Thứ Tư, 3 tháng 1, 2018

Phải chăng là cuộc chiến khốc liệt trong cái lò nhà sản?


Dạo này đọc báo, nghe đài, đâu đâu cũng thấy nói đến vụ Trịnh Xuân Thanh ra đầu thú, rồi câu chuyện của Thứ trưởng Hồ Thị Kim Thoa,  ông Trầm Bê, nguyên Phó Chủ tịch Thường trực Hội đồng quản trị kiêm Chủ tịch Hội đồng tín dụng Sacombank… Là một công nhân thợ điện (xin nghỉ mất sức), giờ ngồi bán nước trà đá vỉa hè để mưu sinh nhưng tôi cũng rất quan tâm theo dõi diễn biến các vụ việc có thể nói là “tiếng tăm” ấy. Hơn nữa, hằng ngày tiếp xúc với rất nhiều người, đủ mọi đối tượng (cán bộ, công chức, viên chức, người già, người trẻ, công nhân, xe ôm…) nên bản thân cũng nghe được nhiều thông tin, dư luận từ nhiều phía.
Mới đây, đọc bài “Cuộc chiến khốc liệt trong cái lò nhà sản” của ông (bà) Hải âu nào đó, với những gì nghe được, nắm được và thực tâm suy nghĩ của mình, tôi muốn trao đổi với bạn đọc vài điều.
Ông (bà) hải âu cho rằng việc ông Nguyễn Phú Trọng – Tổng Bí Thư - chỉ đạo các cơ quan chức năng điều tra, làm rõ và xử lý nghiêm minh những sai phạm của vụ Trịnh Xuân Thanh, Phạm Công Danh, Trầm Bê, Phan Huy Khang, Hồ Thị Kim Thoa…, hay như mới đây là việc kỷ luật ông Đinh La Thăng là “chiến dịch “làm sạch hệ thống” đảng cộng sản của Nguyễn Phú Trọng” để “cố bằng mọi giá giữ vững chiếc ghế của mình bằng một chiến dịch thanh trừng những kẻ có thể gây hại đến vị thế tổng bí thư của mình”.
Trước hết, phải nói rằng, một mình ông Trọng thì không thể lấy ý kiến cá nhân để tự quyết định được tất cả, theo kiểu “một tay che cả bầu trời” được. Bởi lẽ, không riêng gì tổ chức đảng mà các cơ quan, đơn vị, hay bất cứ tổ chức nào, đơn giản như tổ dân phố ở chỗ tôi cũng vậy, làm việc gì cũng phải dựa trên nguyên tắc tập trung dân chủ, phải nghe ý kiến của mọi người rồi cuối cùng mới đi đến thống nhất và thiểu số phải phục tùng đa số. Ở đây, đúng là ông Trọng làm Tổng Bí thư – người đứng đầu ĐCSVN, nhưng tôi được biết với cơ quan Đảng thì “tập trung dân chủ” là nguyên tắc tổ chức cao nhất, chính vì vậy mọi cán bộ đảng viên đều phải thực hiện nghiêm túc nguyên tắc này, theo đó thì thiểu số phải phục tùng đa số, Nghị quyết của các cơ quan lãnh đạo của Ðảng chỉ có giá trị thi hành khi có hơn một nửa số thành viên trong cơ quan đó tán thành. Do đó, nếu chỉ có một mình ông TRọng đồng ý, hoặc là có thêm vài người khác nhất trí thì cũng không thể quyết định được việc kỷ luật hay không kỷ luật, trong khi đó còn có cả tập thể Bộ chính trị 19 người (nay còn 18 người) và tập thể BCH Trung ương 200 người (180 người chính thức). Hơn nữa, đối với các vụ việc của Trịnh Xuân Thanh, Phạm Công Danh, Trầm Bê, Phan Huy Khang, Hồ Thị Kim Thoa… lại là những vụ việc lớn, dư luận đặc biệt quan tâm thì càng không thể làm qua loa, làm cho có, cho xong được mà phải tiến hành một cách thận trọng, đúng quy trình, bài bản, đúng người, đúng tội, phải đảm bảo công bằng, khách quan.
Thứ hai, công bằng mà nói, thời gian gần đây Bộ chính trị đã rất quan tâm chỉ đạo sát sao công tác phòng chống tham nhũng – vấn đề mà nhân dân đặc biệt quan tâm và có nhiều bức xúc. Nhiều vụ việc lớn, gây hậu quả nghiêm trọng được chỉ đạo điều tra làm rõ và từng bước xử lý kỷ luật. Dư luận nhân dân rất đồng tình ủng hộ và hoan nghênh. Hằng ngày ngồi bán trà đá vỉa hè, tôi cũng được nghe không ít những ý kiến của  rất nhiều người, đủ mọi đối tượng. Dù cho mỗi người nói theo những cách khác nhau, đánh giá ở các khía cạnh khác nhau, nhưng tựu chung lại thì đều phấn khởi, đồng tình trước sự quyết tâm, kiên quyết, tập trung, thống nhất của Bộ chính trị, Ban Bí thư, BCH Trung ương, trong đó có vai trò của người đứng đầu là ông Trọng. Việc làm này của Bộ chính trị, BCH TW đã khiến cho cá nhân tôi và nhân dân đặt nhiều kỳ vọng và niềm tin với Đảng.
Rõ ràng như vậy thì việc làm cho ra, cho được các vụ việc tham nhũng lớn là ý chí, quyết tâm của cả tập thể Bộ Chính trị, Ban Bí thư, BCH TW chứ không phải là ý kiến cá nhân của ông Trọng hay của bất cứ một ai khác. Cho nên không thể nào là “chiến dịch “làm sạch hệ thống” đảng cộng sản của Nguyễn Phú Trọng” để “cố bằng mọi giá giữ vững chiếc ghế của mình bằng một chiến dịch thanh trừng những kẻ có thể gây hại đến vị thế tổng bí thư của mình” như lời ông (bà) hải âu nói.
Thứ ba, về câu nói của ông Trọng trong bài phát biểu tại cuộc họp Ban chỉ đạo Trung ương về phòng chống tham nhũng (phiên họp thứ 12): “Cái lò đã nóng lên rồi thì củi tươi vào đây cũng phải cháy. Củi khô, củi vừa vừa cháy trước, rồi cả lò nóng lên, tất cả các cơ quan vào cuộc, có ai đứng ngoài đâu. Và không thể đứng ngoài được. Cá nhân nào muốn không làm cũng không thể được, thế mới là thành công” cần được hiểu cho đúng. Đây là câu nói mà khi tiếp xúc cử tri ông Trọng hay nói để ví von một cách hình ảnh. Tôi chỉ là một tay công nhân thợ điện (nghỉ mất sức), không phải người học rộng tài cao, nhưng tôi cũng hiểu được câu nói của ông Trọng dụng ý muốn nói về công tác phòng chống tham nhũng trong tình hình hiện nay là việc làm cấp thiết, cần làm có bài bản, có quy trình, làm cho kỳ được và không phải là việc của riêng cá nhân ai mà là của cả hệ thống, của các cấp, các ngành. Có như vậy mới thành công được. Vậy nên không thể quy kết câu nói này của ông Trọng là “một thông điệp gửi đến tất cả đảng viên cộng sản rằng Trọng vẫn là kẻ nắm giữ quyền lực cao nhất và không cho phép bất cứ đối tượng nào gây nguy hại đến mình” như lời ông (bà) hải âu nói.
Thứ tư, dù cho là thời ông Trọng làm tổng Bí thư hay bất cứ ai lên làm tổng Bí thư đi chăng nữa thì việc xây dựng Đảng, Chính quyền trong sạch, vững mạnh để tạo dựng lòng tin của nhân dân đối với Đảng, Nhà nước, xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc là công việc hết sức quan trọng và cần thiết. Bởi lẽ, nếu không nhận được sự đồng thuận của nhân dân thì dù cho bộ máy lãnh đạo có tài giỏi đến mấy cũng khó để lãnh đạo thành công được. Vì thế, việc Bộ chính trị, Ban Bí thư, BCH TW sát sao chỉ đạo và cương quyết trong công tác phòng, chống tham nhũng là việc làm cần thiết và tất yếu. Vậy nên không thể nói đây là “nội bộ cộng sản đảng đang có một cuộc chiến quyền lực thật sự thảm khốc”, là “Chiến dịch đốt củi “làm sạch đồng chí thù địch” của cá nhân ông Trọng như lời của ông (bà) hải âu.
Trong cái thời buổi công nghệ thông tin lên ngôi như ngày nay, có rất nhiều kẻ đã lợi dụng hệ thống mạng, lợi dụng những trang thông tin không chính thống để viết bài tuyên truyền, xuyên tạc với dụng ý kích động, chia rẽ dân tộc, bôi nhọ, nói xấu, hạ uy tín... Vì vậy mọi người cần tỉnh táo, lựa chọn thông tin chính thống, cần suy nghĩ cho thật thấu đáo để hiểu vấn đề một cách đúng nhất, thực chất nhất, tránh bị tâm lí đám đông, lung lay dao động.
Ngô Văn Toàn

Vấn Đề Đa Chiều: VỀ DƯ LUẬN VIÊN

Vấn Đề Đa Chiều: VỀ DƯ LUẬN VIÊN: Hồi năm 2012, chuyên gia xây dựng phần mềm cho Apple tiết lộ: "Apple bấm giờ bài phát biểu trong lễ công bố là 40 phút và sản phẩm sẽ ...

Vấn Đề Đa Chiều: Nguyên Ngọc - Một nhà văn lầm lạc

Vấn Đề Đa Chiều: Nguyên Ngọc - Một nhà văn lầm lạc: Nhắc đến Nguyên Ngọc chúng ta thường nói đến một nhà văn, nhà báo, biên tập, dịch giả, nhà nghiên cứu văn hóa, giáo dục nổi tiếng của Việt ...

Vấn Đề Đa Chiều: Nguyên Ngọc - Một nhà văn lầm lạc

Vấn Đề Đa Chiều: Nguyên Ngọc - Một nhà văn lầm lạc: Nhắc đến Nguyên Ngọc chúng ta thường nói đến một nhà văn, nhà báo, biên tập, dịch giả, nhà nghiên cứu văn hóa, giáo dục nổi tiếng của Việt ...

Vấn Đề Đa Chiều: BẢ VINH HOA LÀM CHẾT CẢ TÂM HỒN, HAM MỒI BÉO NẠP M...

Vấn Đề Đa Chiều: BẢ VINH HOA LÀM CHẾT CẢ TÂM HỒN, HAM MỒI BÉO NẠP M...: TỪ LÂU NGỌC ĐÃ KHÔNG CÒN NGUYÊN Xin được chia sẻ bài viết của Thượng tướng Võ Tiến Trung, Nguyên Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng C...

100 NĂM CHỦ NGHĨA XÃ HỘI HIỆN THỰC VÀ THỜI KỲ QUÁ ĐỘ LÊN CHỦ NGHĨA XÃ HỘI






                                                                              PGS.TS Phạm Văn Chúc


         I. CNTB, CNXH, THỜI KỲ QUÁ ĐỘ LÊN CNXH
         1. Phải chăng CNTB là đỉnh điểm của lịch sử?
         Bên lề tiến trình đổi mới hơn 30 năm nay, những người phủ nhận mục tiêu, con đường lên CNXH ở nước ta, thường biện luận:
         - Các nước TBCN phát triển hàng đầu phương Tây, qua 170 năm từ Mác – Ăng-ghen với TNĐCS, 100 năm từ Lê-nin với Cách mạng (CM) Tháng Mười Nga đến nay, không suy sụp, diệt vong mà ngày càng phát triển liên tục, mạnh mẽ về chất lượng, trình độ và sản lượng kinh tế, về tổng lực và bình quân đầu người GDP, về LLSX và NSLĐ, về khoa học, kỹ thuật và công nghệ.
         - CNTB là xã hội có sức sống cao; có khả năng tự điều chỉnh, hoàn thiện lớn; ngày càng tăng trưởng, phát triển bằng con đường  không ngừng “hủy diệt – sáng tạo”; là “sự kết thúc”, tức đỉnh điểm của lịch sử xã hội loài người. Sau CNTB vẫn là CNTB.
         - Trong khi đó, Liên Xô và các nước XHCN Đông Âu trước đây lâm vào tình trạng trì trệ, khủng hoảng, sụp đổ chỉ sau khoảng hơn 40 – hơn 70 năm tồn tại. Các nước XHCN còn lại ngày nay đều chậm phát triển, hoặc phát triển quá nóng, đầy bất trắc, không bền vững với giá đắt về nhân sinh, xã hội, môi trường.
         - CNXH hiện thực 100 năm qua có nhiều yếu kém, khuyết tật cơ bản, trầm trọng. Đây là kiểu xã hội chậm phát triển, trái tự nhiên, được thiết lập một cách chủ quan, gò ép, duy ý chí.
         - Quan điểm của Chủ nghĩa Mác – Lê-nin cho rằng, nhân loại sẽ đi đến một CNXH cao hơn CNTB, là hoang tưởng hão huyền, mơ hồ viển vông. CNXH đó không bao giờ có để mà tìm. Các nước XHCN ngày nay cần từ bỏ học thuyết này, để chuyển sang CNXHDC, cũng chính là CNTB hiện đại, dân chủ, tự do, văn minh.
         - Dù trong tương lai CNXH có thay thế CNTB, thì hiện tại và triển vọng gần cũng không có điều kiện thực hiện khả năng đó. Đa số các nước trên thế giới ngày nay đang nỗ lực đạt tới những giá trị chung nhân loại tiến bộ trong hội nhập, hợp tác quốc tế. Việt Nam cũng phải hướng theo những giá trị này, và như vậy chính là sẽ có CNXH… (!).
         2. CNXH hay TKQĐ lên CNXH?
         Ở đây cần nói ngay rằng, đúng như Lê-nin đã nhận định về CNXH ở nước Nga Xô-viết sau Cách mạng Tháng Mười, CNXH hiện thực đã và đang tồn tại ở nhiều nước trên thế giới 100 năm qua, chưa phải là xã hội XHCN thực sự. Theo chính quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lê-nin và căn cứ trên thực tế lịch sử, chừng nào một xã hội còn chưa bằng hoặc hơn CNTB phát triển phương Tây về kinh tế, thì khi đó nó mới chỉ là ở “thời kỳ quá độ chính trị từ CNTB lên CNXH” (TKQĐ). Hơn nữa, đây nhìn chung không phải là TKQĐ trực tiếp lên CNXH từ CNTB phát triển cao, hoặc TKQĐ nửa trực tiếp lên CNXH từ nước lạc hậu, được giúp đỡ bởi nước đã bước vào TKQĐ trực tiếp, nhờ thế mà bỏ qua giai đoạn phát triển TBCN. Đó là TKQĐ gián tiếp lên CNXH từ CNTB trình độ trung bình, hoặc thấp, thậm chí các nước lạc hậu tiền TBCN, bỏ qua chế độ TBCN.
         Tuy nhiên, ngay trong các ĐCS và các nước XHCN cũng có sự ngộ nhận, lẫn lộn, hoặc vì những mục tiêu chính trị thực tiễn nhất thời mà đồng nhất TKQĐ với CNXH, TKQĐ gián tiếp với TKQĐ trực tiếp, nửa trực tiếp. Điều này làm nảy sinh những hệ quả phức tạp, tiêu cực như:
         - Các ĐCS lãnh đạo, cầm quyền tại nhiều nước XHCN trong thời gian dài cho đến thời điểm 1989-1990, đã thực hiện những đường lối về TKQĐ trực tiếp, hoặc nửa trực tiếp, thậm chí xây dựng ngay CNXH. Chúng đều quá cao so với LLSX còn thấp và toàn bộ thực tế xã hội nói chung mới chỉ ở TKQĐ gián tiếp. Bởi vì tất cả các nước XHCN từ trước tới nay đều kém xa phương Tây về kinh tế, sản xuất. Những hình thức tổ chức, quan hệ chính trị, kinh tế, xã hội XHCN, mà trước hết là QHSX tập thể và quốc doanh, đẫ không phát huy được tác dụng, hiệu quả tích cực, ưu việt như mong muốn chủ quan. Không những thế chúng dần dần bị chuyển hóa, biến dạng, biến chất để cuối cùng trở thành phi XHCN, chống CNXH, tư bản hóa với thứ hạng thấp kém. Ở đây còn có cả trường hợp “tiền tư bản hóa” tái hiện chế độ sở hữu nhà nước, mà thực chất là của cá nhân một ông vua chuyên chế độc đoán, trong PTSX châu Á, phương Đông cổ đại lỗi thời, phản tiến bộ, phản phát triển.
         - Những kẻ đối lập với chủ nghĩa Mác – Lê-nin vin vào đó công kích CNXH, TKQĐ lên CNXH, mà trên thực tế và về bản chất mới chỉ là TKQĐ gián tiếp, là kiểu xã hội thua kém, chậm phát triển hơn CNTB, hoặc là hoàn toàn bất khả thi.
         - Những người vỗ ngực tự xưng là “phê phán, phản biện cấp tiến, dân chủ”, hoặc “thực sự đổi mới, phát triển sáng tạo, đột phá lý luận” cũng hùa theo phủ nhận toàn bộ mục tiêu, con đường XHCN nói chung, xóa nhòa đường lối về TKQĐ gián tiếp của Đảng ta hiện nay. Những người này vu cáo, xổ toẹt, vơ đũa cả nắm rằng, đó là chỉ là “giáo điều, bảo thủ, trì trệ, tả khuynh, chủ quan, duy ý chí”. Từ đấy họ lớn tiếng hô hào những khẩu hiệu dân chủ, tự do, phát triển chung chung mơ hồ. Trong thực chất tư tưởng, chính là họ cổ xúy cho mô hình CNTB phương Tây, mà không hiểu rằng đối với nhiều nước, kể cả nước ta, mô hình ấy là không phù hợp, bất khả thi và mang thuộc tính thực dân chủ nghĩa căn cốt bất biến của CNTB suốt hơn 500 năm từ khởi đầu đến hiện đại.
         Mác – Ăng-ghen đề cập nhiều đến CNCS, CNXH, TKQĐ. Nhưng hai ông trực tiếp chứng kiến và dành phần lớn sự quan tâm, sức lực, trí tuệ để phân tích các giai đoạn phát triển, quá độ của CNTB, từ đó khẳng định tính tất yếu của TKQĐ. Tiếp theo Mác – Ăng-ghen, Lê-nin nghiên cứu sâu sắc các giai đoạn quá độ, quá độ chính trị (tức TKQĐ) của CNTB, và đặc biệt là lần đầu tiên bắt tay thực hiện TKQĐ gián tiếp ở nước Nga Xô-viết. Như vậy, để bác bỏ những ý kiến sai trái nêu trên, trước hết cần tập trung nhận thức đúng đắn, đầy đủ lý luận Mác – Lê-nin về TKQĐ. Đồng thời, kiểm nghiệm, khẳng định và phát triển lý luận này từ thực tế lịch sử của CNXH hiện thực, mà thực chất là ở TKQĐ gián tiếp, trên thế giới 100 năm qua.
         II. VỀ TKQĐ LÊN CNXH
         1. Quá độ từ CNTB lên CNXH
         Đến cuối thế kỷ XIX – đầu thế kỷ XX ở các nước phương Tây, sự vận động, tiến triển hiện thực, khách quan của CNTB đã trải qua những giai đoạn lịch sử, trình độ lô-gic chính sau: Hình thành ở cuối xã hội phong kiến từ khoảng thế kỷ XIII-XIV ở I-ta-li-a; Sinh thành từ các cuộc cách mạng tư sản Hà Lan thế kỷ XVI, Anh thế kỷ XVII, Pháp, Mỹ thế kỷ XVIII; Trưởng thành vào giữa thế kỷ XVIII; Phát triển sau 100 năm cách mạng công nghiệp vào giữa thế kỷ XIX; Quá độ, là giai đoạn đế quốc chủ nghĩa (ĐQCN), hình thành tiền đề cho CNXH, từ cuối thế kỷ XIX; Quá độ chính trị, tức “thời kỳ quá độ chính trị” (TKQĐCT, thường viết gọn là TKQĐ), sinh thành CNXH, từ CM Tháng Mười Nga năm 1917.
         Các xã hội công xã nguyên thủy, nô lệ, phong kiến ở Tây Âu về cơ bản cũng trải qua những giai đoạn, trình độ tương tự: hình thành (trong xã hội cũ), sinh thành (từ xã hội cũ), trưởng thành, phát triển, quá độ (hình thành xã hội mới), quá độ chính trị (sinh thành xã hội mới).
         Theo Mác, trong giai đoạn phát triển của CNTB, đại công nghiệp, tư hữu lớn, cạnh tranh tự do thúc đẩy nhau cùng phát triển, phủ định sở hữu cá nhân của người sản xuất nhỏ. Sang giai đoạn quá độ, đại công nghiệp vượt quá tư hữu lớn và cạnh tranh tự do. Xu hướng xã hội hóa sản xuất của nó, khi phát triển đến mức độ cao nhất, sẽ tạo nên quy mô tối đa của tư hữu với số lượng tối thiểu nhà tư bản. Đó chính là công hữu và quản lý kế hoạch của toàn xã hội. Từ nửa sau thế kỷ XIX, CNTB vận hành theo lô-gíc nhân - quả điển hình: đại công nghiệp à tư hữu lớn à cạnh tranh tự do à chiến tranh mở rộng thị trường à tổng khủng hoảng, tức quá độ. Từ đây tất yếu dẫn đến TKQĐ giải quyết chuỗi xung đột, mâu thuẫn trên, thực hiện sự “phủ định cái phủ định” mang tính biện chứng cách mạng đối với tư hữu TBCN, “khôi phục lại sở hữu cá nhân”, xóa bỏ “cái vỏ TBCN” và “những xiềng xích của sự độc quyền” đối với “sự tập trung TLSX và xã hội hóa lao động”.
         Theo Lê-nin, manh nha từ 1860 – 1873 và rõ rệt từ 1900 – 1903, CNTB chuyển từ kiểu cũ sang mới, “một bước quá độ sang một cái gì đó”, bắt đầu “một thời kỳ quá độ từ CNTB sang một chế độ kinh tế - xã hội cao hơn”, tức CNXH. Đây là CNĐQ, cũng chính là giai đoạn quá độ của CNTB với “bước quá độ từ chỗ hoàn toàn tự do cạnh tranh đến chỗ hoàn toàn xã hội hóa” và việc “Một số những đặc tính cơ bản của CNTB đã bắt đầu biến thành điều trái ngược với những đặc tính đó”. Tuy nhiên, nó vẫn “phát triển vô cùng nhanh hơn trước” và dù đã đạt tới lô-gíc cơ bản, bộc lộ rõ giới hạn, nhưng chưa đi đến đỉnh điểm lịch sử của mình. Quá độ biểu hiện tập trung ở các cuộc khủng hoảng kinh tế chu kỳ trầm trọng, kéo theo khủng hoảng chính trị, xã hội gay gắt, nổi bật là Công xã Pa-ri năm 1871. Tiến trình vận động của CNTB từ cuộc khủng hoảng kinh tế đầu tiên năm 1825 đến cuộc khủng hoảng kinh tế - tài chính toàn cầu đầu thế kỷ XXI cho thấy, giai đoạn quá độ của chế độ xã hội này đã diễn ra trong thực tế và vẫn tiếp diễn ngày nay sau gần 200 năm.
         Sau Cách mạng Tháng Mười, các nước phương Tây luôn đe dọa, tấn công Liên Xô và các nước XHCN: Cuộc chiến can thiệp vào nước Nga Xô-viết (1918 – 1921), xâm lược Liên Xô (1941 – 1945); Chiến tranh lạnh (1945 – 1991); Các cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam (1945 – 1975), Triều Tiên (1953), Cu Ba (1961). Ngoài ra chúng còn bao vây kinh tế các nước XHCN và các nước tiến bộ, ra sức đàn áp phong trào giải phóng dân tộc...
         Sau chiến tranh thế giới II, hệ thống XHCN ra đời, CNTB từ độc quyền nhà nước chuyển thành độc quyền siêu quốc gia, lập trật tự thế giới với phương Tây ở trung tâm. Nó thi hành hàng loạt biện pháp: Thiết lập NATO, IMF, WB, WTO thống trị, chi phối vùng ngoại vi; Đẩy mạnh cải tiến quản lý sản xuất; Chia một phần lợi nhuận cho bộ phận công nhân quý tộc, công nhân phương Tây, tạo cách biệt với công nhân các nước đang phát triển; Áp dụng chủ nghĩa thực dân mới để tiếp tục bóc lột, chi phối các nước đó; Tranh thủ cách mạng KH-KT để tăng năng suất lao động, phát triển sản xuất; Tấn công phe XHCN về mọi mặt bằng chiến tranh lạnh, chiến tranh nóng cục bộ, răn đe hạt nhân...
         Từ 1989-1991 đến nay, phương Tây thực hiện chiến lược: Đẩy mạnh toàn cầu hóa để tái cấu trúc, thâu tóm trật tự thế giới có lợi cho mình; Đồng thời vẫn ưu tiên lợi ích quốc gia dân tộc (Anh thực hiện brexit, Mỹ rời bỏ TPP); Tiếp tục thúc đẩy cách mạng KH-CN, mở mang thị trường về chiều rộng và chiều sâu, gia tăng tỷ suất và tổng số lợi nhuận; Tăng cường kiềm chế Nga, Trung Quốc, phân hóa Đông Âu và không gian SNG; Ra sức chống phá các nước XHCN còn lại; Tiếp tục chi phối các nước đang phát triển; Thúc đẩy các lực lượng phản động trỗi dậy ở Ê-ti-ô-pi-a, Ni-ca-ra-goa, Grê-na-đa, Nam Y-ê-men…; Tấn công xâm lược đánh đổ các chính phủ ở Nam Tư cũ, I-rắc, Li-bi; Khống chế Áp-ga-ni-xtan, Xi-ri…; Thúc đẩy cách mạng sắc màu…
         Nhờ thế, phương Tây vẫn đạt được các mục tiêu: Duy trì chế độ TBCN; Không ngừng tăng trưởng kinh tế; Giữ ổn định chính trị - xã hội; Dồn đẩy mọi mâu thuẫn, vấn nạn, hệ lụy, mặt trái của sự phát triển ích kỷ nhờ tranh đoạt, cướp bóc sang các nước lạc hậu, nghèo nàn; Kéo dài sự tồn tại quá thời về lịch sử dù từ lâu đã đạt đến lô-gíc vận động cơ bản. Đi ngược lại tiến trình quá độ, giai cấp tư sản thực hiện điều chỉnh cục bộ để duy trì QHSX, chế độ chính trị TBCN, né tránh cải biến cách mạng triệt để. Nhờ vậy CNTB tạm thời xoa dịu mâu thuẫn, tiếp tục tăng trưởng, duy trì bản chất, chuyển đổi một số thuộc tính không cơ bản.
         Tuy nhiên, những biện pháp chủ yếu nó áp dụng hòng xóa bỏ được tiến trình này, như Mác vạch ra từ năm 1864, vẫn vô hiệu trong cả ngày nay: không có một sự cải tiến máy móc nào, không có một sự áp dụng khoa học nào, không có việc mở rộng thị trường nào lại có thể xóa bỏ được tình cảnh nghèo khó của quần chúng lao động; bất kỳ sự phát triển nào của sức sản xuất cũng đều khoét sâu thêm những đối kháng trong xã hội.
         2. TKQĐ  trực tiếp lên CNXH từ CNTB phát triển
         Giai đoạn quá độ chính trị từ CNTB lên CNXH không chỉ là một, hoặc một số cuộc cách mạng chính trị chóng vánh duy nhất. Đó là cả một TKQĐ, một quá trình “cách mạng không ngừng” thực hiện không chỉ “một điểm quá độ” nào, mà cả một “giai đoạn quá độ tất yếu”. Từ xã hội phong kiến lên CNTB, ngay trong giai đoạn quá độ đã hình thành cả LLSX lẫn “những tổ chức kinh tế” và “những hình thức quan hệ”, tức QHSX của CNTB. Đến giai đoạn quá độ chính trị của phong kiến, tức là cách mạng tư sản, mới sinh thành chế độ chính trị TBCN. Nhưng trong TKQĐ lên CNXH, trước hết nhà nước XHCN được sinh thành, từ đó mới hình thành dần cơ sở kinh tề cho CNXH trên tiền đề kinh tế của CNTB phát triển cao. Cho nên, TKQĐ tất yếu phải khó khăn lâu dài. Độ dài của nó có thể được so sánh, tham chiếu từ các giai đoạn vài ba trăm năm hình thành các xã hội tư bản hoặc phong kiến, thậm chí hàng nghìn năm hình thành, sinh thành xã hội nô lệ.                                                                 
         TKQĐ có bản chất “quá độ từ CNTB lên CNXH”. Đến CNXH, CNTB chỉ còn lại “những dấu vết về mọi phương diện kinh tế, đạo đức, tinh thần”. CNXH là “giai đoạn đầu” trưởng thành, cùng thuộc về CNCS với “giai đoạn cao”. Trong “giai đoạn cao”, xã hội CSCN “đã phát triển trên những cơ sở của chính nó”. Cho nên, CNXH cũng có bản chất CSCN. Khi phân biệt rõ “giai đoạn đầu” và “giai đoạn cao” của CNCS, Mác nói đến TKQĐ từ CNTB sang CNCS nói chung, mà không phải là lên riêng “giai đoạn cao”. TKQĐ ở “giữa xã hội TBCN và xã hội CSCN”, “từ xã hội nọ sang xã hội kia”, do vậy chính là từ CNTB lên CNXH, “giai đoạn đầu” của CNCS.
         Bản thân CNXH cũng có thể được coi là một giai đoạn quá độ, nhưng diễn ra hoàn toàn bên trong xã hội CSCN. Ở cuối CNXH không có quá độ chính trị, hay cách mạng chính trị, để chuyển lên “giai đoạn cao” của CNCS. Nhưng TKQĐ thì khác: nó ở giữa hai xã hội khác nhau và bản thân nó chính là quá độ chính trị. TKQĐ đã vượt qua giai đoạn cuối (quá độ)của CNTB, nhưng chưa đi vào giai đoạn đầu (CNXH) của CNCS.
        Cho nên, nếu đồng nhất TKQĐ với CNXH, thì tức là đã nâng bản chất của nó lên CSCN, khi LLSX phát triển chưa đầy đủ, phù hợp, tương xứng. Đây là quan điểm siêu hình tả khuynh, chủ quan duy ý chí, đốt cháy giai đoạn, đi vào CNXH không tưởng. Như thực tế của CNXH mô hình Xô-viết cho thấy, quan điểm đó dẫn đến tình trạng một bộ phận chóp bu trong đội ngũ quan chức Đảng – Nhà nước dần dần biến dạng, tách rời, đối lập, chiếm quyền của chủ sở hữu đích thực là người lao động mà lẽ ra đội ngũ ấy chỉ được ủy quyền đại diện.
         Ngược lại, nếu quy TKQĐ về giai đoạn quá độ của CNTB, thì tức là đã hạ thấp bản chất của nó xuống TBCN, coi nhẹ vai trò của chính trị mới, đề cao tính tự phát của kinh tế. Đây là quan điểm xét lại hữu khuynh, thụ động tiêu cực, chủ nghĩa khách quan định mệnh, kỹ trị duy kinh tế, quay ngược về CNTB lỗi thời, phản động.
         Còn nếu gộp cả CNXH lẫn giai đoạn quá độ vào TKQĐ, thì tức là đã có hai TKQĐ khác nhau về bản chất TBCN và XHCN, hoặc một TKQĐ với hai bản chất đó đối lập nhau. Đây là quan điểm nhị nguyên, tầm thường, chiết trung chủ nghĩa về lý luận, cơ hội vô nguyên tắc về chính trị.  
         Chứng kiến cụ thể và nghiên cứu sâu sắc sự phát triển, quá độ của CNTB phương Tây, Mác – Ăng-ghen đã dự báo và khẳng định tính tất yếu của sự quá độ chính trị, hay TKQĐ, “một thời kỳ cải biến cách mạng từ xã hội nọ sang xã hội kia”. Trong TKQĐ, dựa trên CNTB đã phát triển cao, bước chuyển thẳng lên CNCS sẽ được thực hiện. Những thành quả của CNTB về LLSX, kinh tế,  khoa học, kỹ thuật, công nghệ, trở thành tiền đề cho CNXH hình thành. Kết thúc TKQĐ, cơ sở ban đầu của CNXH được xác lập. Từ đó xã hội XHCN sinh thành, trưởng thành, phát triển “trên cơ sở của chính nó”. Với nội dung như vậy, TKQĐ này là trực tiếp.
         3. TKQĐ nửa trực tiếp lên CNXH từ nước lạc hậu được nước tiên tiến giúp đỡ, bỏ qua giai đoạn phát triển TBCN
         Mác, Ăng-ghen chú ý trường hợp hai xã hội “tác động qua lại làm nảy sinh ra cái mới, “một sự tổng hợp”, “kết hợp cả hai” PTSX và cùng tiến lên một xã hội cao hơn. Đó là việc người Giéc-manh từ xã hội công xã nguyên thủy đi lên phong kiến, bỏ qua nô lệ. Sau khi đánh bại người La Mã vào thế kỷ thứ V, họ kết hợp LLSX nô lệ với QHSX kiểu tổ chức quân sự “đội thân binh” (“Gefolgschaften” – tiếng Đức Ăng-ghen dùng trong nguyên bản) của mình. Từ đó chế độ “ân huệ” (“bénéfices” – tiếng Pháp), “bảo hộ” (“Kommendation” – tiếng Đức), tức chế độ phong kiến đã sinh thành, dần dần trưởng thành và bắt đầu phát triển từ thế kỷ IX.
         Nhờ sự kết hợp tích cực này, người La Mã đã kết thúc giai đoạn quá độ của xã hội nô lệ, thực hiện bước quá độ chính trị trực tiếp lên xã hội phong kiến. Nhưng đối với người Géc-manh, thì bước quá độ chính trị của họ ở đây đều là  nửa trực tiếp. Từ khi bắt đầu lấn át người La Mã vào thế kỷ II, họ chỉ mất 300 năm để từ cuối xã hội công xã nguyên thủy bỏ qua xã hội nô lệ, đi lên xã hội phong kiến, Trong khi đó, nếu tồn tại riêng biệt, thì để đi qua ba xã hội như vậy, chắc chắn họ phải mất hàng nghìn năm.
         Ngoài ra, bên cạnh sự phát triển lịch đại của một xã hội theo chiều dọc thời gian, tuần tự trải qua các hình thái kinh tế - xã hội do mâu thuẫn bên trong, Mác còn đề cập đến sự phát triển đồng đại theo chiều ngang không gian, trong sự tương tác qua lại giữa các xã hội. Do vậy, theo ông, ở châu Âu thời TBCN, do sự tác động của nước công nghiệp phát triển cao, mà tại nước công nghiệp phát triển thấp cách mạng vô sản cũng có thể sớm nổ ra.
         Mác – Ăng-ghen cũng rất quan tâm đến tình hình nước Nga Sa hoàng đương thời và cho rằng, không chỉ nước phương Tây có thể làm cách mạng vô sản bước vào TKQĐ. Nước Nga, các nước tiền TBCN khác cũng có thể thực hiện điều đó, nếu được nước phương Tây ở TKQĐ trực tiếp phối hợp, giúp đỡ. Khi ấy TKQĐ ở nước lạc hậu là “không phải trải qua giai đoạn phát triển TBCN”, “rút ngắn” tiến trình CNTB, tức không hoàn toàn trực tiếp, hay nửa trực tiếp.
         4. TKQĐ gián tiếp lên CNXH từ nước lạc hậu riêng biệt đơn độc, bỏ qua chế độ TBCN
         Theo Lê-nin, từ cuối thế kỷ XIX, ở các nước phương Tây diễn ra nhiều biến chuyển quan trọng: CNTB cổ điển chuyển thành CNĐQ. Độc quyền thay thế, nhưng không xóa bỏ cạnh tranh. Quy mô, mức độ cạnh tranh giữa số ít nhà tư bản, quốc gia TBCN còn lại trở nên sâu rộng, khốc liệt thêm. Tính xã hội hóa của cơ sở sản xuất kinh doanh thuộc mỗi nhà tư bản ngày càng cao hơn. Mức độ xã hội hóa dần dần tiệm cận đến quy mô toàn xã hội. Việc mở mang thị trường thế giới đã đạt đến giới hạn địa lý toàn cầu. Mâu thuẫn giữa các nước phương Tây trong tranh giành thuộc địa, phân chia lại thị trường trở nên gay gắt. Chiến tranh thế giới I bùng nổ. Từ đây xuất hiện cơ hội khách quan cho một nước TBCN riêng biệt, đơn độc, chưa phát triển, có thể làm cách mạng XHCN thắng lợi, bước vào TKQĐ gián tiếp.
         Sau CM Tháng Mười, điều này còn có thể diễn ra ở nước phụ thuộc, thuộc địa phương Đông liên minh với nước Nga Xô-viết. Từ những năm 1860, khi xem xét tình hình thuộc địa Ai-rơ-len và chính quốc Anh, Mác đã nêu khả năng cách mạng giải phóng dân tộc ở thuộc địa nổ ra trước, thúc đẩy và kết hợp với cách mạng vô sản tại chính quốc. Trên cơ sở tư tưởng của Mác – Ăng-ghen – Lê-nin, trong những năm 1920 Nguyễn Ái Quốc đã chỉ rõ vai trò quan trọng, tích cực của cách mạng giải phóng dân tộc.
         Sang những năm 1920, khi nước Nga Xô-viết không còn cơ hội nhận được sự giúp đỡ từ nước Tây Âu đã bước vào TKQĐ trực tiếp, để thực hiện TKQĐ nửa trực tiếp như Mác – Ăng-ghen dự kiến, Lê-nin bắt tay thực hiện đường lối về TKQĐ gián tiếp ở một nước lạc hậu riêng biệt, đơn độc lên CNXH.
         Trước hết, từ nền kinh tế TBCN trình độ trung bình, nửa PK lạc hậu của đế chế Nga Sa hoàng, tiến hành cuộc cách mạng XHCN xóa bỏ chế độ TBCN, đế quốc thực dân, phong kiến lạc hậu, phản động; thiết lập chính quyền Xô-viết làm tiền đề chính trị cải tạo xã hội cũ, xây dựng xã hội mới. Tiếp theo, trong trường hợp tình hình chính trị ổn định thuận lợi, thì thực hiện “chính sách kinh tế mới” (NEP). Với tên gọi này, NEP bắt đầu được áp dụng từ mùa xuân năm 1921 đến năm 1928. Tuy nhiên, trên thực tế và về bản chất, một chính sách mang tinh thần NEP đã được Lê-nin thực hiện ngay trong giai đoạn đầu tiên của TKQĐ, từ cuối năm 1917 đến giữa năm 1918.
         Nội dung chủ yếu của NEP là, dưới sự kiểm soát của Nhà nước XHCN, sử dụng kinh tế TBCN để xây dựng nền kinh tế đạt mức CNTB phát triển cao về mọi lĩnh vực, phương diện như: chính trị và kinh tế, đồng đại và lịch đại, lịch sử và lô-gíc, tương đối và tuyệt đối, ở từng nước và trên toàn thế giới. Chính quyền Xô-viết chủ động “dung nạp”, “lập lại”, “khôi phục lại trực tiếp và trên một mức độ lớn” kinh tế TBCN, sử dụng nó để xây dựng, phát triển LLSX ngang các nước phương Tây. Chính kinh tế TBCN chứ không phải kinh tế XHCN mới là cái phủ định biện chứng hợp lý, hiệu quả, tiến bộ, hiện thực và khả thi đối với kinh tế tiểu nông thấp kém, tiền TBCN trong nước đương thời.
         Sau TKQĐ gián tiếp mới là TKQĐ trực tiếp, xây dựng cơ sở ban đầu cho CNXH. Như vậy, những tính quy luật, mối quan hệ biện chứng, về kinh tế, chính trị, quân sự, tư tưởng… trong TKQĐ gián tiếp phức tạp gấp bội so với trong TKQĐ trực tiếp, hoặc nửa trực tiếp. Còn nếu so với trong CNXH, thì chúng phức tạp hơn nữa, vì bị “khúc xạ” tới hai lần. Lúc này để đưa được nền kinh tế lạc hậu lên bằng phương Tây, thì giữ vững chính trị XHCN là điều kiện cần, phát triển kinh tế TBCN là điều kiện đủ. Thực hiện TKQĐ gián tiếp với nội dung như vậy, sẽ tạo ra LLSX ngang với CNTB phát triển cao, làm tiền đề cho CNXH. Tuy nhiên, ở đây mục tiêu ấy sẽ đạt được bằng con đường  “rút ngắn”, nhanh chóng, hiệu quả và nhân văn hơn so với trong CNTB.
         Trong trường hợp tình hình chính trị - quân sự trở nên khó khăn gay gắt, khẩn cấp, chính quyền Xô-viết bị các lực lượng tư sản, bảo hoàng phản động trong nước và bọn can thiệp đế quốc bên ngoài trực tiếp đe dọa lật đổ, như từ giữa năm 1918 đến mùa xuân năm 1921, thì bắt buộc phải tạm dừng NEP để chuyển sang thực hiện “chính sách cộng sản thời chiến” (CSCSTC). Khi đó chính quyền Xô-viết trực tiếp nắm giữ, điều hành, huy động mọi nguồn lực của đất nước. Tiến hành quản lý sản xuất theo kế hoạch tập trung, thống nhất. Đồng thời, xác lập sở hữu nhà nước một cách phổ biến, triệt để trong toàn bộ nền kinh tế. Sở hữu đó, theo Mác – Ăng-ghen, chính là hình thái hiện thực cụ thể ban đầu của công hữu trong TKQĐ trực tiếp, dựa trên tiền đề là LLSX của CNTB phát triển cao.
         Nhưng trong CSCSTC, sở hữu nhà nước đã vượt quá LLSX nhìn chung còn thấp kém. Cho nên, việc nhà nước hóa sở hữu một cách hình thức, phi kinh tế ở đây tuy là cần thiết, tất yếu. Nhưng về bản chất, nó chỉ là giải pháp tình huống, có giá trị hạn chế, tương đối. Sở hữu nhà nước của CSCSTC trong TKQĐ gián tiếp không thể được áp đặt, duy trì một cách vạn năng, tuyệt đối, mở rộng tràn lan, kéo dài vô hạn. Còn trái lại, thì nó sẽ không còn là công hữu XHCN, CSCN mà biến dạng thành kiểu sở hữu nhà nước của xã hội phương Đông tiền TBCN, mà Mác gọi là PTSX châu Á.
         Hai chính sách CSCSTC và NEP được áp dụng tùy theo tình hình kinh tế, chính trị, quân sự, đối ngoại cụ thể khác nhau, thậm chí trái ngược nhau. Tuy nhiên xét về mục đích chung của đường lối về TKQĐ gián tiếp, thì chúng không mâu thuẫn mà thống nhất, bổ sung lẫn nhau. Mỗi chính sách là duy nhất hợp lý, tối ưu và tất yếu trong hoàn cảnh, điều kiện thực tế tương ứng nhất định của nó.
         Các nội dung cụ thể của đường lối về TKQĐ gián tiếp, cũng như của mỗi chính sách NEP hay CSCSTC nói riêng như một kế hoạch hành động thực tiễn trực tiếp, được Lê-nin vạch ra sau Cách mạng Tháng Mười. Nhưng tinh thần cơ bản, những tư tưởng chủ yếu về nó được ông hình thành sớm hơn. Chẳng hạn tư tưởng về việc chính quyền cách mạng sử dụng CNTB nhà nước để tiến lên CNXH, nội dung quan trọng của NEP, đã được Lê-nin đưa ra từ tháng 9-1917.
         Đường lối chung về TKQĐ gián tiếp không phải chỉ quy thành NEP. Và ngược lại, NEP không đồng nhất, không phải là toàn bộ nội dung của đường lối ấy. Trong đường lối về TKQĐ gián tiếp, còn có CSCSTC. Đây cũng là một nội dung cần thiết của đường lối đó ở mức độ tương tự như NEP. Nó được quy định một cách khách quan, tất yếu bởi chính bối cảnh thực tế cụ thể của TKQĐ gián tiếp. Đó là, nền độc lập dân tộc, chủ quyền quốc gia của nước XHCN luôn luôn bị đe dọa, thách thức bởi CNTB, CNĐQ và các thế lực phản động quốc tế.
         Nếu NEP bị tách rời, đối lập tuyệt đối với CSCSTC, trở thành nội dung duy nhất của đường lối chung về TKQĐ gián tiếp, kể cả khi CNTB trong nước, quốc tế trỗi dậy chống trả, đe dọa lật đổ chế độ XHCN, thì nó sẽ trở thành chính sách cơ hội, xét lại, hữu khuynh phục hồi chế độ TBCN. Ngược lại, khi không gắn với đường lối về TKQĐ gián tiếp và loại bỏ hoàn toàn NEP, thì CSCSTC sẽ trở thành đường lối tả khuynh, giáo điều, bảo thủ về TKQĐ. Khi đó, đường lối về TKQĐ gián tiếp bị thay thế bởi đường lối về TKQĐ trực tiếp, thậm chí còn là đường lối xây dựng luôn CNXH phiêu lưu, nóng vội ngay trên nền kinh tế còn kém xa CNTB đương thời. CNTB này cho dù đã đạt đến giới hạn về chất lượng, quy luật, lô-gíc phát triển của mình từ nửa sau thế kỷ XIX, song vẫn tiếp tục tăng trưởng mạnh mẽ, rõ rệt về mặt lịch sử trong thời gian dài tiếp theo.
         TKQĐ gián tiếp được thực hiện đầu tiên ở nước Nga Xô-viết từ Cách mạng Tháng Mười năm 1917 qua các giai đoạn: Kế hoạch đầu tiên xây dựng CNXH trước NEP, nhưng đã có tinh thần NEP là “tạm ngừng” tấn công giai cấp tư sản (11/917-4/1918); “Chính sách cộng sản thời chiến” (CSCSTC, 4/1918-3/1921); NEP (3/1921-3/1922); Điều chỉnh NEP bằng việc “ngừng rút lui” (3/1922- 01/1924).
         TKQĐ gián tiếp của một nước lạc hậu có thể diễn ra trong những điều kiện khác nhau như: Chính trị trong nước và đối ngoại ổn định, thuận lợi, thì tiến hành  NEP; Chính trị bất ổn, xảy ra nội chiến, bị CNTB, CNĐQ can thiệp, xâm lược, thì tiến hành CSCSTC, áp đặt sở hữu nhà nước cho LLSX có trình độ xã hội hóa chưa cao; Có sự giúp đỡ của nước XHCN khác ở TKQĐ gián tiếp, thì TKQĐ thuận lợi hơn, nhưng vẫn chỉ là gián tiếp; Không có sự giúp đỡ đó, thì TKQĐ khó khăn, lâu dài; Tranh thủ được nguồn lực kinh tế - kỹ thuật của phương Tây, thì thuận lợi hơn; Bị CNTB phong tỏa về kinh tế, thì khó khăn hơn.
         Cách mạng Tháng Mười khởi đầu TKQĐ gián tiếp ở nước Nga, mở ra “thời đại quá độ từ CNTB lên CNXH trên phạm vi toàn thế giới”. Trong thời đại mới, các nước trên thế giới kể cả nước lạc hậu, với những điều kiện nhất định, đều có thể bước vào TKQĐ. Tuy nhiên, không phải là tất cả các nước đồng loạt, đồng thời tiến hành việc đó. Cả lý luận lẫn thực tiễn của thời đại quá độ 100 năm qua đều cho thấy, một số nước lạc hậu có thể thực hiện TKQĐ gián tiếp trước. Trong khi đó, ở phương Tây giai đoạn quá độ có thể vẫn kéo dài, các nước TBCN hàng đầu chưa bước vào TKQĐ trực tiếp. Thậm chí, nhiều nước lạc hậu, hoặc TBCN trình độ thấp, trung bình có thể còn lâu nữa mới bước vào giai đoạn quá độ, chưa nói là TKQĐ.
         III. VỀ CNXH MÔ HÌNH XÔ-VIẾT
         1. Quan niệm của ĐCS Liên Xô về TKQĐ, CNXH, CNCS
         Từ cuối những năm 1920 khi Lê-nin đã qua đời, dưới sự lãnh đạo của người đứng đầu Đảng, Nhà nước là Xta-lin, Liên Xô bước vào kế hoạch phát triển kinh tế 5 năm lần thứ nhất (1928-1933). Cũng lúc này, NEP bị đình chỉ, đường lối của Lê-nin về TKQĐ gián tiếp chấm dứt. Từ đây ĐCS Liên Xô hoàn toàn chuyển sang đường lối thực hiện một TKQĐ trực tiếp, vì ngay từ năm 1930 là đã chuyển sang thực hiện chính CNXH. Đó là đường lối xây dựng bản thân xã hội XHCN, mà không phải chỉ là cơ sở ban đầu của xã hội này. Nội dung cơ bản, thực chất của đường lối này chính là CSCSTC được duy trì, phát triển trong hình thái tuyệt đối hóa, phiến diện, cô lập, không còn mối liên hệ phối hợp, kết hợp với NEP, phá vỡ và vượt ra khỏi khuôn khổ của TKQĐ gián tiếp nói chung.
         Chỉ sau khi bắt đầu kế hoạch 5 năm mới được vài năm, Đại hội XVI (1930) ĐCS Liên Xô tuyên bố, Liên Xô đã bước vào CNXH. Điều này cho thấy rõ rằng, thực ra trong nhận thức, quan điểm của ĐCS Liên Xô lúc ấy, vấn đề TKQĐ trong nước nói chung, không chỉ gián tiếp mà cả trực tiếp, đã kết thúc. Cả về lý luận lẫn về thực tiễn, TKQĐ được xem là đã giải quyết xong. Đến cuối năm 1932, kế hoạch 5 năm lần thứ nhất đã được hoàn thành thắng lợi vượt trước hạn trong 4 năm 3 tháng. Liên Xô trở thành nước công nghiệp hùng mạnh, đạt tốc độ tăng trưởng kinh tế và tổng GDP vượt một số nước phương Tây đương thời. Trong khi đó, CNTB thế giới lại lâm vào cuộc đại khủng hoảng về kinh tế. Đại hội XVII (1934) ĐCS Liên Xô tiếp tục khẳng định: Liên Xô đã xây dựng xong nền tảng của CNXH, tức là kết thúc TKQĐ từ CNTB lên CNXH, chính thức bước vào xã hội XHCN.
         Nhưng chưa hết, chỉ sau đó không lâu, vào nửa cuối những năm 1930, trên đà tiếp tục hoàn thành trước hạn kế hoạch 5 năm lần thứ hai (1933-1938), Đại hội VIII bất thường Xô-viết tối cao Liên Xô (1936) và Đại hội XVIII ĐCS Liên Xô (1939) tuyên bố: Liên Xô đã bước vào thời kỳ hoàn thành công cuộc xây dựng xã hội XHCN và quá độ dần dần từ CNXH lên CNCS, giải quyết được nhiệm vụ khó khăn nhất của cuộc cách mạng XHCN là xây dựng xong nền kinh tế mới, XHCN. Nói cách khác, lúc này ở Liên Xô CNXH đã được thực hiện về cơ bản.
         Sau thời gian 13 năm gián đoạn vì chiến tranh, khôi phục và tiếp tục phát trển đất nước, Đại hội XIX (1952) ĐCS Liên Xô, Đại hội cuối cùng dưới sự lãnh đạo của Xta-lin, coi việc xây dựng CNCS là nhiệm vụ thực tiễn trước mắt. Điều này có nghĩa là, CNXH hay “giai đoạn đầu” của HTKT-XH CSCN đã được hoàn thành về cơ bản. Ngay TKQĐ từ CNXH lên CNCS để xây dựng cơ sở của xã hội CSCN, cũng đã kết thúc. “Giai đoạn cao”, hay CNCS thực thụ, mà trong đó diễn ra việc xây dựng, thực hiện chính bản thân xã hội CSCN, đã bắt đầu. Các Đại hội XX (1956), XXI (1959), XXII (1961) ĐCS Liên Xô thời Bí thư thứ nhất Khru-sốp tiếp tục nêu rõ: Liên Xô đã bước vào thời kỳ xây dựng xã hội CSCN.
         Từ Đại hội XXIII (1966) trở đi, ĐCS Liên Xô không còn nói đến việc xây dựng ngay CNCS nữa. Năm 1967 Tổng Bí thư Brê-giơ-nhép nêu quan niệm mới cho rằng, Liên Xô đang ở “CNXH phát triển”. Tức là Liên Xô tuy đã đi được một chặng dài trong CNXH, hay “giai đoạn đầu”, nhưng vẫn hoàn toàn chưa bước vào “giai đoạn cao” của CNCS, hay xã hội CSCN thực thụ. Và thậm chí, “CNXH phát triển” cũng chưa phải là TKQĐ từ CNXH lên CNCS, mà còn cách đấy xa.
         Trong dịp kỷ niệm 165 ngày sinh và 100 năm ngày mất của C.Mác (1983), Tổng Bí thư An-đrô-pốp nhận định: Liên Xô mới chỉ ở “khởi điểm của CNXH phát triển”. Điều này có nghĩa là, đất nước Xô-viết đang và vẫn còn tiếp tục ở trong CNXH nói chung. Và dù nó đã bước vào CNXH phát triển đi nữa, thì giai đoạn này cũng được dự kiến là khá lâu dài.
         Đặc biệt, ở nửa cuối của “cải tổ” (1985-1991), từ Hội nghị Trung ương XIX (1988) khóa XXVII (1986) đến Đại hội cuối cùng lần thứ XXVIII (1990) ĐCS Liên Xô, dưới sự chủ trì của Tổng Bí thư Goóc-ba-chốp lần đầu tiên sau 60 năm xuất hiện quan điểm chính thức cho rằng, xã hội Xô-viết là CNXH biến dạng, thậm chí không phải là CNXH. Tuy nhiên, điều quan trọng và khác biệt về chất là ở chỗ, trước năm 1930 ĐCS Liên Xô nhận định đất nước dù chưa có CNXH, nhưng dẫu sao vẫn là ở TKQĐ. Trong đó, TKQĐ giai đoạn 1917-1928 là gián tiếp và giai đoạn 1928-1930 là trực tiếp. Còn đến lúc này, khi phủ nhận đất nước có CNXH, thực ra “tư duy mới” cũng bác bỏ ngay cả TKQĐ.
         Trong các tuyên bố, nhận định trên của ĐCS Liên Xô về mục tiêu, con đường xây dựng, phát triển đất nước lên CNXH, CNCS, nhiều khi còn chưa phân biệt rành mạch, chặt chẽ, nhất quán việc xây dựng cơ sở của CNXH, (tức TKQĐ lên CNXH) với chính CNXH, hoặc việc xây dựng cơ sở của CNCS (TKQĐ lên CNCS) với chính CNCS. Nhưng dù sao cũng có thể thấy những quan điểm chính tương đối rõ ràng của ĐCS Liên Xô từ sau Lê-nin về TKQĐ, CNXH, CNCS. Đó là: 1917-1928: thực hiện xong TKQĐ gián tiếp lên CNXH; 1928-1930: thực hiện xong TKQĐ trực tiếp lên CNXH; Giai đoạn 1930-1936: xây dựng xong về cơ bản CNXH, bước vào TKQĐ từ CNXH lên CNCS; Giai đoạn 1952-1964: kết thúc TKQĐ từ CNXH lên CNCS, bước vào CNCS; Giai đoạn 1967-1982: bước vào CNXH phát triển; Giai đoạn 1982-1988: ở khởi điểm của CNXH phát triển; Giai đoạn 1988-1991: chưa có CNXH, nhưng cũng không ở TKQĐ.
         Trong quá trình trên, tuy quan niệm, nhận thức có nhiều thay đổi, nhưng một số quan điểm gần như được ĐCS Liên Xô thống nhất khẳng định chung, tương đối ổn định qua tất cả các thời kỳ. Đó là: Từ 1928 Liên Xô chuyển hẳn từ TKQĐ gián tiếp sang TKQĐ trực tiếp. Đến năm 1930, TKQĐ trực tiếp hoàn thành. Từ 1930 Liên Xô đã tạo lập được cơ sở ban đầu cho xã hội XHCN, chính thức bước vào CNXH. Đến cuối thập niên này, trước chiến tranh Vệ quốc vĩ đại (1941-1945), CNXH về cơ bản đã được xây dựng xong.
         2. Bản chất của CNXH hiện thực Xô-viết
         Sau Cách mạng Tháng Mười chỉ hơn 10 năm (1917-1928/1930), TKQĐ gián tiếp rất lâu dài và khó khăn, phù hợp với điều kiện khách quan mà Lê-nin ước tính phải trải qua sớm nhất là 4-5 thế hệ mới kết thúc, đã được đẩy nhanh và nâng cao thành TKQĐ trực tiếp, rồi CNXH trong đường lối chủ quan của ĐCS Liên Xô. Tất nhiên, từ bối cảnh thực tế lịch sử khi đó đã nảy sinh nhiều nhân tố quan trọng, phức tạp mới về kinh tế, chính trị và quân sự; trong nước và quốc tế; hòa bình và chiến tranh; nhận thức, tư tưởng, lý luận và tình hình thực tế… Chúng buộc Đảng, Nhà nước Xô-viết phải một lần nữa chuyển trọng tâm của đường lối về TKQĐ gián tiếp từ NEP sang CSCSTC.
         Chẳng hạn, trong khi CNTB phương Tây lâm vào cuộc đại khủng hoảng kinh tế năm 1929-1933, thì Liên Xô lại phát triển mạnh mẽ, công nghiệp hóa thành công, vươn lên hàng đầu châu Âu, thứ hai thế giới. Điều này dẫn đến sự ngộ nhận chủ quan rằng, CNTB sắp diệt vong, do đó TKQĐ đã kết thúc, CNXH đã ra đời. Hoặc từ sau cuộc đại khủng hoảng kinh tế trên, đã xuất hiện xu hướng nổi trội bên ngoài không thể kìm hãm được hướng tới tái vũ trang ồ ạt, gây chiến tranh lớn của các nước ĐQCN, để giành giật, phân chia lại thị trường thế giới. Tình hình này buộc Liên Xô phải tăng cường tiềm lực quân sự, kéo theo chuỗi nhân – quả các lựa chọn, quyết sách chính trị và kinh tế, các hoạt động thực tiễn bất khả kháng, tất yếu. Chúng không thể được phân định, đánh giá đúng – sai, hợp lý – phi lý một cách giản đơn, dễ dãi từ lập trường phi lịch sử, trừu tượng, thuần lý.
         Để phát triển, hiện đại hóa Hồng quân bảo vệ đất nước, thì phải nhanh chóng công nghiệp hóa tối đa trong vòng 10 năm thay vì theo quy luật thông thường của CNTB là từ 50 đến hàng trăm năm. Nhưng để công nghiệp hóa được như thế, thì phải gấp rút tập thể hóa nông nghiệp dù chỉ trên hình thức (tức về mặt QHSX), kể cả phải dùng bạo lực cưỡng bức đối với nông dân. Và để tập thể hóa nông nghiệp thành công, thì phải bằng các biện pháp phi kinh tế cấp tốc áp đặt sở hữu nhà nước ở những mức độ cao, thấp khác nhau trong các nông trang tập thể và nông trường quốc doanh. Sở hữu này chính là nội dung cơ bản thực chất của CSCSTC, mang hình thức QHSX XHCN. Cuối cùng, để hợp thức hóa QHSX mới ấy, phải tức thời tuyên bố, khẳng định ngay rằng, không phải TKQĐ còn tiếp diễn, kéo dài, mà chính xã hội XHCN thực thụ đã ra đời, tồn tại thật sự trên đất nước Xô-viết.
         Tương tự như vậy, trong giai đoạn 1945-1991, với điều kiện khó khăn, nguy hiểm của cuộc chiến tranh lạnh, sự đe dọa bằng vũ khí nguyên tử, hạt nhân và việc bao vây, phong tỏa, cấm vận kinh tế từ phía CNTB phương Tây, trên thực tế và về bản chất Liên Xô lại một lần nữa phải đình hoãn NEP, tiếp tục áp dụng mô hình CSCSTC. Theo đó, công hữu trong hình thái sở hữu nhà nước được xác lập, duy trì để tập trung huy động được nhanh chóng, hiệu quả nguồn lực cho các nhiệm vụ quân sự, quốc phòng. Điều này, về mặt khách quan, đã dần dần tạo ra giới quan liêu hữu sản, tư hữu ngày càng lớn mạnh, lũng đoạn nhà nước, hệ thống chính trị. Nó có lợi ích riêng, độc lập và đối lập với nhân dân, thậm chí còn xâm phạm, chiếm đoạt lợi ích của họ.
         Tuy nhiên, dù sao thì việc loại bỏ hẳn NEP cũng đã làm thay đổi chính bản chất của cả CSCSTC, lẫn đường lối về TKQĐ. Từ dấu mốc những năm 1928-1930, mô hình CSCSTC bắt đầu trở thành độc tôn, chủ đạo, duy nhất, đã biến đường lối về TKQĐ từ gián tiếp thành trực tiếp, hơn nữa thành đường lối xây dựng luôn bản thân CNXH một cách bất hợp lý, trái với những quy luật mà chính Lê-nin đã tìm ra và bước đầu vận dụng. Đây không còn là sự điều chỉnh chính sách đơn thuần, mà là sự thay đổi về nguyên lý nhận thức lý luận và nguyên tắc hoạt động thực tiễn. Điều này đã dẫn đến những hệ quả sâu xa, lâu dài vô cùng nghiêm trọng, tiêu cực, tai hại cho vận mệnh của CNXH ở Liên Xô.
         Từ một chính sách cần thiết, tất yếu, hợp lý, không mâu thuẫn mà thống nhất với NEP trong đường lối chung linh hoạt, sáng tạo của Lê-nin về TKQĐ gián tiếp, CSCSTC đã trở thành hạt nhân của đường lối về TKQĐ trực tiếp, và sau đó là của đường lối phi quá độ, xây dựng ngay và thực hiện luôn CNXH. Chính ở đây đã xuất hiện mầm mống của nhiều hạn chế, tiêu cực về sau: Công hữu bị hình thức hóa, vượt quá quy mô, trình độ xã hội hóa chưa cao của LLSX; Trong sở hữu nhà nước, quyền chủ sở hữu của người lao động bị suy giảm, xói mòn; Nhà nước từ chỗ là đại diện cho chủ sở hữu, trở thành chủ sở hữu thực tế; Chủ sở hữu này lại quy về một thiểu số nhóm, thậm chí cá nhân nhà lãnh đạo, quản lý. Nó dần dần mất đi bản chất vô sản, XHCN, nhuốm màu sở hữu TBCN sơ kỳ, hoặc kể cả tiền TBCN.
        Sự ngộ nhận một xã hội mới chỉ ở TKQĐ, đã chính là CNXH, việc lầm tưởng TKQĐ đã hoàn tất, dẫn đến việc xác lập QHSX XHCN với sở hữu nhà nước chỉ trên hình thức, bất chấp tính tất yếu kinh tế - kỹ thuật. Sở hữu ấy dần dần trở thành sở hữu của bản thân giới quan chức, vốn chỉ đại diện cho chủ sở hữu là người lao động. Khi mở rộng QHSX này vượt quá quy mô, trình độ xã hội hóa thực tế của LLSX, thì chính ở những nơi có sự bất cập, hẫng hụt, chênh lệch đó, nó bị suy thoái, thoái hóa, biến chất nghiêm trọng. Trong CNXH hiện thực mô hình Xô-viết, sở hữu tập thể, quốc doanh đã biến dạng thành các hình thái tư hữu trá hình. Tại những nơi có điểm xuất phát thấp, tiền tư bản (vùng Trung Á, Ngoại Cáp-ca-dơ), còn tái hiện cả sở hữu nhà nước chuyên chế tập quyền kiểu PTSX châu Á, phương Đông mà Mác đã từng nói đến.
         Chính ĐCS Liên Xô cũng đã thừa nhận ngay từ Đại hội XVI (1930) cho tới nhiều Đại hội về sau rằng, tốc độ phát triển và sản lượng một số ngành sản xuất của Liên Xô có thể gần bằng hoặc thậm chí cao hơn, song trình độ phát triển kinh tế của Liên Xô nhìn chung còn kém phương Tây. Hơn nữa, các Đại hội từ XVIII (1939) đến XXII (1961) ĐCS Liên Xô còn nêu rõ, nhiệm vụ kinh tế cơ bản của Liên Xô là đuổi kịp và vượt các nước TBCN hàng đầu về sản lượng bình quân đầu người. Điều này mâu thuẫn rõ ràng với tuyên bố của ĐCS Liên Xô rằng, đất nước đã có CNXH, hoặc CNXH phát triển, thậm chí đã bước vào CNCS.
        Trên thực tế, ở đỉnh cao phát triển của mình từ đầu những năm 1960 đến đầu những năm 1970, trong so sánh về tổng GDP, Liên Xô vẫn luôn luôn kém Mỹ từ 1,5 tới 2 lần. Về trình độ, chất lượng, tốc độ phát triển kinh tế-kỹ thuật, Liên Xô cũng còn kém xa hầu hết các nước phương Tây. Xét chung từ cuối những năm 1920 cho đến năm 1991, khi tự coi là đã có TKQĐ trực tiếp và CNXH, Liên Xô vẫn luôn thấp hơn phương Tây ở nhiều mặt cơ bản, chủ yếu, như về chất lượng và trình độ phát triển, khối lượng và quy mô GDP.
         Trong khi đó, theo tư tưởng của Mác – Ăng-ghen và Lê-nin, thì không chỉ CNXH mà ngay cả TKQĐ trực tiếp, nhìn chung cũng đã vượt qua CNTB về mặt kinh tế, sản xuất. Như vậy, một  xã hội được tuyên bố là “XHCN” hay “CNXH hiện thực”, mà lại thấp hơn CNTB, thì thực chất không thể là CNXH thật sự. Từ cơ sở vật chất - kỹ thuật thực tế khách quan của mình và trong so sánh cả tương đối lẫn tuyệt đối, cả đồng đại lẫn lịch đại, cả chính trị, xã hội, văn hóa lẫn kinh tế với phương Tây, thì phải thừa nhận rằng, tất cả các nước XHCN từ trước đến nay, bao gồm Việt Nam, Trung Quốc hiện nay, Liên Xô và các nước XHCN Đông Âu trước đây, đều mới ở TKQĐ gián tiếp với những trình độ khác nhau.
         Tiếc rằng, ngay khả năng tối thiểu nhưng dù sao cũng là rất tích cực và hiện thực ấy, Liên Xô và Đông Âu cuối cùng cũng đã không đạt được. Việc thực hiện đường lối sai lầm về TKQĐ nửa trực tiếp, hoặc trực tiếp, rồi xây dựng ngay CNXH, trái ngược hẳn với với đường lối của Lê-nin về TKQĐ gián tiếp, đã dần dần đưa các nước này chệch khỏi con đường lên CNXH. Sự bất tương hợp, xung đột, mâu thuẫn giữa hiện thực xã hội với định hướng, đường lối hoạt động chủ quan, đã không khai thác, phát huy được tiềm năng tích cực của những hình thức, tổ chức, kết cấu, cơ chế, thể chế, quan hệ XHCN. Hơn thế nữa, việc đó còn làm biến dạng theo hướng “tư bản hóa”, kể cả “tiền tư bản hóa” những quan hệ kinh tế, chính trị, xã hội mới đã được xác lập, vận dụng, vận hành trong thời gian đầu. Do vậy, cuối cùng Liên Xô và các nước XHCN Đông Âu đã không tránh khỏi rơi vào quỹ đạo của CNTB với thứ hạng thấp.
         Tình hình trên gần tương tự với điều Mác đã nói về quan hệ giữa LLSX và QHSX trong chế độ phong kiến ở Tây Âu thời trung cổ. Đó là, vào thế kỷ IX trên cơ sở kinh tế phong kiến đã trưởng thành được 400 năm và bắt đầu phát triển, Đại đế Sác-lơ-ma-nhơ cố gắng áp đặt trở lại kinh tế nô lệ thời La Mã cổ đại cho vương quốc Phơ-răng. Tuy nhiên, cuối cùng ông ta đã thất bại hoàn toàn trong việc này.
         Một trường hợp khác cũng được Mác nêu lên về tính quy luật tất yếu của mối quan hệ giữa LLSX và QHSX. Đó là, trong PTSX nô lệ La Mã, người chủ nô hoặc bình dân tự do khi bị phá sản, thì không rơi xuống địa vị nô lệ. Lúc này họ trở thành tầng lớp “vô sản” (proletariat), thậm chí “dân đen” vô công rồi nghề tức “vô sản lưu manh” (lumpen-proletariat) bị khinh miệt, nhưng vẫn được chính quyền chủ nô chu cấp bánh mì và cho thưởng ngoạn nhiều trò vui chơi, tiêu khiển tại đấu trường vĩ đại Cô-li-dê ở Rô-ma. Thế nhưng trong PTSX TBCN hiện đại, bất kỳ ai phá sản đều trở thành công nhân, hay người vô sản hiện đại, không những không được nuôi sống, mà còn phải đi làm thuê cho nhà tư bản.
         Cho đến cuối những năm 1920 – cuối những năm 1930, quan điểm coi Liên Xô đã ở TKQĐ trực tiếp, sau đó nhanh chóng bước hẳn vào CNXH, rồi hoàn thành về cơ bản việc xây dựng CNXH, trở thành chính thức, chủ đạo không chỉ trong ĐCS Liên Xô, mà cả trong Quốc tế Cộng sản. Từ đây dẫn đến một quan niệm phổ biến kéo dài hơn 60 năm sau trong PTCS&CNQT, trước hết là ở các nước XHCN. Theo đó, TKQĐ ở những nước lạc hậu, hoặc TBCN trung bình được Liên Xô giúp đỡ, đương nhiên ngay từ đầu đã là nửa trực tiếp, thậm chí trực tiếp.
         Trong khi đấy, chính Lê-nin sau Cách mạng Tháng Mười đã phân biệt rất rõ hai trường hợp TKQĐ khác nhau có thể diễn ra. Thứ nhất, nước lạc hậu được giúp đỡ bởi nước tiên tiến đã làm cách mạng vô sản thành công, tức ở TKQĐ trực tiếp, thì có thể bước vào TKQĐ “bỏ qua giai đoạn phát triển TBCN”. Ở đây, trong tư tưởng của Lê-nin, TKQĐ này là nửa trực  tiếp như Mác – Ăng-ghen đã từng đề cập. Nước Nga Xô-viết mới chỉ ở TKQĐ gián tiếp, cho nên rõ ràng không thuộc số các nước tiên tiến đã làm cách mạng vô sản thành công và bắt đầu thực hiện TKQĐ trực tiếp.
         Thứ hai, sau Cách mạng Tháng Mười, các nước phụ thuộc, thuộc địa lạc hậu phương Đông cần phải liên minh với nước Nga Xô-viết để tiến hành thắng lợi cách mạng dân tộc dân chủ, chống các chế độ phản động, chống CNĐQ và CNTD, bước vào TKQĐ lên CNXH. TKQĐ này không hề được Lê-nin coi là nửa trực tiếp. Vì chính ông xác định rõ rằng, ngay TKQĐ của nước Nga Xô-viết cũng mới chỉ là gián tiếp. Cho nên, TKQĐ mà Lê-nin nói đến ở các nước lạc hậu trong trường hợp được nước Nga Xô-viết giúp đỡ tích cực, thì có thể diễn ra thuận lợi hơn. Song cho dù như vậy, TKQĐ ấy vẫn chỉ là gián tiếp, và ở trình độ thấp hơn nhiều so với TKQĐ về cơ bản cũng là gián tiếp của nước Nga Xô-viết, kể cả sau đó là Liên Xô.
         Từ lý luận Mác – Lê-nin về TKQĐ, so sánh, đối chiếu với thực tế nền kinh tế, LLSX của CNTB, thì phải rút ra một kết luận khách quan. Đó là, trong suốt quá trình tồn tại 1917-1991, kể cả những năm 1930 đuổi kịp một số nước hàng đầu Tây Âu, hoặc những năm 1960-1970 đạt mức 70% Mỹ, thực chất Liên Xô vẫn chỉ ở TKQĐ gián tiếp. Nước này chưa hề chuyển sang TKQĐ trực tiếp, càng chưa có CNXH, “CNXH phát triển”, hoặc “giai đoạn CSCN”. Do vậy, các nước XHCN khác trên thế giới được Liên Xô trước đây giúp đỡ, cũng đều ở TKQĐ gián tiếp. Trung Quốc từ khi tiến hành cải cách, mở cửa cuối những năm 1970 đã ra sức tranh thủ phương Tây. Tuy nước này nhận định, đang ở “giai đoạn đầu kéo dài 100 năm của CNXH”, nhưng giai đoạn đó thực chất vẫn chỉ là TKQĐ gián tiếp.
         Cần chú ý rằng, sau Cách mạng Tháng Mười Lê-nin đã chỉ rõ: Nước Nga Xô-viết chưa thể trực tiếp quá độ lên CNXH, tức là mới ở TKQĐ gián tiếp; Nói CNXH chỉ là trên ý nghĩa thể hiện quyết tâm của chính quyền Xô-viết thực hiện bước chuyển lên CNXH, mà chưa phải là đã có kinh tế XHCN; Chưa thể thực hiện ngay chính CNXH; Nếu tách khỏi CNTB tiên tiến, thì chỉ có thể có một thứ CNXH của người dân Trung Phi, hoặc xây dựng CNXH trên Cung trăng; Đến đời cháu chắt chúng ta, mới có xã hội XHCN... 
         Nhận thức và vận dụng đúng lý luận Mác – Lê-nin về TKQĐ thì sẽ thấy, cho dù Tây Âu đã đạt đến đỉnh điểm của CNTB, và Liên Xô đạt mức ngang bằng nó, thì nhiều nhất nước này cũng chỉ bắt đầu bước vào TKQĐ trực tiếp. Song thực tế là từ đó đến nay phương Tây vẫn tiếp tục tăng trưởng về kinh tế, tức là còn chưa đạt tới đỉnh điểm lịch sử của mình. Trong khi đấy, Liên Xô luôn thua kém phương Tây về trình độ, chất lượng phát triển kinh tế, do đó tức là vẫn chưa thể kết thúc TKQĐ gián tiếp.
         Như vậy, vừa đi ngược lại thực tế cuộc sống, vừa làm trái với lý luận Mác – Lê-nin về TKQĐ nói chung, đặc biệt là TKQĐ gián tiếp, đường lối của Liên Xô và nhiều nước XHCN về xây dựng, thực hiện ngay CNXH, cuối cùng đã thất bại. Đường lối này dẫn đến sự mâu thuẫn, xung đột nghiêm trọng giữa nhận thức và thực tế. Một mặt, nó đưa nhận thức tới ngõ cụt bế tắc, bất lực, hoang tưởng, không cắt nghĩa, chỉ đạo được thực tiễn. Mặt khác, nó gây ra sự rối loạn, mất phương hướng, kém hiệu quả trong thực tiễn và tình trạng suy thoái, biến dạng, thoái hóa, biến chất trong thực tế. Điều đó chứng tỏ, lý luận ấy phù hợp với thực tế và do vậy là đúng đắn.
         IV. VỀ TKQĐ LÊN CNXH Ở VIỆT NAM
         1. Đường lối về TKQĐ trước năm 1991
         Xuất phát từ thực tế và nhìn tổng quát, cho đến khi tan rã, sụp đổ, Đông Âu và Liên Xô vẫn chưa vượt qua TKQĐ gián tiếp. Hiện nay Việt Nam còn là nước đang phát triển, chưa hoàn thành CNH, HĐH, trong khi CNTB phương Tây tiếp tục tăng trưởng. Vì thế TKQĐ ở nước ta từ trước đến nay cũng chỉ là gián tiếp.
         Từ khi bắt đầu hình thành với các tổ chức tiền thân cuối những năm 1920 và được thành lập chính thức năm 1930 đến năm 1991, ĐCS Việt Nam đã được ĐCS Liên Xô, Quốc tế Cộng sản và các đảng anh em khác dành cho sự giúp đỡ to lớn, quan trọng về nhiều mặt. Cũng vì vậy, trong nhận thức, quan niệm, quan điểm của Đảng ta về TKQĐ, CNXH, CNCS ở Việt Nam, cũng chịu một số tác động nhất định. Quan niệm coi Liên Xô từ đầu những năm 1930 kết thúc TKQĐ, bước vào CNXH, không thể không ảnh hưởng đến Việt Nam. Từ Hội nghị TW 1 (10/1930) kéo dài đến Hội nghị TW 9 khóa VI (8/1990), Đảng ta luôn xác định Việt Nam tranh thủ sự giúp đỡ của các nước XHCN, thực hiện TKQĐ lên CNXH bỏ qua giai đoạn phát triển TBCN, tức là TKQĐ nửa trực tiếp. Cụ thể là:
         - Luận cương chính trị tại Hội nghị Trung ương lần thứ nhất (10/1930) của Đảng nêu: Đông Dương sẽ nhờ chuyên chính vô sản các nước giúp sức cho mà phát triển, bỏ qua thời kỳ tư bản, tiến thẳng lên con đường XHCN.
         - Luận cương cách mạng Việt Nam tại Đại hội II (2/1951) của Đảng nêu: Dân chủ nhân dân là TKQĐ tiến tới CNXH, TKQĐ ở Việt Nam có điểm xuất phát thấp hơn, nên khó khăn lâu dài hơn Liên Xô, Đông Âu, Trung Quốc; phải sử dụng “tư sản dân tộc, tư bản tư nhân”. Tuy nhiên. vì Liên Xô đã tiến lên CNCS, Đông Âu đã đi vào CNXH, nên khi dựa vào các nước này, TKQĐ ở nước ta không phải qua thời kỳ phát triển TBCN.
         - Báo cáo chính trị tại Đại hội III (9/1960) của Đảng nêu: nhờ quan hệ hợp tác và phân công quốc tế trong phe XHCN đứng đầu là Liên Xô, cho nên khi bước vào TKQĐ miền Bắc nước ta bỏ qua giai đoạn phát triển TBCN.
         - Báo cáo chính trị tại Đại hội IV (12/1976) của Đảng nêu: nhờ sự giúp đỡ của Liên Xô và các nước XHCN, nước ta tiến thẳng lên CNXH, bỏ qua giai đoạn phát triển TBCN.
         - Báo cáo chính trị tại Đại hội V (3/1982) của Đảng nêu: nhờ sự giúp đỡ của Liên Xô và các nước XHCN, nước ta có khả năng tiến lên CNXH bỏ qua giai đoạn phát triển TBCN.
         - Báo cáo chính trị tại Đại hội VI (12/1986), “Đại hội đổi mới” của Đảng đề ra chính sách sử dụng và cải tạo đúng đắn các thành phần kinh tế khác bên cạnh kinh tế XHCN, như: kinh tế tiểu sản xuất hàng hóa; kinh tế tư bản tư nhân; kinh tế tư bản nhà nước; kinh tế tự nhiên, tự cấp, tự túc. Đây chính là một nội dung cơ bản, quan trọng nhất của NEP trong đường lối về TKQĐ gián tiếp. Tuy nhiên Đại hội vẫn nêu rõ: nhờ sự giúp đỡ to lớn và hợp tác toàn diện của Liên Xô, TKQĐ ở nước ta tiến thẳng lên CNXH bỏ qua giai đoạn phát triển TBCN. Tức là, lúc này đường lối chung về TKQĐ vẫn là nửa trực tiếp.
         - Dự thảo lần thứ mười “Cương lĩnh xây dựng đất nước trong TKQĐ” tại Hội nghị TW 9 khóa VI  (8/1990) của Đảng không đề cập đến sự giúp đỡ của Liên Xô và các nước XHCN, nhưng vẫn nêu: Nước ta quá độ lên CNXH bỏ qua giai đoạn phát triển TBCN.
         Như vậy, trong suốt 60 năm (1930-1990) Đảng ta đã đề ra và thực hiện đường lối về TKQĐ lên CNXH là dựa vào Liên Xô và các nước XHCN khác, bỏ qua giai đoạn phát triển TBCN. Từ quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lê-nin, TKQĐ đó không phải là gián tiếp, mà là nửa trực tiếp.
        Tại Đại hội VII (6/1991) của Đảng, Cương lĩnh xây dựng đất nước trong TKQĐ lên CNXH mới chỉ ra: Nước ta quá độ lên CNXH, bỏ qua chế độ tư bản, tức TKQĐ không phải là nửa trực tiếp, mà là gián tiếp. Tiếp theo, Báo cáo của  Bộ Chính trị tại Hội nghị TW 8 khóa VII, ngày 03/01/1995 khẳng định: dù không còn nước XHCN đi trước giúp đỡ, Việt Nam vẫn hoàn toàn có khả năng bỏ qua chế độ tư bản, tiến lên xây dựng CNXH. Đặc biệt, Báo cáo chính trị tại Đại hội IX (4/2001) của Đảng nhấn mạnh: Con đường đi lên của nước ta là sự quá độ lên CNXH bỏ qua chế độ TBCN, tức là bỏ qua việc xác lập vị trí thống trị của QHSX và kiến trúc thượng tầng TBCN, nhưng tiếp thu, kế thừa những thành tựu mà nhân loại đã đạt được dưới chế độ TBCN, đặc biệt về khoa học và công nghệ để phát triển nhanh LLSX, xây dựng nền kinh tế hiện đại. Từ đây, TKQĐ đã được xác định rõ là gián tiếp.
         Từ sự nhận thức đầy đủ lý luận Mác – Lê-nin về TKQĐ, đồng thời xem xét, đánh giá toàn diện, khách quan TKQĐ trong CNXH hiện thực trên thế giới 100 năm qua, có thể xác định các chặng đường chính của TKQĐ ở Việt Nam như sau:
         - 1930 – 1954: Thực hiện đường lối giải phóng dân tộc, gắn với mục tiêu bước vào TKQĐ nửa trực tiếp, trong khi điều kiện khách quan quy định chỉ có thể và cần phải thực hiện đường lối về TKQĐ gián tiếp. 
         - 1954 – 1975: Miền Nam tiếp tục đấu tranh giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước. Miền Bắc được Liên Xô và nhiều nước XHCN giúp đỡ; vừa xây dựng vừa chống chiến tranh phá hoại; thực hiện đường lối về TKQĐ nửa trực tiếp, trong khi cần tiến hành TKQĐ gián tiếp, với sự vận dụng cả hai mô hình NEP và CSCSTC.
         - 1975 – 1986: Cả nước thống nhất; được LX và nhiều nước XHCN giúp đỡ; vẫn còn chiến tranh; phương Tây cấm vận, gây nhiều khó khăn; cần tiến hành TKQĐ gián tiếp, nhưng trên thực tế đường lối về TKQĐ nửa trực tiếp tiếp tục được thực hiện.
         - 1986 – 1990: Bắt đầu vận dụng NEP; Liên Xô và các nước XHCN Đông Âu cắt giảm viện trợ; vẫn còn chiến tranh, cấm vận; cần tiến hành TKQĐ gián tiếp, nhưng vẫn thực hiện đường lối về TKQĐ nửa trực tiếp.
         - Từ Đại hội VII (6/1991) đến nay: Với định hướng “bỏ qua chế độ TBCN”, đã chuyển sang đường lối về TKQĐ gián tiếp. Hội nghị TW 8 khóa VII (01/1995) khẳng định đường lối về TKQĐ gián tiếp trong điều kiện không còn sự giúp đỡ của các nước XHCN. Đại hội IX (4/2001) nêu rõ đường lối về TKQĐ gián tiếp là bỏ qua sự thống trị của QHSX TBCN…
         2. Về TKQĐ ở nước ta hiện nay
         Dưới ngọn cờ độc lập dân tộc gắn với CNXH của ĐCS Việt Nam, từ năm 1930 nhân dân ta đã tiến hành cuộc đấu tranh cách mạng giải phóng dân tộc, thống nhất Tổ quốc, phát triển xã hội, vượt qua những hạn chế của CNTB và các chế độ cũ. Ngày nay nói đến CNXH một cách thực tế, thì phải đề cập tới con đường lên CNXH. Nói đến con đường lên CNXH một cách khoa học, thì phải đề cập tới TKQĐ. Nói đến TKQĐ một cách cụ thể ở nước ta từ các cột mốc lịch sử trọng đại: xác lập nền dân chủ cộng hòa năm 1945, giải phóng miền Bắc năm 1954 và thống nhất Tổ quốc năm 1975 đến nay, thì phải đề cập tới TKQĐ gián tiếp.
         Như vậy, để đạt mục tiêu độc lập dân tộc và CNXH trong tình hình mới hiện nay, cần thực hiện những phương hướng, nhiệm vụ chính sau:
         - Kiên định thực hiện, phát triển sáng tạo đường lối về TKQĐ theo lý luận “phát triển rút ngắn” của Mác – Ăng-ghen, được Lê-nin bổ sung, phát triển, bước đầu triển khai trong lý luận TKQĐ gián tiếpđược Đảng ta chỉ ra tổng quát từ năm 1991, nêu lên rõ ràng, đầy đủ thêm từ năm 2001. Cần nhận thức, giải quyết các vấn đề lý luận chung, cơ bản, các vấn đề lý luận, khoa học chính trị thực tiễn cụ thể trong khung khổ vĩ mô và trong mối liên hệ chặt chẽ, nhất quán với lý luận và đường lối về TKQĐ gián tiếp
         - Lý luận của Mác – Ăng-ghen về TKQĐ trực tiếp, nửa trực tiếp phản ánh chính xác xu hướng hiện thực khách quan của CNTB phương Tây từ nửa cuối thế kỷ XIX, là nó đã chuyển sang giai đoạn quá độ và có khả năng bước vào TKQĐ. Lý luận của Lê-nin về TKQĐ gián tiếp phản ánh đúng một xu hướng  mới, gắn liền và thống nhất với thực tế quá độ và khả năng TKQĐ trực tiếp, nửa trực tiếp. Đó là, trong giai đoạn ĐQCN từ cuối thế kỷ XIX – đầu thế kỷ XX, một nước TBCN riêng biệt, chưa phát triển có thể bước vào TKQĐ gián tiếp. Ngoài ra, từ sau Cách mạng Tháng Mười Nga, trong thời đại quá độ từ Cách mạng Tháng Mười năm 1917, một nước lạc hậu, thuộc địa có thể liên minh với nước Nga Xô-viết, làm cách mạng dân tộc dân chủ, bước vào TKQĐ gián tiếp.
        - Lý luận Mác – Lê-nin về TKQĐ, đặc biệt về TKQĐ gián tiếp cho thấy, xét ở từng nước và về mặt kinh tế, LLSX, KH-KT-CN, thì một nước dù bắt đầu TKQĐ trước nhưng bước vào giai đoạn QĐ sau, có thể chí vẫn thấp hơn nước khác tuy chưa bắt đầu TKQĐ nhưng đã bước vào QĐ trước. Đối với các nước đang ở TKQĐ gián tiếp nói chung, thì đó còn là điều tất nhiên. Cho nên, CNXH hiện thực trên thế giới 100 năm qua, trong một chặng đường dài đầu tiên mà đến nay vẫn chưa kết thúc, về kinh tế sẽ không thể không thấp hơn CNTB, nhất là các nước phương Tây. Tuy nhiên, điều thực sự tích cực, tiến bộ và ưu việt của TKQĐ gián tiếp là có thể “rút ngắn sự phát triển” CNTB. Nó bỏ qua chế độ TBCN, nhưng xây dựng nền kinh tế, LLSX ngang bằng CNTB nhanh chóng, hiệu quả, bền vững, nhân văn hơn so với trong chế độ này.
         - Để phát triển kinh tế, cần vận dụng mô hình NEP khi tình hình chính trị trong nước và quốc tế ổn định, thuận lợi. Nhưng NEP cũng được chính Lê-nin cân nhắc, lượng định thận trọng. Cuối những năm 1920, phải đình chỉ NEP chủ yếu vì tình hình chính trị đối nội và đối ngoại trở nên khó khăn nguy hiểm hơn. Bản thân NEP khi không được điều tiết, điều chỉnh chặt chẽ, hợp lý, cũng đưa đến những hệ lụy phức tạp, tiêu cực. Chẳng hạn, tầng lớp “nepman”, “những người Nga mới”, tức tư sản mới nảy sinh, trở thành nguy cơ với Nhà nước và xã hội Xô-viết. Hoặc từ năm 1988 cuối cải tổ, nhân tố kinh tế tư nhân được nới lỏng, thả nổi đã không thúc đẩy nền kinh tế Xô-viết. Trái lại nó được lợi dụng để thực hiện tư nhân hóa thô bạo, ồ ạt, cướp đoạt trắng trợn tài sản công, chuyển sở hữu nhà nước thành tư hữu tư nhân TBCN.
         - Nhiệm vụ bảo vệ độc lập chủ quyền đất nước; toàn vẹn lãnh thổ, lãnh hải và không vực; lợi ích dân tộc, quốc gia luôn đặt ra quan trọng, cấp bách, thường xuyên. Nguồn lực dành cho quốc phòng, an ninh, bảo vệ biển, đảo lớn hơn nhiều nước khác. Do vậy, mô hình CNCSTC huy động nguồn lực lớn giải quyết những nhiệm vụ chính trị, quân sự, kinh tế khẩn trương, cấp bách, vẫn có ý nghĩa, giá trị trực tiếp, to lớn, thiết thực. CNXH mô hình Xô-viết sụp đổ, không phải do bản thân CSCSTC, hay NEP. Điều đó chủ yếu là do thể chế kinh tế - chính trị cơ bản của CSCSTC là sở hữu nhà nước, đã bị biến dạng thành tư hữu nhóm của một bộ phận cơ hội, xét lại phản động, chống chủ nghĩa Mác – Lê-nin, chống CNXH trong giới lãnh , cầm quyền chóp bu thuộc hệ thống “nomenklatura” (giới quan chức).
         - Vận dụng tư tưởng lý luận, đường lối chính trị của Lê-nin về TKQĐ gián tiếp, cần kết hợp thống nhất, chuyển đổi linh hoạt, hợp lý hai mô hình chính sách chủ yếu trên trong đường lối và thực tiễn tiến hành TKQĐ đó. Đồng thời, phải tiếp tục đổi mới, phát triển chúng phù hợp với điều kiện mọi mặt trong nước và thế giới ngày nay đã biến đổi, cách xa Cách mạng Tháng Mười 100 năm đầy biến động lịch sử. Đó là cách mạng công nghiệp 4.0, hội nhập quốc tế, toàn cầu hóa, chủ nghĩa dân túy, xu hướng đề cao lợi ích quốc gia dân tộc (Anh thực hiện brexit, Mỹ từ bỏ TPP)… Ngoài ra, tuy bản thân CSCSTC, NEP đều là các chính sách kinh tế. Nhưng theo đúng tinh thần, tư tưởng, phương pháp của Lê-nin, thì khi mô hình về chúng được thực hiện, phải xem xét xử lý, giải quyết đồng bộ, hệ thống, hợp lý tất cả các phương diện chính trị, quân sự, xã hội, văn hóa, tư tưởng, đối ngoại, tổ chức, xây dựng Đảng và Nhà nước… của đường lối về TKQĐ gián tiếp.
         - Xem xét, đánh giá khách quan, toàn diện để vừa tham khảo, tiếp thu vừa phê phán, lọc bỏ mô hình CNXH Xô-viết. Bản chất của nó chính là, một mặt loại trừ hoàn toàn NEP, mặt khác tách rời, tuyệt đối hóa CSCSTC thành đường lối về TKQĐ trực tiếp, nhất là đường lối phi quá độ xây dựng, hình thành ngay xã hội XHCN chủ yếu trên hình thức, thiếu nội dung kinh tế - kỹ thuật cơ bản tương xứng. Trong mô hình CNXH hiện thực mới, cần tập trung làm sáng tỏ về lý luận và giải quyết trong thực tiễn những mối quan hệ quan trọng cơ bản, cũng là những khó khăn thách thức lớn nhất ở TKQĐ gián tiếp. Đó là các mối quan hệ giữa phát triển kinh tế TBCN với giữ vững chính trị XHCN, giữa cơ sở hạ tầng bao gồm cả QHSX TBCN với kiến trúc thượng tầng có hệ thống chính trị XHCN là chủ đạo, thống trị; giữa tranh thủ nguồn lực của CNTB với giữ vững độc lập dân tộc, chủ quyền quốc gia, toàn vẹn lãnh thổ, vùng biển, vùng trời và định hướng XHCN./.

         Tài liệu tham khảo:
         1. C.Mác – Ph.Ăng-ghen: Hệ tư tưởng Đức (1845-1846); Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản (1847-1848).
         2. C.Mác: Tư bản. Phê phán khoa kinh tế chính trị (1867); Lời nói đầu. Các bản thảo kinh tế những năm 1857-1859 (1857); Phê phán Cương lĩnh Gô-ta (1875); Những bản dự thảo trả lời thư của V.I.Da-xu-lích (1881); Tuyên ngôn thành lập Hội liên hiệp công nhân quốc tế (1864); Đấu tranh giai cấp ở Pháp 1848-1850 (1850); Thư gửi J.Vây-đơ-mai-ơ (ngày 5-3-1852).
         2. Ph.Ăng-ghen: Những nguyên lý của chủ nghĩa cộng sản (1847); Bàn về vấn đề xã hội ở Nga (1874); Nguồn gốc của gia đình, của sở hữu tư nhân và của nhà nước (1884).
         3. V.I.Lê-nin: Chủ nghĩa đế quốc, giai đoạn tột cùng của CNTB (1916); Báo cáo chính trị của BCHTW tại Đại hội VII ĐCS (b) Nga (1918).
         4. ĐCSVN: Luận cương chính trị (10-1930); Luận cương CM Việt Nam (2-1951); Cương lĩnh xây dựng đất nước trong TKQĐ lên CNXH (6-1991); Văn kiện các Đại hội III (9-1960), IV (12-1976), V (3-1982), VI (12-1986), VII (6-1991), VIII (6-1996), IX (4-2001); Văn kiện HNTW 8 khóa VII (1-1995)./.