(HQ Online)- Năm
2012 là một năm khó khăn của nền kinh tế Việt Nam, từ những khó khăn kinh tế vĩ
mô đến khó khăn của DN và các hộ gia đình.
Tuy nhiên, năm 2012
cũng đã xuất hiện những chuyển động tích cực hỗ trợ và thúc đẩy cơ cấu lại nền
kinh tế, chuẩn bị thế và lực cho giai đoạn phát triển tiếp theo, cao hơn, bền
vững và hiệu quả hơn.
Tốc độ tăng trưởng
kinh tế thấp
Tốc độ tăng GDP năm
2012 chỉ đạt hơn 5,03% (thấp nhất trong nhiều năm trở lại đây), chỉ cao hơn so
với tốc độ tăng trưởng 4,77% năm 1999 nhưng lại thấp hơn cả tốc độ tăng 5,32%
năm 2009. Rõ ràng những bất ổn kinh tế vĩ mô tích tụ trong mấy năm gần đây đã
buộc Việt Nam phải chuyển trọng tâm chính sách từ ưu tiên tăng trưởng kinh tế
sang ưu tiên ổn định kinh tế vĩ mô, kiềm chế lạm phát thông qua những biện pháp
nêu trong Nghị quyết số 11/2011/NQ-CP và nêu lại trong Nghị quyết số
01/2012/NQ-CP.
Tiếc rằng chủ
trương chấp nhận giảm tốc độ tăng GDP để củng cố điều kiện kinh tế vĩ mô và
triển khai cơ cấu lại toàn bộ nền kinh tế lại chưa được khẳng định mạnh mẽ nên
mặc dù so với cùng kỳ GDP quí I chỉ tăng có 4,64%, quí II nhích lên 4,8% và quí
III tăng 5,05% - đều là những quí có tốc độ tăng trưởng thấp hơn hẳn trong vòng
5 năm qua, song Việt Nam vẫn cố duy trì mục tiêu tăng trưởng ban đầu 6-6,5% và
chỉ chấp nhận không thể đạt được mục tiêu này vào mấy tháng cuối năm.
Biểu hiện rõ nhất
của cố gắng tăng trưởng là tiếp tục đẩy mạnh đầu tư mặc dù hiệu quả đầu tư chưa
được cải thiện và chương trình cơ cấu lại đầu tư, trong đó tập trung cơ cấu lại
đầu tư công diễn ra chậm chạp do gặp nhiều trở ngại cả từ tư duy, quy hoạch, cơ
chế quản lý cũng như kiểm tra giám sát. Tổng vốn đầu tư toàn xã hội quí I-2012
đột ngột tăng lên 36,2% GDP từ mức 34,6% GDP năm 2011 trước khi giảm chút ít
xuống 34,5%GDP sau 6 tháng, rồi lại tăng lên 35,8% GDP sau 9 tháng, tuy thấp
hơn hẳn mức đầu tư giai đoạn 2006-2010 nhưng vẫn tương đương giai đoạn
2001-2005.
Do tốc độ tăng GDP
năm 2012 thấp hơn hẳn so với giai đoạn 2001-2005 nên hiệu quả đầu tư chung đột
ngột tăng vọt và ICOR chỉ hạ xuống dưới 6 khi tổng mức đầu tư toàn xã hội cả
năm 2012 còn khoảng 33,5%. Đáng chú ý là tỷ trọng vốn đầu tư của khu vực kinh
tế Nhà nước năm 2012 vẫn duy trì ở mức trên dưới 37% tổng vốn đầu tư toàn xã
hội, trong đó vốn đầu tư từ NSNN vẫn chiếm khoảng 54% chứng tỏ chương trình cơ
cấu lại đầu tư công chưa có chuyển biến rõ rệt.
Tổng cầu và lạm
phát tăng thấp
Năm 2012 tổng cầu
tiêu dùng tuy có cải thiện hơn so với năm 2011 nhưng vẫn tăng thấp hơn so với
những năm trước. Tổng mức bán lẻ hàng hoá và dịch vụ tiêu dùng tăng 16% so với
năm 2011 (loại trừ yếu tố giá tăng 6,2%) chỉ bằng một nửa so với giai đoạn
2007-2010. Hệ quả là mặc dù sản xuất công nghiệp chững lại với chỉ số sản xuất
công nghiệp chỉ tăng 5,9%, song do sức mua tăng chậm với chỉ số tiêu thụ hàng
công nghiệp chế biến chế tạo chỉ tăng khoảng 3,6% nên chỉ số hàng tồn kho của
nhóm hàng này tăng tới hơn 20,1% so với cùng kỳ năm trước.
Các chỉ tiêu chủ
yếu của năm 2013
Kinh tế:
-Tổng sản phẩm
trong nước (GDP) tăng khoảng 5,5% so với năm 2012. Trong đó: Giá trị tăng
thêm khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản tăng khoảng 2,3%; khu vực công
nghiệp và xây dựng tăng khoảng 5,7%; khu vực dịch vụ tăng khoảng 6,5%.
- Kim ngạch XK
tăng khoảng 10%. Tỷ lệ nhập siêu so với tổng kim ngạch XK ở mức khoảng 8%.
-Tỷ lệ bội chi
ngân sách Nhà nước so với GDP không quá 4,8%.
- Tốc độ tăng chỉ
số giá tiêu dùng (CPI) khoảng 8%.
- Tổng vốn đầu tư
phát triển toàn xã hội khoảng 30% GDP.
Xã hội:
- Tạo việc làm
cho khoảng 1,6 triệu lao động.
- Tỷ lệ thất
nghiệp của lao động trong độ tuổi ở khu vực thành thị dưới 4%.
- Tỷ lệ lao động
qua đào tạo đạt 49%.
- Tỷ lệ hộ nghèo
giảm 2%; riêng các huyện nghèo giảm 4%.
(Nguồn: Nghị
quyết số 31/2012/QH13 về kế hoạch kinh tế-xã hội năm 2013)
|
Bên cạnh đó, mặc dù
tổng kim ngạch XK năm 2012 tăng khoảng 18,3% đạt 114,6 tỷ USD, song lại chủ yếu
do thành tích XK của khu vực có vốn FDI nên phần lớn DN Việt Nam gặp khó khăn
về đầu ra cho các sản phẩm hàng hoá và dịch vụ suốt cả năm 2012. Do những khó
khăn trong tiêu thụ sản phẩm đi đôi với chi phí đầu vào cao nên năm 2012 đã có
thêm khoảng 4 vạn DN giải thể, ngừng hoạt động, đưa tổng số DN giải thể ngừng
hoạt động trong 2 năm 2011 và 2012 lên đến 10 vạn - chiếm một nửa số DN loại
này trong suốt 2 thập kỷ qua. Đến lượt mình, DN gặp khó khăn lại hạn chế tạo
công ăn việc làm, thậm chí làm gia tăng thất nghiệp và giảm thu nhập của người
lao động, tạo ra vòng xoáy cắt giảm tiêu dùng.
Nguyên nhân sâu xa
khiến cho không ít DN Việt Nam lâm vào hoàn cảnh khó khăn có cả nguyên nhân khách
quan từ thị trường quốc tế và chính sách kinh tế vĩ mô thắt chặt cũng như
nguyên nhân chủ quan từ sự phát triển quá nóng và thiếu chiến lược của DN. Như
vậy, cơ cấu lại DN không chỉ cần tập trung vào hơn 1.300 DNNN với vài chục tập
đoàn và tổng công ty Nhà nước mặc dù khu vực kinh tế Nhà nước đang chiếm 1/3
GDP cả nước và 1/5 giá trị sản xuất công nghiệp mà cần cơ cấu lại toàn bộ các
DN gắn với cơ cấu lại toàn bộ nền kinh tế và cơ cấu lại chính bản thân từng DN,
không phân biệt thành phần kinh tế.
Chịu sự chi phối
của tổng cầu tăng thấp, cả cầu đầu tư và cầu tiêu dùng bên cạnh niềm tin kinh
doanh và niềm tin tiêu dùng không cao nên diễn biến lạm phát năm 2012 ổn định
vượt ngoài sự mong đợi với CPI cả năm khoảng 9,21%. Ngoại trừ 2 tháng đầu năm
tăng trên 1% và tháng 9 tăng tới 2,2% do điều chỉnh mạnh giá dịch vụ y tế, suốt
từ tháng 3 đến cuối năm CPI đều tăng dưới 1% mỗi tháng bất chấp giá điện tăng
bình quân 5% và giá xăng dầu tăng trên 10%. Nếu loại trừ yếu tố chủ động tăng
giá dịch vụ y tế, giá điện và giá xăng dầu thì lạm phát năm 2012 chỉ khoảng
5-6%, đã góp phần tích cực ổn định kinh tế vĩ mô không chỉ năm 2012 mà cả năm
2013 tới đây.
Kinh tế vĩ mô ổn
định vững chắc hơn
Bên cạnh việc kiềm
chế lạm phát, đưa CPI từ gần 20% năm 2011 xuống 9,21% năm 2012 như nêu trên thì
hàng loạt chỉ số kinh tế vĩ mô năm 2012 ổn định theo hướng tích cực hơn hẳn so
với mấy năm trước.
Trong bối cảnh sản
xuất kinh doanh gặp nhiều khó khăn, thị trường tiêu thụ hạn chế, song một mặt
Việt Nam vẫn nỗ lực thu NSNN đạt dự toán, đặc biệt khoản thu NSNN từ dầu thô
vượt xa so với dự toán đã hỗ trợ kịp thời cho nguồn thu từ nội địa và từ hoạt
động XNK, mặt khác, tiết kiệm chi NSNN, cả chi đầu tư và chi thường xuyên để
đảm bảo mức thâm hụt NSNN không quá 4,8% GDP - góp phần tích cực ổn định kinh
tế vĩ mô. Bên cạnh đó, cần bổ sung vào chương trình cơ cấu lại nền kinh tế vấn
đề cơ cấu lại NSNN, từ cơ cấu thu, chi đến cơ cấu bù đắp thâm hụt NSNN và cơ
cấu nợ công để đảm bảo tính đồng bộ và khả thi.
Bà Victoria
Kwakwa, Giám đốc Quốc gia, Ngân hàng Thế giới tại Việt Nam:
Việt Nam đã đạt
được những kết quả ấn tượng về ổn định kinh tế vĩ mô trong năm 2012. Đây là
năm thứ hai liên tiếp Việt Nam
có được tình hình kinh tế vĩ mô tương đối ổn định. Tình hình được cải thiện
là nhờ các chính sách thắt chặt trong nước và môi trường quốc tế khá thuận
lợi. Chính phủ cũng không ngừng trấn an bằng thông điệp ổn định kinh tế vĩ mô
là một trong những nhiệm vụ quan trọng hàng đầu. Hành động và những tuyên bố
của Chính phủ đã giúp làm an lòng những nhà đầu tư đang "bồn chồn"
và khôi phục lòng tin đối với tiền đồng, được minh chứng bằng kết quả tiền
gửi tăng mạnh và tỉ trọng tiền gửi bằng tiền đồng gia tăng trong hệ thống
ngân hàng. Sự quyết tâm của các cơ quan chức năng trong việc duy trì các chính
sách kinh tế vĩ mô phù hợp sang năm thứ hai liên tiếp là một sự thay đổi đáng
hoan nghênh và chắc chắn sẽ giúp Việt Nam dần dần gây dựng lại được niềm tin
như một quốc gia điều hành kinh tế vĩ mô có kinh nghiệm.
Tuy nhiên, xu
hướng tăng trưởng tiếp tục giảm xuống trong những năm qua (năm nay là tăng
trưởng thấp nhất kể từ năm 1999) cho thấy nền kinh tế đang mất đi một số động
lực mà những cản trở về cơ cấu đã và đang làm ảnh hưởng đến tăng trưởng và
năng lực cạnh tranh của nền kinh tế.
Bà Nguyễn Thị Tuệ
Anh, Viện Nghiên cứu quản lí Kinh tế Trung ương:
XK hiện nay vẫn
là động lực chính của tăng trưởng Việt Nam, nếu chỉ tính riêng XK thì luôn
đóng góp cao vào tốc độ tăng trưởng chung của nền kinh tế. Nhưng XK ròng, tức
đã trừ đi kim ngạch NK thì Việt Nam lại nhập siêu nên đóng góp
của XK ròng bị âm làm giảm tăng trưởng. Tuy nhiên vừa qua XK luôn đạt mức
tăng trưởng khá cao, tăng 18% so với năm 2011. Nhưng cơ cấu hàng XK vẫn không
thay đổi nhiều. Cơ cấu hàng XK chủ yếu là hàng nông sản, cũng như hàng chế
biến thấp, các mặt hàng chế tác như linh kiện điện tử, máy tính chủ yếu gia
công lắp ráp là chính nên giá trị gia tăng thấp. Vì thế giá trị XK tăng
trưởng tốt nhưng giá trị gia tăng chưa chắc cao vì giá trị hàng NK để phục vụ
cho nhu cầu sản xuất của các DN cũng là cao.
Trong năm tới,
môi trường kinh doanh của các DN nói chung và DN XK nói riêng vẫn còn nhiều
thách thức. Đối với DN, có quá nhiều yếu tố tác động vào môi trường kinh
doanh. Chẳng hạn các yếu tố đầu vào như vốn vẫn còn khá khó khăn. Lãi suất
cao như vậy sẽ khiến DN khó tiếp cận các yếu tố đầu vào phục vụ sản xuất kinh
doanh. Trong khi đó đầu ra của DN lại hạn chế khi xu hướng tiêu dùng của
người dân chưa có sự khởi sắc, dẫn đến hàng tồn kho tăng. Đó là những khó
khăn trong ngắn hạn của DN, còn về dài hạn còn rất nhiều điều cần phải bàn về
môi trường kinh doanh của DN.
|
Chuyên gia kinh tế VŨ ĐÌNH ÁNH
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét