Như vậy
Mỹ đã chính thức sử dụng vũ khí “Tôn giáo - nhân quyền” trong các quan hệ quốc
tế hiện nay, cả trên phương diện pháp lý, đạo lý và chính sách đối ngoại.
I. Vấn
đề “tự do tôn giáo” trong lô-gic và chính sách của Mỹ
Nhìn
một cách đại thể, từ đầu những năm 90 của thế kỷ XX, trong chính giới Mỹ bắt
đầu đưa vấn đề nhân quyền vào phạm trù, chính sách đối ngoại. Chẳng hạn, năm
1994, Hạ viện Mỹ thông qua Nghị quyết lấy ngày 11-5 hàng năm là “Ngày nhân
quyền Việt Nam”.
Ngày
14-5-1998, Quốc hội Mỹ thông qua Đạo luật Luật Tự do tôn giáo quốc tế (HR
2431). Đây là lần đầu tiên, trong một bộ luật, Mỹ đã công khai, hợp pháp hóa
những căn cứ của họ trong chính sách tôn giáo quốc tế.
Bộ luật
này cũng đưa ra một số định nghĩa, trong đó có định nghĩa về “những vi phạm đặc
biệt nghiêm trọng về tự do tôn giáo”. Theo đó, những vi phạm như “tra tấn hoặc
đối xử vô nhân đạo; giam giữ lâu dài mà không buộc tội; làm nhiều người bị mất
tích hoặc giam giữ bí mật; tước bỏ quyền sinh sống, tự do, an ninh cá nhân”
được coi là những nội dung cụ thể.
Với bộ
luật này, trong cơ quan hành pháp Mỹ bắt đầu xuất hiện nhân vật đại sứ lưu động
về tự do tôn giáo quốc tế thuộc Bộ Ngoại giao; một Ủy ban về Tự do tôn giáo
quốc tế; một Cố vấn đặc biệt về Tự do tôn giáo quốc tế trong cơ cấu tổ chức Hội
đồng An ninh quốc gia...
Lẽ dĩ
nhiên, trong bối cảnh toàn cầu hóa, vấn đề tôn giáo trong đời sống xã hội loài
người những thập niên gần đây còn chịu nhiều tác động khác mà theo chúng tôi là
do những yếu tố sau:
- Sự
sụp đổ của Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu không chỉ tạo ra sự
khủng hoảng của phong trào cộng sản và công nhân quốc tế mà còn có tác động lớn
đến đời sống tôn giáo thế giới: sự trỗi dậy của Chính thống giáo và tư tưởng
tôn giáo nói chung ở các vùng lãnh thổ thuộc Liên Xô trước đây, sự bùng nổ của
chủ nghĩa ly khai trên cơ sở xung đột sắc tộc, tôn giáo với các mục tiêu chính
trị khác nhau... Cuối thế kỷ XX, xu hướng vô thần có nhiều dấu hiệu suy giảm,
thay vào đó là sự “quay trở lại của tâm thức tôn giáo”.
- Cục
diện “chiến tranh lạnh” mất đi và cục diện thế giới đã chuyển từ thế hai cực Xô
- Mỹ sang cục diện nhất siêu (Mỹ), đa cường. Nhưng nói như thế cũng chưa phản
ánh hết tính đa dạng, phức tạp của cục diện thế giới hiện nay. Dưới hình thái
chủ nghĩa khủng bố, một bộ phận của thế giới Hồi giáo đã và đang trở thành lực
lượng đối đầu với Mỹ và phương Tây.
- Toàn
cầu hóa, trước hết là toàn cầu hóa về kinh tế của thế giới hiện nay tác động
theo hai chiều tích cực và tiêu cực đến lịch sử thế giới đương đại. Về mặt tôn
giáo, đã và đang diễn ra một xu hướng mới rất đáng chú ý, đó là xu thế toàn cầu
hóa tôn giáo. Hiện tượng toàn cầu hóa tôn giáo hiện ra ngày càng rõ nét và đã
đặt ra nhiều vấn đề xã hội và tôn giáo có tính thách thức. Đại thể, theo giới
nghiên cứu tôn giáo, toàn cầu hóa tôn giáo là quá trình chuyển từ tính liên Nhà
nước sang tính xuyên quốc gia; các chiến lược bành trướng tôn giáo càng ít đi
sự liên quan đến quyền bá chủ chính trị, nó không phụ thuộc vào mối quan hệ
giữa các Nhà nước. Việc “xuất khẩu” tôn giáo ở các thế kỷ trước thường gắn với
sự bành trướng của chủ nghĩa thực dân thì nay các luồng tôn giáo không thể đáp
ứng lô-gic này nữa. Toàn cầu hóa tôn giáo hiện nay có xu thế thoát khỏi tầm
kiểm soát của các Nhà nước và vượt lên trên các đường biên giới. Ngoài ra các
luồng tôn giáo không còn giới hạn ở sự lan truyền Bắc - Nam (hoặc Tây - Đông)
mà trở nên phức tạp hơn.
- Thế
tục hóa và hiện đại hóa. Thế tục hóa là khái niệm nảy sinh trong các cuộc cách
mạng tư sản châu Âu. Thuật ngữ này được định nghĩa một cách đơn giản là quá
trình trong đó tôn giáo bị giảm tầm quan trọng trong xã hội cũng như trong ý
thức cá nhân.
Nêu ra
một số xu hướng lớn trên đây trong đời sống tôn giáo thế giới để có thể đi đến
nhận định là các thế lực thù địch còn lợi dụng bối cảnh phức tạp của vấn đề tôn
giáo đương đại, biến vấn đề tôn giáo - nhân quyền thành một vũ khí lợi hại
chống lại những nước không chịu chấp nhận “hệ giá trị Mỹ”. Sau khi Liên Xô và
các nước xã hội chủ nghĩa Đông Âu sụp đổ, với thế “thượng phong”, âm mưu này
của Mỹ ngày càng có tính chất công nhiên và áp đặt.
Âm mưu
lợi dụng vấn đề tôn giáo - nhân quyền của Mỹ chống Việt Nam cơ bản là dựa vào
một luận lý nhất định. Vì thế, đã đến lúc chúng ta phải đi sâu tìm hiểu cái
“logic” của Mỹ trong vấn đề “tự do tôn giáo ở Việt Nam” là gì? Bởi vì, khi hiểu
rõ cái logic ấy, tức là “cơ sở luận lý” của họ, chúng ta mới có thể đấu tranh
có hiệu quả, hoặc ít nhất cũng vạch trần được cái logic của họ để bảo vệ sự
đúng đắn của chúng ta trước dư luận trong nước và quốc tế.
Trước
hết, phải nói tự do tôn giáo - một giá trị tư tưởng của loài người đã được
“phát hiện” ở châu Âu với các cuộc cách mạng tư sản (thế kỷ XVII - XVIII). Tuy
vậy, cũng phải có quá trình người ta mới quan niệm đầy đủ hơn về nó. Tuyên ngôn
Độc lập của Hoa Kỳ năm 1776 chưa nói đến tự do tôn giáo, Tuyên ngôn Nhân quyền
và Dân quyền 1789 của Pháp có nói đến tự do cá nhân, tự do tư tưởng, nhưng cũng
chưa nói trực tiếp đến tự do tôn giáo, Luật phân ly (1905) nổi tiếng của Pháp
đã nói đến tự do lương tâm và tự do thờ cúng. Phải đến Tuyên ngôn thế giới về
Nhân quyền của Liên Hợp Quốc ngày 10-12-1948 mới có sự thể hiện hoàn chỉnh về
công pháp quốc tế của khái niệm “tự do tôn giáo”.
Khái
niệm tôn giáo đã được mở rộng bao gồm cả tôn giáo nhóm nhỏ và cá thể nhằm tạo
điều kiện cho sự phát triển của hệ phái Tin lành Mỹ ra khắp thế giới.
Cùng
với việc lợi dụng xu thế đa nguyên về tôn giáo, toàn cầu hóa tôn giáo nói trên,
Mỹ còn nhằm vào việc làm thay đổi bản đồ địa - tôn giáo của thế giới, tạo thêm
cơ sở xã hội có lợi cho việc thực thi chính sách toàn cầu của họ.
II. Nội
dung các quan điểm của Mỹ về vấn đề “tự do tôn giáo - nhân quyền ở Việt Nam”
- Về nội dung quyền “tự do tôn giáo” ở Việt Nam. Mỹ đưa ra những luận điệu hết sức sai trái để xuyên tạc và vu cáo Việt Nam như:
- Về nội dung quyền “tự do tôn giáo” ở Việt Nam. Mỹ đưa ra những luận điệu hết sức sai trái để xuyên tạc và vu cáo Việt Nam như:
+ Trong
khi điều 18 của Công ước quốc tế về các quyền Dân sự và Chính trị (Điều 1 của
Tuyên ngôn Nhân quyền) về loại trừ các hình thức bất khoan dung, phân biệt với
tôn giáo hay tín ngưỡng... thì Hiến pháp Việt Nam ở điều 70 quy định dựa vào
“Chính sách Nhà nước” để định các giá trị trên.
+ Cho
rằng Việt Nam thường xem tôn giáo như một vật thể chính trị chứ không phải một
tác nhân của xã hội, có quyền tự do quyết định vận mệnh của nó, thậm chí còn
xem tôn giáo như một công cụ tuyên truyền cho Đảng, Nhà nước, phục vụ các chính
sách Nhà nước trong việc phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội và an ninh - quốc
phòng.
+ Dự
luật HR 2368 vẫn lặp lại cái nhìn rất sai lệch cố hữu rằng: “Chính phủ Việt Nam
tước đoạt một cách hệ thống quyền cơ bản về tự do tôn giáo của công dân
mình...”.
- Về
vấn đề Tin lành ở Tây Nguyên. Họ tập trung nghiên cứu các phương diện nhân
chủng học, dân tộc học, tôn giáo học... ở vùng này. Họ cho rằng, những sự kiện
vừa qua ở Tây Nguyên chính là “sự phẫn nộ trước sự mất mát đất đai của tổ tiên
và sự thiếu tự do tôn giáo và trong nhiều dân tộc thiểu số ở Tây Nguyên đã hình
thành một thứ chủ nghĩa dân tộc, cơ sở cho những “đòi hỏi chính trị” hôm nay.
- Các
thế lực thù địch cho rằng, ở Việt Nam có “hai chính sách tôn giáo”. Một là,
trên ngôn ngữ văn bản, mà họ thừa nhận ngày một cải thiện. Hai là, chính sách
áp dụng trong thực tiễn, nhất là ở các địa phương thì ngược lại, đó là sự hạn
chế, trói buộc các tôn giáo.
- Nguy
hiểm nhất là Mỹ lợi dụng vấn đề “tôn giáo – dân tộc” để kích động tư tưởng ly
khai, tự trị ở các vùng dân tộc thiểu số, kích động gây bạo loạn, gây rối nhằm
tạo sự mất ổn định chính trị – xã hội trong khu vực. Cụ thể là các thế lực thù
địch công khai ủng hộ các phần tử phản động trong số người dân tộc thiểu số lưu
vong, phục hồi tổ chức FULRO, lập ra “Tin Lành Đề ga”, ‘Nhà nước Đề ga”, “Tổ
quốc Mông”... Họ thường xuyên kích động các phần tử cực đoan trong các tôn giáo
đòi “tự do tôn giáo”, âm mưu tái lập “Liên tôn chống cộng sản”; khôi phục các
tổ chức tôn giáo bất hơp pháp” công kích Uỷ ban đoàn kết Công giáo; hỗ trợ cho
một số người nhằm âm mưu phát triển đạo Tin Lành ngoài khuôn khổ, luật pháp ở
vùng dân tộc thiểu số Tây Bắc, Tây Nguyên, thậm chí còn vận động tặng giải
thưởng No-ben vì hoà bình và các giải thưởng nhân quyền cho một số nhân vật tôn
giáo chống đối, cực đoan, đối lập với Nhà nước lâu nay.
III.
Mấy suy nghĩ có tính giải pháp
Để phản
bác những quan điểm sai trái, phản động của các thế lực thù địch trong vấn đề
tôn giáo và nhân quyền, theo chúng tôi cần thực hiện một số giải pháp, phương
thức sau:
1 - Vấn
đề “tự do tôn giáo”
Tính
phức tạp của vấn đề là ở chỗ Mỹ lạm dụng và đồng nhất quyền tự do tôn giáo và
tự do truyền giáo để có thể thúc đẩy sự truyền bá Kitô giáo, nhất là Tin Lành
sang châu Âu và các nước khác trên thế giới. Những năm gần đây, do bối cảnh
toàn cầu hoá tôn giáo, Mỹ đã lợi dụng những ưu thế của đạo Tin Lành để có thể
bành trướng văn hoá, văn minh ra toàn cầu. Học thuyết về tự do tôn giáo của Mỹ
còn đặc biệt chú trọng đến vấn đề cải đạo, đổi đạo. Cụ thể là Mỹ rất quan tâm
lợi dụng các dân tộc thiểu số trên khắp các lục địa, những cộng đồng nhỏ yếu,
nhạy cảm, nặng mặc cảm “bị gạt bên lề” khỏi xu thế toàn cầu hoá, hiện đại hoá
và các cộng đồng vốn bị “thua thiệt lịch sử”.
Chúng
ta cần nghiên cứu, vạch rõ sự áp đặt các giá trị Mỹ cũng như sự phi lý của Mỹ
với quan điểm tự do tôn giáo theo lối lưỡng chuẩn (Double Standard). Ngoài ra,
bên cạnh việc nghiên cứu cái “logic” về “tự do tôn giáo” của Mỹ, chúng ta cần
nghiên cứu sự khác biệt trong quan niệm của Mỹ và Tây Âu về tôn giáo.
2 -
Vấn đề “luật pháp tôn giáo”
Chúng
ta một mặt phải hoàn thiện hơn nữa về phương diện luật pháp tôn giáo theo hướng
hội nhập hơn với các Công ước quốc tế. Mặt khác, trong công tác lý luận, chúng
ta cũng cần khẳng định những mặt mạnh, sự tiến bộ của hệ thống luật pháp tôn
giáo ở Việt Nam và trình bày một cách thuyết phục bước biến chuyển này trước
công luận. Trong khi thể hiện logic về tự do tôn giáo ở nước ta, về nguyên tắc
phải đảm bảo những tư tưởng chỉ đạo mà Đảng và Nhà nước ta đã chỉ ra như: bảo
đảm nguyên tắc độc lập dân tộc, xã hội chủ nghĩa, tôn giáo phải đồng hành với
dân tộc, lựa chọn các tôn giáo, tín ngưỡng của công dân phải thực sự trên cơ sở
tự nguyện, gắn bó với Tổ quốc và bản sắc dân tộc...
3 - Vấn
đề “tù nhân tôn giáo”
Chúng
ta cần khẳng định rõ là Việt Nam luôn tôn trọng một nguyên tắc cơ bản là người
dân có quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, tự do tín ngưỡng tôn giáo. Ở Việt
Nam không có cái gọi là “tù nhân tôn giáo”, không có ai bị giam giữ vì lý do
tôn giáo và bất đồng chính kiến.
4 - Vấn
đề “hai chính sách tôn giáo ở Việt Nam”
Trong
nhận thức cũng như trong hành động, chúng ta kiên quyết bác bỏ luận điểm này.
Giới nghiên cứu cần bảo vệ và làm rõ quan điểm nhất quán, lời nói đi đôi với
việc làm, chính sách, luật pháp về tôn giáo luôn được thực hiện ngày càng tốt
hơn trong thực tiễn với những dẫn chứng thuyết phục.
5. Về
âm mưu lợi dụng vấn đề tôn giáo trong các dân tộc thiểu số ở các địa bàn chiến
lược ở nước ta nhằm thực hiện chủ nghĩa ly khai, chủ nghĩa giải lãnh thổ.
Để
làm thất bại âm mưu này của địch, chúng ta cần nghiên cứu sâu và toàn diện hơn
những đặc tính, cội nguồn lịch sử, những vấn đề đương đại, trong đó có việc
phát triển “bất bình thường” của Kitô giáo hiện nay ở các vùng dân tộc thiểu
số, nhất là vùng đồng bào Mông, một số dân tộc thiểu số ở Tây Nguyên, cộng đồng
Khơme Nam Bộ. Cần nghiên cứu kỹ lưỡng hơn về các tổ chức phản động ở nước ngoài
từ lực lượng cầm đầu, âm mưu cụ thể của các thế lực thù địch ở Mỹ và phương Tây
gắn với Tin Lành Đề ga, phong trào Khơme Krom; phong trào Tổ quốc Mông... nhằm
mưu đồ thực hiện chủ nghĩa ly khai phá hoại khối đại đoàn kết toàn dân tộc, gây
mất ổn định chính trị, xã hội ở nước ta.
GS.TS Đỗ Quang Hưng
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét