QĐND - Một phần tư thế kỷ đã trôi qua kể từ khi Đảng Cộng sản Việt Nam
đề ra đường lối đổi mới toàn diện, đất nước đã giành nhiều thắng lợi quan trọng
trên tất cả các mặt của đời sống xã hội. Với mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã
hội dân chủ, công bằng, văn minh, thực tiễn cách mạng Việt Nam đã khẳng định
tính đúng đắn, sáng tạo thể hiện qua thắng lợi toàn diện trên tất cả các lĩnh
vực và được cộng đồng quốc tế thừa nhận và đánh giá cao.
Trong
thắng lợi chung của đường lối đổi mới, thắng lợi của đường lối đối ngoại đổi
mới là một thắng lợi nổi bật, được khẳng định rõ nét trên những điểm sau đây:
Một là: Thắng lợi của đường lối đối ngoại đổi mới đã tạo thế, tạo
lực, tạo đà cho đất nước thoát khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội, ngăn
chặn nguy cơ tụt hậu ngày càng xa so với thế giới.
Vốn là
nước nông nghiệp lạc hậu định hướng lên CNXH lại phải gồng mình tiến hành kháng
chiến trong suốt 30 năm chống các đế quốc hùng mạnh nhất của thế giới, bị tàn
phá và tổn thất to lớn về người và của, sau thắng lợi vĩ đại Việt Nam bị lâm
vào khủng hoảng trầm trọng về kinh tế - xã hội. Hơn nữa, chỗ dựa về kinh tế,
chính trị là phe xã hội chủ nghĩa vào giữa thập niên 70-80 của thế kỷ XX đã có
những dấu hiệu khủng hoảng trong toàn hệ thống, lúc đầu là kinh tế, xã hội và
sau đó xuất hiện khủng hoảng chính trị. Các nước trong phe xã hội chủ nghĩa đã
tìm tòi các giải pháp để thoát khỏi khủng hoảng mà loài người biết đến là
"cải tổ" ở Đông Âu - Liên Xô, "cải cách mở cửa" ở Trung
Quốc và "đổi mới ở Việt Nam". Đây là một tất yếu khách quan đặt ra
cho các nước trên con đường đi lên chủ nghĩa xã hội. Tuy nhiên, sự sai lầm
trong nhận thức, phương pháp và bước đi của quá trình “cải tổ” đã dẫn đến kịch
biến 1991, đổ vỡ một mảng lớn các nước XHCN ở Đông Âu và Liên Xô. Sự đổ vỡ hệ
thống XHCN ở Đông Âu và Liên Xô đã đưa đến những hệ lụy trực tiếp đối với cách
mạng Việt Nam, làm mất đi một sự giúp đỡ quý báu cho đất nước khi giải quyết
khó khăn trong công cuộc khôi phục sau chiến tranh đồng thời là sự tan rã trật
tự hai cực trong bối cảnh thế giới có bước phát triển đột biến về khoa học công
nghệ. Điều đó đặt ra một yêu cầu muốn phát triển nhanh, bền vững, muốn đi tắt
đón đầu phải tranh thủ được khoa học công nghệ tiên tiến để thoát nhanh khỏi
khủng hoảng và ngăn chặn một bước tụt hậu ngày càng xa so với thế
giới và khu vực. Đó là một đòi hỏi đối với nước ta cần mở cửa, hội nhập quốc tế
nhằm tranh thủ những điều kiện quốc tế thuận lợi phục vụ phát triển. Đại hội
đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng đã đề ra chủ trương "mở cửa, hội
nhập quốc tế" và phải xóa nhanh tình trạng bị bao vây cấm vận để vươn ra
với thế giới đa cực, đa trung tâm. Sau thực tiễn của 5 năm đổi mới đối ngoại,
Đại hội VII năm 1991 đã chủ trương "đa dạng hóa, đa phương hóa" trong
quan hệ đối ngoại, tranh thủ các điều kiện quốc tế thuận lợi cho xây dựng, phát
triển, bảo vệ Tổ quốc. Đây là thắng lợi đầu tiên của đối ngoại đổi mới giúp đưa
nước ta thoát khỏi khủng hoảng kinh tế-xã hội sau 10 năm đổi mới, chặn được một
bước nguy cơ tụt hậu ngày càng xa, vươn ra với thế giới những năm tiếp
theo.
Chủ
tịch nước Nguyễn Minh Triết tham dự Hội nghị thượng đỉnh của Hội đồng
Bảo an LHQ tháng 9-2009, khi Việt Nam là Ủy viên không thường trực Hội
đồng Bảo an LHQ nhiệm kỳ 2008-2009. Ảnh: TTXVN
Hai là: Đối ngoại đổi mới đã đóng góp quan trọng vào việc xóa bỏ
tình trạng bị bao vây cấm vận tạo điều kiện cho đất nước hội nhập sâu rộng,
toàn diện với các nước trong cộng đồng thế giới.
Thực
hiện chủ trương "xóa bỏ tình trạng bị bao vây cấm vận" đề ra tại Đại
hội VI, Đảng, Chính phủ ta đã chủ trương phải giải quyết tốt vấn đề Cam-pu-chia
- một vấn đề mà một số nước trong cộng đồng quốc tế chưa hiểu, thậm chí lợi
dụng nó để vu cáo thiện chí của Việt Nam, bao vây cấm vận nước ta khi Việt Nam
đưa quân vào Cam-pu-chia năm 1979. Là một nước láng giềng có quan hệ hữu nghị
lâu đời với Vương quốc Cam-pu-chia dân chủ, Chính phủ và quân đội Việt Nam đã
chịu đựng, đã chờ đợi, đã kìm giữ trước các hành động bạo ngược của tập đoàn
Pôn Pốt trong nhiều năm. Trước thái độ thực hành chính sách diệt chủng của Pôn
Pốt ở Cam-pu-chia, thái độ thù địch chống Việt Nam, Chính phủ và quân đội Việt
Nam đã thể theo yêu cầu khẩn cấp của Chính phủ Cam-pu-chia mở cuộc tiến công
tập đoàn diệt chủng cứu nhân dân Cam-pu-chia khỏi thảm họa năm 1979. Sự hy sinh
xương máu với nghĩa cử giúp bạn trong hoạn nạn được Đảng ta chỉ rõ trong kế
hoạch giúp đỡ Đảng, Chính phủ và nhân dân Cam-pu-chia vượt qua, đứng vững, đưa
dân tộc hồi sinh và năm 1989 Việt Nam đã tổ chức trọng thể lễ rút quân trước sự
chứng kiến của quốc tế, làm cho thế giới hiểu rõ nghĩa cử cao đẹp của dân tộc
Việt Nam giúp bạn. Đối ngoại Việt Nam đã góp phần tháo gỡ rào cản chia rẽ các
nước với nước ta tạo điều kiện cho nước ta hội nhập quốc tế. Mỹ và các nước xóa
bỏ cấm vận, Việt Nam bình thường hóa với Trung Quốc và Mỹ, gia nhập ASEAN là
một thành tựu lớn của đối ngoại đổi mới.
Thứ ba: Thực hiện đường lối đối ngoại đổi mới, Việt Nam đã có quan
hệ sâu rộng với hầu hết các nước trong cộng đồng quốc tế, tranh thủ được các
điều kiện quốc tế cho sự nghiệp xây dựng và phát triển đất nước, bảo vệ Tổ quốc
và khẳng định vị thế quốc tế của Việt Nam trên thế giới.
Thực
hiện đường lối đối ngoại độc lập tự chủ, rộng mở, đa dạng hóa, đa phương hóa
trong quan hệ quốc tế, xác định đúng đắn trong quan hệ đối ngoại đảng, ngoại
giao nhà nước và đối ngoại nhân dân, chưa bao giờ trong lịch sử Việt Nam chúng
ta mở rộng quan hệ sâu rộng, toàn diện với các nước trên thế giới như ngày nay.
Lần đầu tiên Việt Nam có quan hệ với tất cả các nước lớn có vị thế quan trọng
trong cộng đồng quốc tế và có quan hệ ngoại giao với gần 180 quốc gia trên
thế giới. Nhờ có chủ trương mở cửa hội nhập với tinh thần "là bạn, là đối
tác tin cậy với tất cả các nước trong cộng đồng quốc tế" Việt Nam đã trở
thành đối tác thương mại với hơn 150 chủ thể quan trọng của thế giới, có quan
hệ với hơn 200 chính đảng ở các nước, trong đó có hơn 100 Đảng Cộng sản và công
nhân, quan hệ với hơn 600 tổ chức phi chính phủ, trong đó hầu hết đã có văn
phòng đại diện tại Việt Nam... Với việc gia nhập Tổ chức Thương mại thế
giới năm 2006, Việt Nam là thành viên của tất cả các tổ chức quốc tế quan
trọng, trở thành Ủy viên không thường trực Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc
nhiệm kỳ 2008-2009. Thực hiện tư tưởng đối ngoại Hồ Chí Minh trong quan hệ quốc
tế hòa hiếu, hữu nghị, hợp tác, nhân ái, văn minh, Việt Nam được cộng đồng quốc
tế tin cậy, đánh giá cao trên các diễn đàn quốc tế và khu vực. Việt Nam đã chủ
trì thành công nhiều hội nghị, hội thảo quốc tế có sự tham gia của các nguyên
thủ, hoàn thành tốt cương vị nhiệm vụ là Chủ tịch ở Hội đồng Bảo an, là Chủ
tịch của Hiệp hội các nước Đông Nam Á với tinh thần chủ động, trách nhiệm, hiệu
quả. Các nước, các tổ chức quốc tế ngày càng tin cậy sự ổn định chính trị, sự
phát triển kinh tế năng động theo cơ chế thị trường và sự phát triển bền vững
khi hợp tác đầu tư với Việt Nam. Trên con đường hội nhập, Việt Nam ngày càng
thu hút được nhiều vốn và chuyển giao công nghệ ngày càng tăng vào Việt
Nam trong khi thế giới đối mặt với tình trạng tăng trưởng thấp, nguy cơ nghèo
đói và khủng hoảng tài chính đang tiềm ẩn nhiều khó khăn và bất ổn. Đối ngoại
đổi mới trở thành nhịp cầu đưa Việt Nam ra quốc tế và đưa thế giới đến Việt Nam
góp phần tạo dựng và củng cố môi trường hòa bình phục vụ mục tiêu công nghiệp
hóa, hiện đại hóa đất nước, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, giữ vững an ninh chính
trị, trật tự, an toàn xã hội.
Bốn là: Mở cửa và hội nhập quốc tế, đối ngoại đổi mới đã bảo đảm giữ
vững định hướng phát triển, kiên trì mục tiêu CNXH và nguyên tắc trong sinh
hoạt quốc tế, đấu tranh hiệu quả trước các mưu toan diễn biến hòa bình của các
thế lực thù địch.
Mở cửa
và hội nhập quốc tế trong xu thế toàn cầu hóa, đa dạng hóa, đa phương hóa quan
hệ, Việt Nam khẳng định và giữ vững mục tiêu CNXH, thế giới quan của chủ nghĩa
Mác - Lê-nin và tư tưởng Hồ Chí Minh. Mở cửa và hội nhập quốc tế, Việt Nam đón
được thời cơ và nhiều tác động tích cực, nhưng đồng thời cũng luôn nhận rõ và
phải đối mặt với không ít nguy cơ từ an ninh truyền thống và phi truyền thống.
Trên các hướng hoạt động đối ngoại từ kinh tế, tài chính, từ chính trị, an
ninh, từ văn hóa, xã hội đến đối ngoại quốc phòng... đối ngoại đổi mới đã xử lý
một cách chủ động, uyển chuyển, chính xác bảo đảm sự ổn định chính trị, bảo đảm
an ninh quốc gia và bảo vệ Tổ quốc XHCN. Đối ngoại đổi mới đã xử lý chính xác
trước những bước chuyển đổi cơ chế, trước tác động của sự sụp đổ Đông Âu, Liên
Xô, những mưu toan lợi dụng những thế lực chống đối “chuyển lửa về Việt Nam” và
những biểu hiện đe dọa đến chủ quyền quốc gia. Chúng ta đã phối hợp với các
nước trong khu vực và trên thế giới làm thất bại những mưu toan gây rối,
gây bạo loạn lật đổ lợi dụng chiêu bài dân tộc, sắc tộc, tôn giáo, dân chủ nhân
quyền. Trong quan hệ với các nước trong cộng đồng quốc tế cũng như trong quan
hệ với các nước láng giềng đối ngoại đổi mới Việt Nam chủ trương xử lý các vấn
đề có quan điểm khác nhau trên nguyên tắc hòa bình, thương lượng không dùng vũ
lực và tìm cách xây dựng sự đồng thuận quốc tế, cả song phương lẫn đa phương
theo các nguyên tắc của Hiến chương LHQ. Luôn xử lý chính xác các diễn biến
phức tạp, phân biệt rõ các biểu hiện diễn biến hòa bình. Các lực lượng vũ trang
không ngừng nâng cao cảnh giác cách mạng, nhận diện âm mưu của các thế lực để
bảo đảm an ninh và toàn vẹn lãnh thổ.
Sau một
phần tư thế kỷ đổi mới, có thể khẳng định đường lối đối ngoại đổi mới đã tạo ra
một hình ảnh Việt Nam vững mạnh, ổn định, phát triển trong quan hệ với các
nước. Đây là hành trang để Việt Nam vững bước vào thập niên thứ hai thế kỷ
XXI với tinh thần mà Đảng ta đã xác định là chủ động, hiệu quả và trách nhiệm;
là bạn, là đối tác tin cậy trong cộng đồng quốc tế, phấn đấu cho mục tiêu chung
của dân tộc và thời đại.
PGS.TS Trình Mưu
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét