Thứ Ba, 26 tháng 5, 2015

Bùi Tín - kẻ tráo trở, xuyên tạc lịch sử



                         
 Bùi Tín, sinh năm 1927, là con của cố Chủ tịch Quốc hội đầu tiên của nước Việt Nam dân chủ cộng hòa (cụ Bùi Bằng Đoàn). Thủa trẻ, ông ta được Nhà nước Việt Nam tạo điều kiện học tập, phấn đấu và từng bước trưởng thành với quân hàm đại tá, nhà báo, Phó Tổng biên tập Báo Nhân Dân Việt Nam. Năm 1990, khi được cấp trên cử sang dự hội nghị hằng năm của báo Nhân đạo (thuộc Đảng Cộng sản Pháp), Bùi Tín đã trốn ở lại để “ăn nhờ, ở đậu” ở nước mẹ Đại Pháp. Từ đó đến nay, Bùi Tín luôn tự cho mình là “nhà bất đồng chính kiến”, “nhà đấu tranh cho dân chủ, nhân quyền”. Dưới cái mác nhà báo tự do, Bùi Tín đã trở thành công cụ phục vụ cho lợi ích hèn hạ của các thế lực chống cộng, ra sức xuyên tạc lịch sử, nói xấu Chủ tịch Hồ Chí Minh, Đảng Cộng sản và Nhà nước Việt Nam. Nhưng “bàn tay không che nổi mặt trời”, bộ mặt tráo trở của Bùi Tín đã bị nhân dân Việt Nam, những người yêu chuộng công lý, hòa bình trên thế giới nhận rõ và lên án. Trong con mắt của họ, Bùi Tín là kẻ có tâm địa xấu xa, mưu toan “cõng rắn, cắn gà nhà”, “rước voi dày mả tổ”, phản bội lại lợi ích của Đảng, Nhà nước và dân tộc Việt Nam.
Vào ngày 30-4-2015, trong khi cả dân tộc Việt Nam hân hoan chào mừng kỷ niệm 40 năm ngày Chiến thắng (30-4-1975/30-4-2015), Bùi Tín lại trơ tráo đưa ra bài viết “Về ngày 30/4: Chỗ đứng của Đảng Cộng sản phải là vành móng ngựa” và được BBC nhanh nhảu đăng tải. Trong bài viết, Bùi Tín đã “cố gắng độc lập suy nghĩ bằng đầu óc tỉnh táo,…” và “chỉ lấy sự thật và lẽ phải làm mục tiêu”,… để đi đến kết luận là “Đảng Cộng sản Việt Nam đã liên tiếp phạm phải sai lầm này đến sai lầm khác”. Đó là: “đã sai lầm chọn chủ nghĩa Mác – Lê-nin,…”; “… chủ động gây nên cuộc nội chiến huynh đệ tương tàn,… “; “đày đọa, trả thù hàng chục vạn viên chức và sĩ quan Việt Nam Cộng hòa,…”, v.v. Cần phải khẳng định ngay rằng, đây là hành động trơ tráo, vô liêm xỉ, trắng trợn xuyên tạc sự thật lịch sử của Bùi Tín - kẻ trở cờ, bán nước hại dân. Vì sao nói vậy?
Thứ nhất, về cái gọi là sai lầm “lựa chọn chủ nghĩa Mác – Lê-nin”(!) Cần khẳng định ngay rằng, sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam là sự kết hợp đúng đắn giữa chủ nghĩa Mác – Lê-nin, phong trào công nhân và phong trào yêu nước ở Việt Nam cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX. Như vậy, cơ sở ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam mang tính khách quan, xuất phát từ đòi hỏi thực tiễn của cách mạng Việt Nam, có cơ sở chính trị, xã hội vững chắc. Vốn là người đã được nghiên cứu kỹ về mục tiêu, lý tưởng, cương lĩnh chính trị, Điều lệ Đảng, tự nguyện viết đơn xin vào Đảng, có “44 năm ở trong Đảng Cộng sản”, là “Đại tá, nhà báo” chắc Bùi Tín chẳng bị mù, hay thiểu năng trí tuệ mà không biết. Từ năm 1930 đến nay, đứng vững trên nền tảng chủ nghĩa Mác – Lê-nin, Đảng Cộng sản Việt Nam đã phất cao ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, đề ra cương lĩnh, đường lối đúng đắn, lãnh đạo nhân dân phát huy sức mạnh của chủ nghĩa yêu nước chân chính, của tinh thần đại đoàn kết toàn dân tộc, đoàn kết quốc tế, “đánh Pháp, đuổi Nhật”, “đánh cho Mỹ cút, đánh cho ngụy nhào”, giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước, đưa cả nước bước vào thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội; đồng thời, đóng góp quý báu vào phong trào giải phóng dân tộc, vì hòa bình, tiến bộ trên thế giới. Việt Nam trở thành biểu tượng của nhân loại tiến bộ trong công cuộc đấu tranh xóa bỏ áp bức, bất công do chủ nghĩa thực dân cũ và mới gây ra. Đây là sự thật lịch sử không thể bác bỏ! Từ ngày 30-4-1975 đến nay, kiên trì và vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác – Lê-nin, Đảng Cộng sản Việt Nam đã lãnh đạo nhân dân từng bước hàn gắn vết thương chiến tranh, xây dựng đất nước Việt Nam “ngày càng đàng hoàng hơn, to đẹp hơn”, thành tựu về xóa đói giảm nghèo, vì dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh, thế và lực mới của Việt Nam trên trên trường quốc tế ngày càng được nâng cao. Trong vòng 40 năm (1975 - 2015), đất nước, con người Việt Nam đều đổi mới. Từ một đất nước nghèo nàn, lạc hậu, bị tàn phá nặng nề bởi những cuộc chiến tranh xâm lược và sự chống phá quyết liệt của các thế lực thực dân, đế quốc, Việt Nam đã thoát ra khỏi tình trạng nước nghèo, trở thành nước phát triển trung bình, với tốc độ tăng trưởng GDP gần 7%/năm, thu nhập bình quân 2.200 đôla/người/năm (năm 2015); có nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; 54 dân tộc anh em luôn đoàn kết, giúp nhau cùng tiến bộ, chung sức dựng xây và bảo vệ Tổ quốc. Việt Nam đã có quan hệ hữu nghị, hợp tác cùng phát triển với trên 180 quốc gia, vùng lãnh thổ; là đối tác chiến lược, đối tác toàn diện với các nước là ủy viên thường trực Hội đồng bảo an Liên hợp quốc; là thành viên có uy tin và trách nhiệm với nhiều tổ chức lớn trong khu vực và trên thế giới, v.v. Việt Nam là điểm sáng trong thu hút các nguồn vốn ODA, FDI từ các thể chế kinh tế, tài chính lớn của thế giới. Việt Nam luôn đồng hành cũng các dân tộc, quốc gia để bảo vệ hòa bình, xây dựng môi trường quốc tế hòa bình, ổn định và cùng nhau phát triển.
Thứ hai, về cái gọi là “… chủ động gây nên cuộc nội chiến huynh đệ tương tàn”(!) Bùi tín biết rõ, sau khi Mỹ thất bại ở Việt Nam đã có nhiều nhà lịch sử, nhà khoa học, nhiều chính khách, tướng lĩnh trên thế giới, trong đó có cả của nước Mỹ đã đi tìm nguyên nhân. Câu trả lời mà họ nhận được là: Mỹ thua, bởi Mỹ đã tiến hành cuộc chiến tranh xâm lược phi nghĩa. Việt Nam thắng, bởi Việt Nam đã tiến hành cuộc chiến tranh bảo vệ Tổ quốc chính nghĩa. Đó là sự thật khách quan.
Sau chiến thắng Điện Biên Phủ “lừng lẫy năm châu, chấn động địa cầu”, thực dân Pháp và can thiệp Mỹ buộc ký Hiệp định Giơ-ne-vơ, kết thúc chiến tranh, lập lại hòa bình ở Việt nam (năm 1954); trong đó quy định rõ, năm 1956, Việt Nam sẽ tổ chức tổng tuyển cử thống nhất đất nước. Tuy nhiên, với âm mưu thế chân Pháp, xâm lược Việt Nam, đế quốc Mỹ đã dựng lên chính quyền tay sai Ngô Đình Diệm ở miền Nam nhằm chia cắt Việt Nam thành hai miền, có hai chế độ khác nhau. Hiệp định Giơ-ne-vơ vừa ký, chưa ráo mực, Mỹ - Diệm đã ra sức đàn áp, khủng bố nhân dân và chiến sĩ cách mạng miền Nam bằng súng, đạn và máy chém. Đế quốc Mỹ đã trực tiếp tiến hành chiến tranh xâm lược Việt Nam. Nền độc lập, thống nhất dân tộc Việt Nam lại đứng trước một thử thách to lớn. Quyết không chịu mất nước, không chịu làm nô lệ, “nước Việt Nam là một, dân tộc Việt Nam là một, sông có thể cạn, núi có thể mòn nhưng chân lý đó không bao giờ thay đổi”, cả dân tộc Việt Nam lại đứng lên “sẻ dọc Trường Sơn đi cứu nước”. Từ năm 1954 đến 30-4-1975, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, cả dân tộc Việt Nam ra trận đánh bại hết chiến lược chiến tranh này, đến chiến lược chiến tranh khác của đế quốc Mỹ. Thất bại của chiến dịch Lai-nơ-bếch-cơ, sử dụng pháp đài bay B.52, ném bom Hà Nội và các thành phố lớn ở miền Bắc Việt Nam, nhằm “đưa Hà Nội, miền Bắc trở về thời kỳ đồ đá” đã buộc Mỹ phải ký Hiệp định Pari (1973), rút quân về nước. Mỹ đã “cút”, nhưng ngụy chưa “nhào”. Với chiến lược “Việt Nam hóa chiến tranh”, đế quốc Mỹ đã đổ đô-la, vũ khí và hệ thống cố vấn quân sự vào miền Nam Việt Nam, âm mưu biến nơi đây thành thuộc địa kiểu mới của chúng. Để đánh cho “ngụy nhào”, đập tan chiến lược “Việt Nam hóa chiến tranh” của đế quốc Mỹ, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, quân và dân Việt Nam đã liên tục tiến công và nổi dậy đánh tan hệ thống ngụy quân, ngụy quyền trên khắp miền Nam. Sau chiến thắng Phước Long (1974), thời cơ giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước đã xuất hiện rõ. Mùa Xuân 1975, cuộc Tổng tiến công và nổi dậy của quân và dân ta mở đầu bằng đòn điểm huyệt Buôn Ma Thuột, phát triển đến chiến dịch Huế - Đà Nẵng và kết thúc bằng Chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử. Ngày 30-4-1975, tổng thống của cái gọi là Việt Nam cộng hòa Dương Văn Minh tuyên bố đầu hàng vô điều kiện, miền Nam sạch bóng quân thù, đất nước Việt Nam hoàn toàn thống nhất. Thời khắc này là mốc son chói lọi của thời đại Hồ Chí Minh trong lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc Việt Nam. Điều này chắc Bùi Tín biết rõ và nhớ lắm. Ông ta trước đây từng nhận vơ là “sĩ quan cao cấp, nhà báo đầu tiên vào dinh Độc Lập” mà(!) Và cũng chính ông ta đã đăng nhiều bài viết trên Báo Quân đội nhân dân, Báo Nhân Dân để ca ngợi chiến thắng của dân tộc Việt Nam. Thế mà, bây giờ chính ông ta lại phủ nhận điều đó. Đây chỉ có thể là hành động của những kẻ “trở cờ”, phản bội lại lợi ích của dân tộc, nhằm phục vụ cho những thế lực chống cộng. Sau ngày Chiến thắng (30-4-1975), có không cái gọi là “cuộc tắm máu”; sự ngược đãi những sĩ quan, nhân viên của chế độ cũ,… như Mỹ đã tuyên truyền và đến giờ Bùi Tín “sủa lại”? Không, không và không bao giờ có điều đó! Những luận điệu trên là phi thực tế, phi lịch sử, nhằm lừa bịp, kích động, bôi xấu bản chất của chế độ mới - chế độ xã hội chủ nghĩa.
Thế giới có câu châm ngôn, đại thể là: ai bắn vào lịch sử bằng súng lục, kẻ đó sẽ nhận ở tương lai bằng đại bác. Là một kẻ trở cờ, phản bội dân tộc, xuyên tạc, bôi đen lịch sử, chà đạp lên anh linh của hàng triệu người con ưu tú đã ngã xuống vì độc lập, thống nhất của dân tộc Việt Nam, Bùi Tín đã và đang “cõng rắn, cắn gà nhà”, “rước voi dày mả tổ”, nhất định bị nhân dân vạch mặt, lên án.

   Minh Quân

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét