhân quốc tế mà còn mang tính nhân dân và tính dân
tộc sâu sắc; là sự thống nhất giữa chủ nghĩa quốc tế của giai cấp công nhân và
chủ nghĩa yêu nước.
Vì vậy, quan điểm cho rằng chủ
nghĩa Mác - Lênin chỉ nói đến đấu tranh giai cấp bỏ quên lợi ích các dân tộc
không phù hợp với thực tiễn Việt Nam là quan điểm sai lầm, cần phải
phê phán.
2. Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ
vai trò dẫn đường của chủ nghĩa Mác - Lênin với những thắng lợi của cách mạng
Việt Nam.
Chủ tịch Hồ Chí Minh đánh giá rất
cao chủ nghĩa Mác - Lênin với cách mạng Việt Nam. Mở đầu cuốn “Đường Kách mệnh”
(1927), Nguyễn Ái Quốc – Hồ Chí Minh đã trích ở trang đầu câu nói nổi tiếng của
V.I.Lênin: “Không có lý luận cách mạng thì không có cách mệnh vận động… Chỉ có
theo lý luận cách mệnh tiên phong, đảng cách mệnh mới làm nổi trách nhiệm cách mệnh tiên phong”[2]. Ở
cuối phần một cuốn sách này, Người khẳng định vai trò dẫn đường của lý luận
cách mạng và đảng cách mạng. Người viết:
“Cách mệnh trước hết phải có cái
gì?
Trước hết phải có đảng cách mệnh,
để trong thì vận động và tổ chức dân chúng, ngoài thì liên lạc với dân tộc bị
áp bức và vô sản giai cấp mọi nơi. Đảng có vững thì cách mạng mới thành công,
cũng như người cầm lái có vững thuyền mới chạy. Đảng muốn vững thì phải có chủ
nghĩa làm nòng cốt, trong đảng ai cũng phải hiểu, ai cũng phải theo chủ nghĩa ấy.
Đảng không có chủ nghĩa cũng như người không có trí khôn, tàu không có bàn chỉ
nam.
Bây giờ học thuyết nhiều, chủ
nghĩa nhiều nhưng chủ nghĩa chân chính nhất, chắc chắn nhất, cách mạng nhất là
chủ nghĩa Lênin”[3].
Năm 1951, trong Báo cáo chính trị
tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ 2 của Đảng, Chủ tịch Hồ Chí Minh lại
nhấn mạnh: Học tập chủ nghĩa, dùi mài tư tưởng, nâng cao lý luận, chỉnh đốn tổ
chức là những nhiệm vụ cần kíp của Đảng.
Năm 1960, trong bài “Con đường
dẫn tôi đến chủ nghĩa Lênin”, Chủ tịch Hồ Chí Minh tiếp tục khẳng định: Chủ
nghĩa Lênin đối với chúng ta, những người cách mạng Việt Nam không những là cái
cẩm nang thần kỳ, không những là kim chỉ nam, mà còn là mặt trời soi sáng con
đường đi đến thắng lợi cuối cùng, đi tới chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng
sản.
Năm 1966, trong “Bài nói ở lớp
huấn luyện đảng viên mới”, Chủ tịch Hồ Chí Minh viết: “Không có lý luận về chủ
nghĩa xã hội khoa học thì không thể có lập trường giai cấp vững vàng”[4].
Người còn khẳng định: “Người cộng sản chúng ta không được phút nào quên lý
tưởng cao cả của mình là: suốt đời làm cách mạng phấn đấu cho Tổ quốc hoàn toàn
độc lập, làm cho chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản thắng lợi hoàn toàn
trên Tổ quốc ta và trên thế giới”3.
Năm 1969, trong Di chúc của mình,
Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: “Tôi để lại mấy lời này, phòng khi tôi sẽ đi
gặp cụ Các Mác, cụ Lênin và các vị cách mạng đàn anh khác”. Nội dung đầu tiên
trong Di chúc, Bác nói về Đảng: “Trước hết nói về Đảng”[5].
Tóm lại, trong tư tưởng Hồ Chí
Minh luôn có hình ảnh Các Mác và Lênin, có nội dung của chủ nghĩa Mác – Lênin,
chủ nghĩa xã hội khoa học và Đảng Cộng sản. Đó là cái cốt của tư tưởng Hồ Chí
Minh. Bỏ chủ nghĩa Mác - Lênin nghĩa là bỏ cái cốt của tư tưởng Hồ Chí Minh. Đó
sẽ là một sai lầm nghiêm trọng cần phải được phê phán.
3. Thực tiễn cách mạng Việt Nam và quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về chủ
nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh.
- Thực tiễn thế giới và Việt Nam từ nửa cuối
thế kỷ XIX đến nay chủ nghĩa tư bản châu Âu, Bắc Mỹ mở rộng địa bàn thống trị
của nó thông qua các cuộc chiến tranh xâm lược nước khác. Việt Nam trở thành
đối tượng xâm lược của chủ nghĩa tư bản thực dân Pháp. Sau những cuộc đàn áp
đẫm máu phong trào yêu nước Việt Nam nửa cuối thế kỷ 19, thực dân Pháp đặt ách
thống trị trên toàn cõi Đông Dương với cái tên mới “xứ Đông Dương thuộc Pháp
gồm năm kỳ”, cái tên Việt Nam cũng không còn nữa.
Giai cấp tư sản thực dân Pháp đã
từ chối hợp tác với phong trào Tây du của cụ Phan Châu Trinh; giai cấp tư sản
quân phiệt Nhật từ chối hợp tác với phong trào Đông Du của cụ Phan Bội Châu. Sự
từ chối ấy bắt nguồn từ nguyên nhân sâu xa là không thể có sự hợp tác bình đẳng
giữa kẻ thống trị với người bị trị, giữa kẻ cướp nước với những người mất nước.
Trong lịch sử Việt Nam giai cấp tư sản Việt Nam có hai bộ phận; bộ phận tư sản
dân tộc yếu kém cả về kinh tế, chính trị, dễ thỏa hiệp về tư tưởng; bộ phận tư
sản mại bản thì cam tâm làm tay sai cho thực dân, đế quốc.
Sau thất bại của các phong trào
nói trên, con đường cứu nước như trong đêm tối, tưởng như không có con đường
nào khác thoát khỏi kiếp nô lệ ngựa trâu mà lời tự vãn của cụ Phan Bội Châu đã
nói lên điều đó “Trong đời tôi chứng kiến trăm lần thất bại chưa có một lần
thành công”.
Sau nhiều năm suy ngẫm và 10 năm
bôn ba tìm đường cứu nước qua khoảng 30 quốc gia, Nguyễn Ái Quốc đã rút ra từ
cách mạng tư sản Pháp và cách mạng tư sản Mỹ là các cuộc cách mạng không đến
nơi (tức là không triệt để). Đồng thời từ phong trào cộng sản và công nhân quốc
tế, từ chủ nghĩa Mác - Lênin, từ Cách mạng xã hội chủ nghĩa tháng Mười Nga,
Nguyễn Ái Quốc rút ra kết luận: Con đường để giải phóng thực sự các dân tộc bị
áp bức chỉ có thể là con đường Cách mạng vô sản, con đường đi tới chủ nghĩa xã
hội và chủ nghĩa cộng sản.
Sau 10 năm chuẩn bị trên cả ba
phương diện: tư tưởng lý luận, đường lối chính trị và tổ chức cán bộ, Nguyễn Ái
Quốc đã thống nhất lực lượng cách mạng Việt Nam với việc thành lập Đảng Cộng
sản Việt Nam vào ngày 3-2-1930. Do có Đảng lãnh đạo đề ra đường lối cách mạng
đúng đắn và sáng tạo – đường lối độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội,
cách mạng Việt Nam đã vượt qua bốn cột mốc lớn: Cách mạng Tháng Tám 1945 thành
công, kháng chiến chống thực dân Pháp thắng lợi 1954, kháng chiến chống Mỹ, cứu
nước thắng lợi 1975 và đi lên xây dựng chế độ xã hội mới xã hội chủ nghĩa trên
phạm vi cả nước, tiến hành đổi mới thắng lợi với mục tiêu: dân giàu, nước mạnh,
dân chủ, công bằng, văn minh. Từ đó có thể kết luận, Đảng ta đã lãnh đạo tất cả
các loại hình cách mạng của thời đại ngày nay để thực hiện các mục tiêu của
cách mạng Việt Nam là “Toàn Đảng, toàn dân ta đoàn kết phấn đấu xây dựng một
nước Việt Nam hòa bình, thống nhất, độc lập, dân chủ và giàu mạnh; và góp phần
xứng đáng vào sự nghiệp cách mạng thế giới”[6].
Trong suốt quá trình đổi mới, các
Văn kiện, Nghị quyết của Đảng đều khẳng định vai trò của chủ nghĩa Mác - Lênin,
tư tưởng Hồ Chí Minh đối với cách mạng Việt Nam nói chung và đối với quá trình
đổi mới nói riêng. Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX của Đảng rút ra
bài học số một sau 15 năm đổi mới là: Trong quá trình đổi mới phải kiên trì mục
tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội trên nền tảng chủ nghĩa Mác - Lênin,
tư tưởng Hồ Chí Minh. Từ đó Văn kiện khẳng định vị trí quan trọng của Cương
lĩnh năm 1991: Cương lĩnh là ngọn cờ chiến đấu vì thắng lợi của sự nghiệp xây
dựng nước Việt Nam từng bước quá độ lên chủ nghĩa xã hội, định hướng cho mọi
hoạt động của Đảng hiện nay và trong những thập kỷ tới. Đảng và nhân dân ta
quyết tâm xây dựng đất nước Việt Nam theo con đường xã hội chủ nghĩa
trên nền tảng chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh.
Văn kiện Đại hội X của Đảng tiếp
tục rút ra bài học kinh nghiệm thành công số một của hai mươi năm đổi mới là:
“Trong quá trình đổi mới phải kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa
xã hội trên nền tảng chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh. Đổi mới
không phải là từ bỏ mục tiêu chủ nghĩa xã hội mà là làm cho chủ nghĩa xã hội
được nhận thức đúng đắn hơn và được xây dựng có hiệu quả hơn để tới thắng lợi.
Đổi mới không phải là xa rời mà là nhận thức đúng, vận dụng sáng tạo và phát
triển chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, lấy đó làm nền tảng tư tưởng
của Đảng và kim chỉ nam cho hành động cách mạng. Từ đó khẳng định yêu cầu số
một trong đổi mới, chỉnh đốn Đảng là “Kiên trì chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng
Hồ Chí Minh, mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Vận dụng và phát
triển chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh trong hoạt động của Đảng. Thường xuyên tổng kết
thực tiễn, bổ sung, phát triển lý luận, giải quyết đúng đắn những vấn đề do
cuộc sống đặt ra”…
Trong Cương lĩnh xây dựng đất
nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung và phát triển năm 2011)
được Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XI thông qua, Đảng ta khẳng định bài học số
một là: “nắm vững ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội – ngọn cờ vinh
quang mà Chủ tịch Hồ Chí Minh đã trao lại cho thế hệ hôm nay và các thế hệ mai
sau. Độc lập dân tộc là điều kiện tiên quyết để thực hiện chủ nghĩa xã hội và
chủ nghĩa xã hội là cơ sở bảo đảm vững chắc cho độc lập dân tộc. Xây dựng chủ
nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa là hai nhiệm vụ chiến lược có
quan hệ chặt chẽ với nhau”[7]. “Đảng
lấy chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, kim chỉ
nam cho hành động, lấy nguyên tắc tập trung dân chủ làm nguyên tắc tổ chức cơ
bản”[8].
Trong Dự thảo các văn kiện trình
Đại hội XII của Đảng, phần phương hướng,
nhiệm vụ xây dựng Đảng về chính trị, Đảng ta tiếp tục khẳng định: “Kiên định
chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, vận dụng sáng tạo và phát triển
phù hợp với thực tiễn Việt Nam; kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa
xã hội; kiên định đường lối đổi mới. Giữ vững bản chất giai cấp công nhân của
Đảng. Nâng cao bản lĩnh chính trị, trình độ trí tuệ, tính chiến đấu của toàn
Đảng và vai trò tiên phong, gương mẫu của cán bộ, đảng viên, trước hết là cán
bộ lãnh đạo, quản lý chủ chốt các cấp”[9].
Qua nội dung bài viết, một lần
nữa cần khẳng định sự thống nhất biện chứng giữa chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng
Hồ Chí Minh hợp thành nền tảng tư tưởng của Đảng, là nhân tố cơ bản đảm bảo
những thắng lợi của cách mạng Việt Nam suốt 85 năm qua và những thập kỷ tiếp
theo.
Mấy kiến nghị:
1. Để cuộc đấu tranh chống các
quan điểm thù địch chống chủ nghĩa Mác - Lênin, chống con đường đi lên chủ
nghĩa xã hội ở Việt Nam,
đòi hỏi trong Đảng cần có sự thống nhất về chủ nghĩa Mác - Lênin. Muốn vậy, mỗi
đảng viên của Đảng phải nêu cao ý thức tổ chức kỷ luật của Đảng theo Cương
lĩnh, đường lối của Đảng. Mặt khác, Đảng cũng phải có thái độ kiên quyết, xử lý
nghiêm khắc theo Cương lĩnh và điều lệ Đảng đối với những đảng viên xa rời mục
tiêu lý tưởng của Đảng là chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản.
2. Phải tiến hành cuộc đấu tranh
tư tưởng lý luận một cách kiên quyết hơn, tích cực hơn, chủ động và sáng tạo
hơn đối với các lực lượng công khai chống lại chủ nghĩa Mác - Lênin, chủ nghĩa
xã hội và con đường đi lên CNXH ở Việt Nam.
[1] V.I.
Lênin toàn tập, tập 25, Nxb Tiến bộ, M. 1980, tr. 375
[2] Hồ Chí
Minh toàn tập, tập 2, Nxb CTQG, H. 2002, tr. 259
[3] Hồ Chí
Minh, toàn tập, t2, tr.176
[4] 3
Hồ Chí Minh toàn tập, tập 12, Nxb CTQG, H. 2002, tr. 92, 93
[5] Sđd, tr.
510
[6] Hồ Chí
Minh toàn tập, tập 12, Nxb CTQG, H. 2012, tr. 512
[7] Đảng
Cộng sản Việt Nam,
Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb CTQG, H. 2011, tr. 65
[8] Đảng
Cộng sản Việt Nam,
Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb CTQG, H. 2011, tr. 88
[9] Đảng
Cộng sản Việt Nam,
Dự thảo các văn kiện trình Đại hội XII của Đảng, tr. 35
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét