Thứ Tư, 22 tháng 7, 2015

CƯƠNG LĨNH ĐẠI HỘI XI ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM VỚI XU THẾ CỦA THỜI ĐẠI



                                                                                   TS. Cao Đức Thái

Từ khi ra đời đến nay (1930-2015), đã gần 3/4 thế kỷ. Đảng ta đã đề ra bốn Cương lĩnh chính trị và đã lãnh đạo, chỉ đạo các lực lượng chính trị của nhân dân Việt Nam giành được nhiều thành tựu có ý nghĩa thời đại. Mỗi Cương lĩnh đều có vài trò lịch sử trọng đại đối với vận mệnh của Dân tộc ta, đồng thơi đã phản ánh đúng đắn nhu cầu của cách mạng gắn với xu thế của thời đại.
Cương lĩnh đầu tiên của Đảng do Chủ tịch Hồ Chí Minh sọan thảo, đó là “Chánh cương vắn tắt và Sách lược vắn tắt” được Hội nghị thành lập Đảng, ngày 3 tháng 2 năm 1930 thông qua. Sau đó, Hội nghị BCHTW lần thứ Nhất họp tại Hương cảng đã kế thừa hai văn kiện trên hình thành “Luận cương chính trị của Đảng”, vào tháng 10 năm 1930.
Thực hiện Chánh cương, Luận  cương, năm 1930 dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam, Dân tộc ta đã thực hiện thắng lợi cuộc Cách mạng Tháng Tám, 1945 giành lại độc lập Dân tộc, chủ quyền quốc gia, xây dựng nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hòa ( nay là nhà nước Cộng hòa XHCN Việt Nam), mở ra thời đại mới cho Dân tộc ta- thời đại độc lập dân tộc gắn với chế độ chính trị do nhân dân làm chủ nhà nước và xã hội. Tiếp đó Đại hội II, năm 1951 đã đề ra “Chính cương Đảng của Lao động Việt Nam” ( nay là Đảng cộng sản Việt Nam). Chánh cương xác định: “nhiệm vụ cơ bản hiện thời của cách mạng là đánh đuổi bọn đế quốc xâm lược làm cho Việt Nam hoàn toàn độc lập thống nhất, xóa bỏ những di tích phong kiến và nửa phong kiến làm cho người cày có ruộng, phát triển chế độ dân chủ nhân dân; gây cơ sở vật chất - kỹ thuật cho chủ nghĩa xã hội”.
Thực hiện Chánh cương này, dưới sự lãnh đạo của Đảng ta, quân, dân ta đã đánh bại cuộc chiến tranh xâm lược của thực dân Pháp, mở đầu cho sự sụp đổ hoàn toàn của chủ nghĩa thực dân cũ. Tiếp đó nhân dân ta đã tiến hành cuộc kháng chiến chống đế quốc Mỹ xâm lược, kẻ thù hung bạo nhất thời đại, bảo vệ độc lập tự do, thống nhất đất nước.
Sau khi đất nước đã thu về một mối, cả nước đi lên CNXH, dưới sự lãnh đạo của Đảng, một lần nữa nhân dân ta lại vượt qua thử thách hiển nghèo. Mô hình xây dựng CNXH kiểu cũ bị sụp đổ tại trung tâm của hệ thống XHCN. Chế độ chính trị ở Liên xô, các nước XHCN ở Đông Âu sụp đổ (1989-1991). Là một quốc gia chưa phát triển, lại vừa trải qua 30 năm chiến tranh, bị Hoa Kỳ bao vây cấm vận, Đảng ta đã vận dụng và phát triển sáng tạo Chủ nghĩa Mác-Lênin, Tư tưởng Hồ Chí Minh, thực hiện công cuộc đổi mới, mở đầu từ  Đại hội VI, năm 1986.  Tại Đại hội VII, 1991 lần đầu tiên Đảng ta đề ra Cương lĩnh xây dựng đất nước trong điều kiện hòa bình. Đó là “Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội”, năm 1991. Đây là Cương lĩnh thứ ba của Đảng ta.
Thực hiện cương lĩnh thứ ba Đảng và nhân dân ta đã một mặt kiên trì mục tiêu và các nguyên tắc của chủ nghĩa xã hội, mặt khác chuyển đổi mô hình xây dựng CNXH kiểu cũ với nhà nước “chuyên chính vô sản”, “kinh tế kế hoạch hóa tập trung quan liêu bao cấp”, sang mô hình xây dựng  CNXH kiểu mới. Về chế độ chính trị, đó là chế độ chính trị, đó là chế độ do “nhân dân lạo động làm chủ” với “nhà nước pháp quyền của nhân dân do nhân dân, vì nhân dân ”; về kinh tế, đó là nền “kinh tế hàng hóa nhiều thành phần”…
Đại hội XI, năm 2011, lại một lần nữa Đảng ta điều chỉnh Cương lĩnh 1991. Cương lĩnh thông quan Đại hội XI là Cương lĩnh thứ tư của Đảng ta. Cương lĩnh này không chỉ tiếp tục khẳng định con đường XHCN, mà đưa vào văn kiện này những nội dung mới phù hợp với những xu thế lớn của thời đại. Đó là xu thế “Hoà bình, độc lập dân tộc, dân chủ, hợp tác và phát triển”. Đồng thời Cương lĩnh cũng chỉ ra những thách thức đang diễn ra gay gắt trên thế giới và khu vực.  Đó là “…chiến tranh cục bộ, xung đột vũ trang, …hoạt động can thiệp, lật đổ, khủng bố, tranh chấp lãnh thổ, biển, đảo, tài nguyên và cạnh tranh quyết liệt về lợi ích kinh tế”.
Thế nhưng thời gian gần đây, nhất là trong không khí Đảng ta đang chuẩn bị cho Đại hội XI vào đầu năm 2016, trên một số mạng xã hội, có cá nhân, thậm chí có những nhóm người dưới những hình thức khác nhau, đưa vào Tuyên bố của tổ chức “Hội”, “ Đoàn” “ độc lập” ( Những tổ chức không được chính quyền cho phép), viết “Thư ngỏ” gửi Lãnh đạo Đảng và Nhà nước, phê phán, nói cho đúng hơn là xuyên tạc Cương lĩnh, Đường lối của Đảng cộng sản Việt Nam. Họ cho rằng: “Công cuộc đổi mới gần ba nươi năm …vẫn giữ nguyên thể chế độc đảng toàn trị kìm hãm tự do, dân chủ và chia rẽ dân tộc”. Đồng thời người ta “kiến nghị” “ thay đổi Cương lĩnh, từ bỏ đường lối sai lầm về xây dựng chủ nghĩa xã hội, chuyển hẳn sang đường lối dân tộc và dân chủ, trọng tâm là chuyển đổi thể chế chính trị từ toàn trị sang dân chủ…”…
Vậy về mặt lý luận và thực tiễn những kiến nghị này ra sao? Và nếu đi theo con đường mà người ta “ gợi ý”, “kiến nghị” thì chế độ xã hội, thành quả cách mạng và độc lập dân tộc, chủ quyền quốc gia và toàn vẹn lãnh thổ của Dân tộc ta sẽ như thế nào?
Trước hết về mặt lý luận và thực tiễn, “ kiến nghị” mà người ta đưa ra, không có gì mới so với Cương lĩnh Đại hội XI và xa lạ với thực tiễn của công cuộc đổi mới trên 30 năm qua của nhân dân ta. Không phủ nhận rằng trong nhiều năm qua, xã hội ta đã tồn tại nhiều vấn đề kinh tế, xã hội chưa được giải quyết, thậm chí là những bức xúc. Chẳng hạn như xu hướng phân hóa giầu nghèo chưa được ngăn chặn và đẩy lùi. Đời sống của một bộ phận nhân dân, nhất là đồng bào ở vùng sâu, vùng xa, công nhân ở nhiều khu công nghiệp còn rất khó khăn; tình trạng suy thoái về tư tưởng, chính trị, đạo đức và lối sống của một bộ phận cán bộ, Đảng viên các cấp dẫn đến làm suy giảm lòng tin của nhân dân. Điều này đã được Đảng ta đã công khai, thẳng thắn thừa nhân và đưa ra các giải pháp khắc phục trong Nghị quyết Hội nghị TW 4 ( khóa XI). Tuy nhiên cho rằng thể chế hiện nay là : “độc đảng toàn trị kìm hãm tự do, dân chủ và chia rẽ dân tộc”,… và kiến nghị  “Thay đổi Cương lĩnh, từ bỏ đường lối sai lầm về xây dựng chủ nghĩa xã hội” chẳng những là xuyên tạc lịch sử, mà còn là một sai lầm nghiêm trọng về tư tưởng, chính trị. Như mọi người đều biết, sở dĩ Việt Nam trụ vững sau sự kiện Liên Xô tan rã…Mỹ bao vây, cấm vận; … đời sống của tuyệt đại đa số nhân dân được cải thiện, chủ quyền quốc gia được giữ vững là nhờ có đường lối chính trị đúng đắn của Đảng ta.
Về tư tưởng, chính trị, kêu gọi thay đổi Cương lĩnh có nghĩa xóa bỏ mục tiêu xây dựng Việt Nam trở thành một xã hội “ … Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”; là xóa bỏ chế độ xã hội do “nhân dân làm chủ” với  “ Nhà Nhà nước pháp … của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân” ( Cương lĩnh 2011). Hơn nữa điều này cũng có nghĩa là xóa bỏ cả quyền con người và quyền công dân được Cương lĩnh 2011 ghi nhận, đặc biệt được quy định tại Chương II Hiến pháp 2013.
 Về kinh tế, kêu gọi xóa bỏ Cương lĩnh cũng có nghĩa là xóa bỏ:Nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa với nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế, hình thức tổ chức kinh doanh và hình thức phân phối...”. Theo quan niệm chung của cộng đồng quốc tế, nền kinh tế của Việt Nam hiện nay là “ nền kinh tế thị trường”, nhất là từ khi Việt Nam trở thành thành viên của WTO.
Về đối ngoại,quốc phòng, kêu gọi xóa bỏ Cương lĩnh cũng có nghĩa là xóa bỏ đường lối “ Đối ngoại độc lập, tự chủ, hoà bình, hợp tác và phát triển; đa phương hoá, đa dạng hoá quan hệ, chủ động và tích cực hội nhập quốc tế…” ; là xóa bỏ đường lối quốc phòng độc lập, tự chủ, đặt lợi ích của Dân tộc lên trên hết, xóa bỏ mục tiêu “ Bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc”, mà Cương lĩnh 2011 đã ghi.
 Thứ hai, nếu đi theo con đường mà người ta kiến nghị: “chuyển hẳn sang đường lối dân tộc và dân chủ, trọng tâm là chuyển đổi thể chế chính trị từ toàn trị sang dân chủ”…đồng thời tham gia liên minh quân sự với những nước lớn làm đối trọng với Trung Quốc thì kịch bản và hậu quả sẽ như thế nào?
Hiện nay trên thế giới đã có nhiều mô hình chuyển đổi thể chế chính trị từ chế độ “ độc tài” sang “ dân chủ”. Tạm thời có thể chia ra những loại sau:
- Thay đổi thể chế “độc tài quân sự”, (tư bản chủ nghĩa);
- Thay đổi thể chế “ độc tài gia đình trị”, (tư bản chủ nghĩa).
Hai hình thức trên có thể thấy đã và đang diễn ra ở khu vực Nam Á.
- Thay đổi thể chế “độc tài Tôn giáo”, (tư bản chủ nghĩa);
- Thay đổi thể chế “độc tài Dân tộc”, (tư bản chủ nghĩa)… tiêu biểu sự kéo dài nhiều thập kỷ chức vụ Tổng thống.
Hai hình thức trên có thể thấy đã và đang diễn ra Trung Đông-Bắc Phi.
Cũng phải nói thêm rằng đằng sau những thay đổi đó là “ kịch bản” có sẵn trong túi của các đại gia phương Tây với ý đồ thâu tóm quyền lực địa- chính trị và các nguồn tài nguyên không tái sinh, đặc biệt là dầu mỏ. Thực tế cho thấy chưa có một mô hình chuyển đổi nào mà không phải trả giá bằng bạo loạn và sự bất ổn dường như không có hồi kết.
- Và cuối cùng là sự thay đổi thể chế “ xã hội XHCN” sang con đường TBCN, mà tiêu biểu là Liên Xô, các nước XHCN Đông Âu là những ví dụ.
 Về khách quan, nếu Việt Nam thay đổi thể chế, xóa bỏ “ Cương lĩnh” đi theo con đường XHCN, thì sẽ diễn ra sự thay đổi thể chế theo mô hình cải tổ của Liên Xô với giai điệu ngọt ngào “ Cải tổ để có nhiều CNXH hơn”. Tất nhiên với Việt Nam thì còn tiềm ẩn những yếu tố, những nguy cơ khác, vẫn đang là một vấn đề địa chính trị “ nóng” ở Biển Đông. Cùng với nguy cơ đó là tham vọng khôi phục lại quyền lực, lợi ích của những lực lượng chính trị, quân sự đã bị cách mạng đánh đổ trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước.
Sau khi Liên Xô sụp đổ, công trình nghiên cứu “Bài học về sự sụp đổ của Đảng cộng sản Liên Xô[1] cho thấy, một trong những nguyên nhân dẫn đến sự sụp đổ là do sự suy thoái về đọa đức, lối sống của đội ngũ cán bộ, đảng viên của Đảng. Từ sự suy thoái này dân đến sự suy thoái tư tưởng, chính trị. Theo công trình nghiên cứu nói trên cho thấy:  “Dưới thời Gorbachev, tầng lớp đặc quyền đã không còn thỏa mãn với việc theo đuổi hưởng thụ cá nhân, mà còn mong muốn chiếm hữu lâu dài mọi đặc quyền hiện có. Thậm chí còn để lại cho con cháu đời sau. Đồng thời, tầng lớp đặc quyền còn phát hiện ra rằng CNXH, lòng tin vào CNCS thường trực nơi cửa miệng và ánh hào quang đảng viên Đảng CS mà họ mang trên mình đã không còn giá trị sử dụng. Họ thấy rằng, những đặc quyền mà họ vốn có phải được thay đổi hình hài và CNTB là chế độ thích hợp nhất để hợp pháp hóa những lợi ích hiện có của họ”.
 Sau khi xóa bỏ chế độ XHCN và vai trò lãnh đạo của Đảng cộng sản thì hệ thống chính trị đã rơi vào tay ai? Dựa trên trên điều tra dư luận xã hội cho thấy: “Sau khi Liên Xô sụp đổ,… (số quan chức mới) biến thành những "quý nhân" của nước Nga. Họ chiếm 75% số quan chức bên cạnh tân tổng thống; 57,1% trong số lãnh tụ những chính đảng mới và 73,4 % trong số những quan chức của chính phủ mới”…vào “Năm 1991, trong số hàng vạn triệu phú ở Moscow, đại bộ phận nguyên là những cán bộ làm việc trong các cơ quan Đảng, chính quyền. Kết quả điều tra tiến hành trong tháng 6 năm đó cho thấy, trong tầng lớp cán bộ cao cấp Liên Xô có tới 76,7 % số người cho rằng nên đi theo con đường tư bản”. Thiết nghĩ đây là một bài học đắt giá cho những ảo tưởng về một xã hội “ Dân tộc, Dân chủ”.
Nếu ai nghĩ rằng, chỉ có chuyển chế độ chính trị thì mới có điều kiện bảo vệ được độc lập dân tộc, chủ quyền Quốc gia, toàn vẹn lãnh thổ thì đó là một ảo tưởng ngây thơ. Từ khi trở thành lực lượng lãnh đạo sự nghiệp xây dựng và bảo vệ đất nước, Đảng cộng sản Việt Nam đã trải nghiệm các quan hệ với hầu hết các nước lớn. Hơn ai hết Việt Nam hiểu rõ những nước lớn đặt vị trí Việt Nam ở đâu trong các quan hệ giữa các nước lớn với nhau và với chính lợi ích của họ. Nếu nghĩ rằng Đảng cộng sản Việt Nam vẫn “ giáo điều” về hệ tư tưởng, vẫn “ hồn nhiên” trước ngôn từ ngoại giao của các chính trị gia nước lớn thì đó là sai lầm. Việt Nam cho rằng các quan hệ “ đối tác” và “ đối tượng” có thể chuyển đổi cho nhau!  Phải đứng trên lợi ích Dân tộc, gắn với chế độ chính trị để sàng lọc các quan hệ quốc tế cơ bản và những quan hệ hợp tác cụ thể. Tất nhiên tư duy chính trị của Đảng cộng sản Việt Nam vẫn được mài sắc dựa trên trên những sự kiện chính trị đã và đang diễn ra gần đây. Đó là điều tất nhiên.
Lãnh đạo Đảng ta đã nhiều lần khẳng định sẽ bảo vệ độc lập dân tộc, chủ quyền quốc gia, toàn vẹn lãnh thổ bằng mọi biện pháp có thể, theo luật pháp quốc tế. Việt Nam không loại bỏ bất cứ quan hệ chính trị, kinh tế, quân sự nào với các quốc gia nếu nó đem lại lợi ích cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
 Bởi vậy có thể nói, Đảng cộng sản Việt Nam với Cương lĩnh 2011 là lực lượng chính trị duy nhất có đủ các điều kiện về tư tưởng, chính trị; về khả năng đoàn kết dân tộc và đoàn kết quôc tế cũng như  năng lực tuy duy chiến lược để xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, bảo vệ thành quả cách mạng trên nửa thế kỷ qua của nhân dân ta.



[1]-Theo Thời nay- Nhân dân điện tử 17-8-2010.

CƯƠNG LĨNH CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM VỚI CON ĐƯỜNG PHÁT TRIỂN CỦA DÂN TỘC TA


                                                                            TS.Cao Đức Thái[1]
Những năm gần đây trong bối cảnh kinh tế, xã hội gặp nhiều khó khăn, đặc biệt là sau khi Trung Quốc hạ đặt giàn khoa HD981 trong vùng đặc quyền kinh tế, thềm lục địa của Việt Nam, đồng thời “ cải tạo”, mở rộng nhiều đảo chìm, đảo nổi xây dựng cơ sở hạ tầng quân sự, dân sự trong hai quần đảo Hoàng Sa và Trường của Việt Nam bất chấp phản đối của Nhà nước ta và cộng đồng quốc tế, một số người đã đưa ra những nhận định, đánh giá thiếu khách quan, công bằng, và trái với lịch sử cách mạng Việt Nam. Chẳng hạn họ cho rằng đường lối xây dựng xã hội XHCN thời kỳ vừa qua “theo mô hình Xô-viết” là “con đường sai lầm”. Họ kiến nghị phải thay đổi Cương lĩnh hiện nay, chuyển “hẳn sang đường lối dân tộc và dân chủ” mà nội dung cơ bản là “chuyển đổi thể chế chính trị từ toàn trị sang dân chủ”. Nói cách khác là xóa bỏ chế độ XHCN, xóa bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng ta chuyển sang mô hình “đa nguyên chính trị, đa đảng đối lập” ngoại nhập.
Dựa trên lịch sử cách mạng Việt Nam trong thế kỷ XX và những xu thế cơ bản của thời đại ngày nay chúng ta thử xem xét những nhận định, đánh giá và kiến nghị nói trên có thể chấp nhận được không?
Trước hết cần nhận thức đúng vị trí địa chính trị Việt Nam và tác động của nó đối với lịch sử nước ta, như thế nào?
Vị trí địa lý không phải là sự lựa chọn đối với mỗi dân tộc. Đó là một trong những nhân tố khách quan có vai trò quan trọng hàng đầu trong sự hình thành và phát triển của mỗi quốc gia. Là quốc gia có vị trí địa lý đặc biệt trong khu vực, Việt Nam là cầu nối trên đất liền giữa phần lớn nhất của lục địa Á, Âu với khu vực Đông Nam Á, đa sắc tộc, giàu tài nguyên; Hoàng Sa, Trường Sa nằm trên tuyến hành lang đường biển thuận tiện đi từ Thái Bình Dương sang Ấn Độ Dương. Cho đến nay con đường biển này luân chuyển tới trên 50% khối lượng hàng hóa của thế giới phân bổ tới các khu vực. Cùng với tài nguyên phong phú, dân số khá lớn… những điều kiện này đã khiến cho Việt Nam trở thành một trong những quốc gia có vị trí địa chính trị quan trọng bậc nhất trong khu vực và trên thế giới. Trong những năm gần đây nhiều cường quốc đã công khai tuyên bố Biển Đông, khu vực Nam Á nằm trong “ lợi ích cốt lõi” của họ.
Trở lại lịch sử thời kỳ phong kiến, nhiều đế quốc hùng mạnh Á, Âu đã từng xâm lược Việt Nam, không ít trường hợp họ đã từng “ mượn đường Việt Nam”, dùng Việt Nam làm bàn đạp để xâm lược các quốc gia Nam Á. Các thế hệ người Việt Nam đã từng phải ứng xử với những tình huống quân sự-ngoại giao phức tạp như vậy là không ít. Trong thế kỷ XX nhiều quốc gia phát triển đã sớm nhận thấy vị trí địa chính trị quan trọng của Việt Nam. Từ những quốc gia xa xôi trên thế giới, thậm chí bên kia đại dương đã “ vươn ” tay tới Việt Nam, mong muốn thiết lập quan hệ ngoại giao với những động cơ chính trị khác nhau. Song chính vì vị trí địa chính trị đó mà dân tộc ta dường như thường xuyên phải đương đầu với các cuộc chiến tranh xâm lược, có rất ít thời gian hòa bình để xây dựng đất nước. Tuy nhiên Dân tộc ta dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam và của Chủ tịch Hồ Chí Minh một mặt đã không ngại đấu tranh, hy sinh xương máu để gữ vững độc lập Dân tộc, chủ quyền quốc gia, toàn vẹn lãnh thổ, mặt khác luôn luôn phát huy trí sáng tạo, “ lấy bất biến, ứng vạn biến” ( Hồ Chí Minh) đề ra chính sách đối ngoại hòa hiếu nhằm “cân bằng” chính trị với các cường quốc để tranh thủ sự ủng hộ quốc tế, chống các đế quốc xâm lược và giữ gìn môi trường hòa bình xây dựng đất nước.
Cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX, ngay sau khi thực dân Pháp thiết lập được sự thống trị của họ họ ở Việt Nam, kế thừa truyền thống yêu nước của các thế hệ trước, nhiều con đường cứu nước dưới ngọn cờ “ Cần Vương” đã diễn ra sôi nổi trên chính trường Việt Nam. Tiêu biểu cho tư tưởng chính trị và phong trào cách mạng Việt Nam đầu thế kỷ XX là hoạt động đầy tâm huyết của các sỹ phu yêu nước. Cụ Phan Bội Châu chủ trương  dựa vào quốc gia “ đồng văn, đồng chủng” Nhật bản dùng bạo lực giàng lại độc lập, thiết lập chế độ quân chủ lập hiến; Cụ Phan Châu Trinh chủ trương “ bất bạo động” thực hiện “ Khai thông dân trí, mở mang dân quyền” đòi thực dân Pháp trả lại độc lập cho Việt Nam và xây dựng chế độ chính trị như các quốc gia phương Tây; Cụ Hoàng Hoa Thám thì chủ trương hoạt động du kích dưới ngọn cờ “Cần Vương” từng bước mở rộng địa bàn cách mạng tiến đến giành lại độc lập dân tộc…nhưng rút cuộc chỉ “ thành nhân” chẳng  “ thành công” như các nhà sử học bình luận. 
Thứ hai, phải chăng đường lối xây dựng xã hội XHCN thời kỳ vừa qua “theo mô hình Xô-viết” là “con đường sai lầm”?
Để trả lời câu hỏi này chúng ta hãy trở về lịch sử, xem xét các Cương lĩnh của Đảng cộng sản Việt Nam, đặc biệt là hai Cương lĩnh trong thời đổi mới có phải đó là “ mô hình Xô Viết” hay không?
Còn nhớ thất bại của phong trào Cần Vương, xây dựng chế độ quân chủ cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX dựa trên tư tưởng phong kiến và con đường      “ mở mang dân trí” lấy tư tưởng dân chủ tư sản làm nền tảng đã không còn thích hợp với xu thế của thời đại.
Thắng lợi của cách mạng Việt Nam trong thế kỷ XX, mở đầu từ Cách mạng Tháng Tám, năm 1945 bắt nguồn từ sự lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam và của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Cũng có thể nói đó là thắng lợi của đường lối chính trị dựa Chủ nghĩa Mác- Lênin của Đảng cộng sản Việt Nam. Đường lối đó đã phản ánh đúng những đòi hỏi bức thiết của Dân tộc và phù hợp với xu thế của thời đại.
Từ khi ra đời đến nay, Đảng cộng sản Việt Nam  đã đề 4 Cương lĩnh chính trị. Mỗi Cương lĩnh đáp ứng đòi hỏi một thời kỳ lịch sử nhất định và đều có vai trò trọng đại đối với vận mệnh của Dân tộc ta.
Cương lĩnh đầu tiên của Đảng do Chủ tịch Hồ Chí Minh soạn thảo, đó là “Chánh cương vắn tắt và Sách lược vắn tắt”. Hai văn kiện này được Hội nghị thành lập Đảng, ngày 3 tháng 2 năm 1930 thông qua. Sau đó, Hội nghị BCHTW Đảng lần thứ Nhất họp tại Hương Cảng kế thừa hình thành “Luận cương chính trị của Đảng” (vào tháng 10 năm 1930). Việc xác định mục tiêu và đường lối cách mạng trong “ Chánh cương vắn tắt”[2] của Đảng ta đã dựa trên những giá trị chung của nhân loại trong đó có độc lập dân tộc và  quyền con người, đồng thời phản ánh đúng xu thế chính trị của của thời đại. Chánh cương đã chỉ rõ sự thống trị của chủ nghĩa đế quốc đã lỗi thời, đồng thời các dân tộc bị áp bức đã có điều kiện đấu tranh giải phóng dân tộc, giải phóng xã hội để đi đến giải phóng con người.
Về mục tiêu cách mạng, Chánh cương viết: Đảng “ chủ trương làm tư sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách mạng để đi tới xã hội cộng sản”. Như vậy mục tiêu cơ bản trước mắt của Đảng ta là làm “tư sản dân quyền cách mạng”. Nội dung của cuộc cách mạng này là: Đánh đổ sự thống trị của chủ nghĩa đế quốc, đồng thời xóa bỏ chế độ thực dân phong kiến đem lại độc lập dân tộc đồng thời đem lại quyền công dân cho mọi người. Đây được xem là tiền đề cho sự phát triển của xã hội trong các giai đoạn tiếp theo.
Về nhiệm vụ của cách mạng, Chánh cương viết: “ Dân chúng được tự do tổ chức; Nam nữ bình quyền; phổ thông giáo dục…”. Những quyền này có thể nói đã thể hiện rõ ràng những tiêu chí tiến bộ mà cộng đồng quốc tế cho đến nay vẫn còn nguyên giá trị.
Thực hiện Chánh cương và Luận cương 1930, các tổ chức xã hội ở Việt Nam đã ra đời. Khác với nhiều quốc gia, dân tộc, Đảng Cộng sản Việt Nam là người thành lập và lãnh đạo các tổ chức chính trị Việt Nam trước khi có nhà nước. Dựa trên quan điểm cách mạng là sự nghiệp của quần chúng, Đảng ta đã chủ trương xây dựng các tổ chức xã hội, thực hiện đoàn kết mọi lực lượng dân tộc và dân chủ trong Mặt trận Dân tộc thống nhất. Vào thời điểm cao trào cách mạng Xô Viết Nghệ Tĩnh, ngày 18-11-1930, Đảng Cộng sản Đông Dương (nay là Đảng Cộng sản Việt Nam) quyết định thành lập Hội phản đế đồng minh-tiền thân của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam. Dưới ảnh hưởng của Đông Dương cộng sản Đảng (tổ chức tiền thân của Đảng CSVN), ngày 28-7-1929, Tổng Công hội đỏ đầu tiên ở miền Bắc Việt Nam ra đời. Đây là tổ chức tiền thân của Công đoàn Việt Nam ngày nay. Ngày 20-10-1930, Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam được thành lập; ngày 26-3-1931, Đoàn thanh niên cộng sản Việt Nam (nay là Đoàn thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh) được thành lập...
Hiếm có một Đảng cộng sản nào đã dựa vào chính các tổ chức xã hội để vận động cách mạng và chính những tổ chức này đã trở thành cơ sở chính trị của Đảng đồng thời là lực lượng cách mạng giành chính quyền và xây dựng nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hòa đầu tiên ở nước ta.
Đi theo con đường cách mạng của Đảng cộng sản Việt Nam, nhân dân ta đã thực hiện thắng lợi cuộc Cách mạng Tháng Tám, 1945, mở ra thời đại mới cho dân tộc ta. Những tư tưởng tiên tiến của thời đại, đặc biệt là tư tưởng về độc lập dân tộc và quyền con người đã được thể hiện sâu sắc trong Tuyên ngôn độc lập do Chủ tịch Hồ Chí Minh soạn thảo và công bố vào ngày 2/9 năm 1945. Tuyên ngôn độc lập có đoạn viết: “Tất cả mọi người đều sinh ra có quyền bình đẳng...” Lời bất hủ ấy ở trong bản Tuyên ngôn Độc lập năm 1776 của nước Mỹ. Suy rộng ra, câu ấy có ý nghĩa là: “tất cả các dân tộc trên thế giới đều sinh ra bình đẳng, dân tộc nào cũng có quyền sống, quyền sung sướng và quyền tự do”[3]. Với nội dung này có thể nói: Tuyên ngôn độc lập 1945 của Việt nam là bản Tuyên ngôn “ kép”: Tuyên ngôn về quyền dân tộc tự quyết và Tuyên  ngôn về quyền con người của dân tộc Việt Nam. Đồng thời cũng có thể xem văn kiện này là Tuyên ngôn nhân quyền của các dân tộc bị áp bức. Bản Hiến Pháp 1946, Hiến pháp đầu tiên của Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hòa không chỉ quy định về chế độ xã hội do nhân dân làm chủ mà còn quy định đầy đủ các quyền công dân và những quyền cơ bản, cốt lõi của quyền con người ở Việt Nam.
Thắng lợi của cuộc cách mạng tháng Tám năm 1945 do Đảng ta lãnh đạo, nhân dân ta đã giành lại độc lập Dân tộc, chủ quyền quốc gia, xây dựng nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hòa ( nay là nhà nước Cộng hòa XHCN Việt Nam). Thắng lợi này  đã mở ra thời đại mới cho Dân tộc ta- thời đại độc lập dân tộc gắn với chế độ chính trị do nhân dân làm chủ nhà nước, xã hội và hội nhập với trào lưu tiến bộ của nhân loại.                                                                                                                        
Cương lĩnh Thứ hai của Đảng ta ( Chính cương Đảng của Lao động Việt Nam) được Đại hội II, năm 1951 thông qua trong điều kiện nhân dân ta đang đẩy mạnh cuộc kháng chiến không cân sức chống thực dân Pháp xâm lược đến thắng lợi. Tuy nhiên Chính cương này không chỉ đề cập tới các nhiệm vụ quân sự, chống thực dân xâm lược mà còn đề cập tới nhiều nội dung về chế độ xã hội theo tinh thần tôn trọng và bảo đảm quyền làm chủ xã hội và nhà nước của nhân dân do Đảng ta lãnh đạo.
Về chế độ chính trị, Chính cương viết: “Chính quyền của nước Việt Nam dân chủ cộng hòa là chính quyền dân chủ của nhân dân nghĩa là của công nhân, nông dân, tiểu tư sản thành thị, tiểu tư sản trí thức, tư sản dân tộc và các thân sĩ (địa chủ) yêu nước và tiến bộ…Nguyên tắc, tổ chức của chính quyền đó là dân chủ tập trung. …Cơ quan chính quyền tối cao toàn quốc là Quốc hội và Hội đồng Chính phủ… Mặt trận dân tộc thống nhất Việt Nam đoàn kết tất cả mọi đảng phái, mọi đoàn thể và mọi thân sĩ yêu nước, không phân biệt giai cấp, chủng tộc tôn giáo, nam nữ để cùng nhau kháng chiến kiến quốc”[4].
Có thể nói chính sách của Đảng Lao động Việt Nam đối với các tôn giáo, các dân tộc thiểu số lúc đó so với nhận thức về nhân quyền hiện nay dường như vẫn còn nguyên giá trị. Chẳng hạn văn kiện viết: “Tôn trọng và bảo vệ quyền tự do tín ngưỡng. Đồng thời nghiêm trị những kẻ lợi dụng tôn giáo mà phản quốc… Các dân tộc sống trên đất Việt Nam đều bình đẳng về quyền lợi và nghĩa vụ, đoàn kết giúp đỡ nhau để kháng chiến và kiến quốc; chống chủ nghĩa đân tộc hẹp hòi, bài trừ mọi hành động gây hằn thù, chia rẽ giữa các dân tộc”[5].
Không phủ nhận rằng sau khi đất nước thu về một mối, cả nước đi lên CNXH, công cuộc xây dựng CNXH ở nước ta theo mô hình CNXH kiểu cũ. Đồng thời Việt Nam còn dựa vào kinh nghiệm xây dựng CNXH của Liên Xô,Trung Quốc. Là một quốc gia đi theo con đường của Chủ nghĩa Mác-Lênin, hướng tới chủ nghĩa xã hội hơn nữa lại vừa trải qua 30 năm chiến tranh, bị đế quốc Mỹ bao vây cấm vận, cùng với những hạn chế về tư duy lý luận, Đảng ta đã phạm phải những sai lầm nhất định về đường lối xây dựng đất nước sau khi Miền Nam được giải phóng. Những sai lầm này đã được Đại hội VI phát hiện và công khai không chỉ trong Đảng mà còn đối với cả xã hội. Đảng ta thừa nhận: “ Đã phạm nhiều sai lầm trong việc xác định mục tiêu và bức đi về xây dựng cơ sở vật chất- kỹ thuật, cải tạo XHCN và quản lý kinh tế”[6].
Đại hội cũng đã chỉ ra nguyên nhân của những sai lầm đó là: “Chưa nhận thức đủ rằng thời kỳ quá độ lên CNXH là một quá trình lịch sử tương đối dài…do tư tưởng chỉ đạo chủ quan, nóng vội, muốn bỏ qua những bước đi cần thiết…nóng vội, muốn xóa bỏ ngay các thành phần kinh tế phi XHCN…”[7] cơ chế “ tập trung quan liêu bao cấp” ra đời trong mô hình cũ của CNXH đã hạn chế tính tích cực của người lao động. Tuy nhiên đứng trước cuộc khủng hoảng, sụp đổ của Liên Xô, các nước XHCN Đông Âu, Đảng ta đã vận dụng và phát triển sáng tạo Chủ nghĩa Mác-Lênin, Tư tưởng Hồ Chí Minh, xây dựng CNXH theo mô hình mới. Công cuộc đổi mới mở đầu từ Đại hội VI, năm 1986, từng bước giúp Việt Nam từ trụ vững đến dần dần đưa đất nước tiến lên. 
Công cuộc xây dựng đất nước theo mô hình mới của CNXH được mở đầu từ Đại hội VI. Mô hình này được thể hiện trong  Cương lĩnh thứ Ba của Đảng thông qua Đại hội VII. Đó là “Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội”, năm 1991. Cương lĩnh này một mặt kiên trì mục tiêu và các nguyên tắc của chủ nghĩa xã hội, mặt khác chuyển đổi mô hình xây dựng CNXH kiểu cũ sang mô hình mới của CNXH.
Những đường nét chính của mô hình cũ của chủ nghĩa xã hội là: Về chính trị- đối nội, nếu như mô hình cũ là xây dựng và duy trì nhà nước “Chuyên chính vô sản”; quan hệ quốc tế chủ yếu “ đóng cửa” trong hệ thống các nước XHCN. Về kinh tế, đó là nền “Kinh tế kế hoạch hóa tập trung quan liêu bao cấp” trong đó các thành phần kinh tế tư nhân, cơ chế thị trường bị xóa bỏ... Từ mô hình cũ đó Đảng ta đã đề ra đường lối xây dựng đất nước theo mô hình mới của CNXH. Trong mô hình đó về chính trị, đó là chế độ xã hội do nhân dân lao động làm chủ; về kinh tế, đó là nền “kinh tế hàng hóa nhiều thành phần” …
Đại hội XI, năm 2011, lại một lần nữa Đảng ta điều chỉnh Cương lĩnh 1991. Đây là Cương lĩnh thứ tư của Đảng ta- “Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, (Bổ sung, phát triển năm 2011)”. Cương lĩnh này không chỉ tiếp tục khẳng định con đường XHCN, mô hình mới về CNXH đồng thời còn được điều chỉnh cụ thể hóa thêm. Cương lĩnh viết:        “ Xã hội xã hội chủ nghĩa mà nhân dân ta xây dựng là một xã hội: Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh; do nhân dân làm chủ có nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và quan hệ sản xuất tiến bộ phù hợp; có nền văn hoá tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; con người có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện; các dân tộc trong cộng đồng Việt Nam bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng và giúp nhau cùng phát triển; có Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân do Đảng Cộng sản lãnh đạo…”[8]. Thích ứng với bối cảnh quốc tế đó Đảng ta chủ trương đẩy mạnh hội nhập quốc tế theo phương châm: Việt Nam muốn “ là bạn, đối tác tin cậy và thành viên có trách nhiệm trong cộng đồng quốc tế”[9]
Trong những định hướng lớn của Cương lĩnh, con người và quyền con người được đặt lên hàng đầu. Cương lĩnh viết: Con người là trung tâm của chiến lược phát triển, đồng thời là chủ thể phát triển. Tôn trọng và bảo vệ quyền con người, gắn quyền con người với quyền và lợi ích của dân tộc, đất nước và quyền làm chủ của nhân dân…
Chính sách xã hội phải: Bảo đảm công bằng, bình đẳng về quyền lợi và nghĩa vụ công dân; kết hợp chặt chẽ, hợp lý phát triển kinh tế với phát triển văn hoá, xã hội, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội ngay trong từng bước và từng chính sách.
Chế độ xã hội có một vai trò đặc biệt quan trọng trong việc bảo đảm quyền con người. Cương lĩnh xác định chế độ ta là chế độ dân chủ XHCN. Cương lĩnh viết: “Dân chủ xã hội chủ nghĩa là bản chất của chế độ ta, vừa là mục tiêu, vừa là động lực của sự phát triển đất nước. Xây dựng và từng bước hoàn thiện nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, bảo đảm dân chủ được thực hiện trong thực tế cuộc sống ở mỗi cấp, trên tất cả các lĩnh vực. Dân chủ gắn liền với kỷ luật, kỷ cương và phải được thể chế hoá bằng pháp luật, được pháp luật bảo đảm. Nhà nước tôn trọng và bảo đảm các quyền con người, quyền công dân; chăm lo hạnh phúc, sự phát triển tự do của mỗi người. Quyền và nghĩa vụ công dân do Hiến pháp và pháp luật quy định. Quyền của công dân không tách rời nghĩa vụ công dân.”[10]
Thể chế hóa Cương lĩnh thứ tư của Đảng, Quốc hội ta đã nghiên cứu, lấy ý kiến rộng rãi các tầng lớp nhân dân, kể cả kiều bào ta ở nước ngoài, xây dựng và thông qua Hiến pháp nước cộng hòa XHCN Việt Nam, 2013. Văn kiện này lần đầu tiên đã giành một chương ( Chương II) quy định về “Quyền con người, quyền và nghĩa vụ công dân”. Trong chương này các nguyên tắc về quyền con người, các quyền dân sự, chính trị, kinh tế, xã hội và văn hóa theo các chuẩn mực quốc tế đã được nội luật hóa đầy đủ. Các nguyen tắc về quyền con người bao gồm:
- Tôn trọng, bảo đảm QCN thuộc trách nhiệm của nhà nước. Hiến pháp quy định: “ 1. Ở nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, các quyền con người, quyền công dân về chính trị, dân sự, kinh tế, văn hóa, xã hội được công nhận, tôn trọng, bảo vệ, bảo đảm theo Hiến pháp và pháp luật” (Điều 14) ;
Nguyên tắc “Hạn chế quyền” được quy định như sau: “ 2. Quyền con người, quyền công dân chỉ có thể bị hạn chế theo quy định của luật trong trường hợp cần thiết vì lý do quốc phòng...” (khoản 2 Điều 14).
Nguyên tắc “ Suy luận vô tội”. Đây là nguyên tắc được xem là tập quán pháp lý quốc tế, thể hiện tính nhân đạo, khoan dung của pháp luật, được quy định như sau:  “ 1. Người bị buộc tội được coi là không có tội cho đến khi được chứng minh theo trình tự luật định và có bản án kết tội của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật.” (Điều 31).
Nguyên tắc xử lý cán bộ công chức vi phạm pháp luật... và người bị các hình phạt trái pháp luật được bồi thường, quy định như sau:  “ 5. Người bị bắt, tạm giữ, tạm giam, khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án trái pháp luật có quyền được bồi thường thiệt hại về vật chất, tinh thần và phục hồi danh dự. Người vi phạm pháp luật trong việc bắt, giam, giữ, khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án gây thiệt hại cho người khác phải bị xử lý theo pháp luật.” (Điều 31).
Tại  kỳ họp thứ 8, khóa  XIII Quốc hội ta đã thông qua Nghị quyết phê chuẩn công ước “Chống tra tấn và các hình thức trừng phạt hay đối xử tàn ác, vô nhân đạo hoặc hạ nhục”, 1984.
Như vậy là, hoàn toàn không có chuyện Đảng cộng sản Việt Nam lãnh đạo sự nghiệp xây dựng đất nước: “theo mô hình Xô-viết” là “con đường sai lầm” như một số người nói. Công bằng mà nói thì đánh giá đó có phần nào có thể chia sẻ được khi chúng ta nói về công cuộc xây dựng đất nước theo mô hình cũ của CNXH trước Đại hội VI, 1986.
Còn việc một số người cho rằng, Đảng ta cần thay đổi Cương lĩnh chuyển “hẳn sang đường lối dân tộc và dân chủ” mà nội dung cơ bản là “chuyển đổi thể chế chính trị từ toàn trị sang dân chủ” là không thể chấp nhận được. Vì: trước hết, điều này hoàn toàn không có ý nghĩa khi Việt Nam đã chuyển sang xây dựng đất nước theo mô hình mới của CNXH. Thứ hai, đó là sự  phủ nhận chế độ xã hội hiện hữu, phủ nhận sự thành quả của cách mạng Việt Nam trong thế kỷ XX.
85 năm qua, dưới sự lãnh đạo của Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng cộng sản Việt Nam, nhân dân ta đã đứng lên giành lại và giữ vững độc lập dân tộc, chủ quyền quốc gia, thống nhất đất nước, bảo vệ vưỡng chắc không gian sinh tồn của dân tộc. Trong điều kiện địa chính trị đặc biệt của đất nước, do những nguyên nhân khách quan và chủ quan Đảng ta đã không tránh khỏi những hạn chế, sai lầm nhất định trong đường lối chính sách, cũng như trong công tác xây dựng Đảng, song Đảng ta luôn luôn là người đại diện cho lợi ích của Dân tộc, hướng tới xây dựng một chế độ xã hội dân chủ, công bằng văn minh, mở cửa, hội nhập với cộng đồng quốc tế phù hợp với xu thế của thời đại. Đây là một thực thế không dễ gì có thể bác bỏ.


[1] -Giảng viên cao cấp, nguyên Viện trưởng Viện nghiên cứu quyền con người Học viện chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh.
[2]- Hồ Chí Minh Toàn tập T3, Nxb CTQG, HN, 1995, Tr 1

[3] - Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, t 4, tr 1

[4] - Theo Báo điện tử Đảng cộng sản Việt Nam, 08:15 | 11/06/2003
[5] - Theo Báo điện tử TL đã dẫn…
[6] - Văn kiện Đại hội VI, NXB ST, HN, 1987, Tr 19
[7] - Văn kiện Đại hội VI, TL Đ D, tr 22

[8]-  Văn kiện Đại hội XI, NXB CTQG, HN, năm 2011, Tr 70
[9] - Văn kiện Đại hội XI, NXB CTQG, HN, năm 2011, Tr 83, 84
[10] - Văn kiện Đại hội XI, TL Đ D, Tr 85.

VỀ THỰC CHẤT, Ý ĐỒ CỦA LUẬN ĐIỂM SAI TRÁI "CHỦ NGHĨA MÁC - LÊNIN, TRƯỚC HẾT LÀ LÝ LUẬN CHỦ NGHĨA XÃ HỘI KHOA HỌC, LÀ SAI LẦM VÀ ĐỐI LẬP VỚI NỘI DUNG ĐÚNG ĐẮN CỦA TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH"




PGS, TS Nguyễn Quốc Phẩm
Học viện CTQG Hồ Chí Minh

Ngay từ khi ra đời (năm 1848) đến nay, CN M-L và chủ nghĩa xã hội khoa học (CNXHKH) đã thường xuyên phải đương đầu với đủ loại luận điểm tinh vi, thâm độc nhằm xuyên tạc phủ nhận từ các thế lực thù địch, chống đối.
Cách mạng XHCN thế giới đã trải qua nhiều bước thăng trầm với những dấu mốc khó phai mờ trong lịch sử: năm 1871: Công xã Pa-ri - cuộc cách mạng vô sản đầu tiên bùng nổ thắng lợi rồi bị dìm trong bể máu; năm 1917 cuộc cách mạng XHCN tháng X Nga làm "rung chuyển thế giới", CNXH hiện thực ra đời từ đó; từ 1945 sau chiến tranh thế giới lần thứ hai kết thúc, một hệ thống các nước XHCN thế giới ra đời đối trọng với hệ thống TBCN; năm 1991, chế độ XHCN ở Liên Xô và Đông Âu đổ vỡ sau thời kỳ khủng hoảng. Từ cuối những năm 80 của thế kỷ XX đến nay, nhiều quốc gia dân tộc đã cải cách, đổi mới vừa bảo đảm định hướng XHCN, vừa đạt được những thành tựu to lớn có ý nghĩa lịch sử, tạo điều kiện để CNXH hiện thực vượt qua khủng hoảng, khôi phục và tiếp tục khẳng định một xu thế phát triển: theo quy luật tiến hóa của lịch sử loài người nhất định sẽ tiến tới CNXH!
CN M-L, CNXHKH từ lý luận đã được hiện thực hóa trong thực tiễn, dù hiện tại còn đang thời kỳ vượt qua khủng hoảng để khôi phục và phát triển. Cũng chính bởi vậy, hệ thống lý luận này đang phải tự khẳng định, tự bảo vệ trước đủ loại âm mưu, thủ đoạn xảo trá, nhằm phủ nhận nó. Đặc biệt, từ năm 1991 đến nay, những thế lực chống đối, thù địch đã nhiều lần tuyên bố: CN M-L, CNXHKH đã kết thúc lịch sử rồi (!).
Phủ nhận công khai, xem ra đã nhàm chán, những kẻ đối lập thù địch với CN M-L, CNXHKH đã và đang tìm nhiều phương kế khác, tinh vi thâm độc hơn. Một trong những phương kế đó ở Việt Nam hiện nay là đối lập giữa CN M-L, CNXHKH, với tư tưởng Hồ Chí Minh - tư tưởng của người anh hùng giải phóng dân tộc, nhà văn hóa lỗi lạc của đất nước, dân tộc.
Một trong những luận điểm mà gần đây đã và đang được tung ra để phủ nhận CN M-L, CNXHKH đó là: CN M-L, trước hết là lý luận chủ nghĩa xã hội khoa học là sai lầm và đối lập với nội dung đúng đắn của tư tưởng Hồ Chí Minh (!).
Thực chất của luận điểm, ý đồ của những "tác giả" của nó là gì? Đó là những điều cần phải vạch trần nhằm kiên định với quan điểm của ĐCSVN: Đảng lấy CN M-L và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam cho mọi hành động làm rõ hơn mối quan hệ biện chứng giữa CN M-L và tư tưởng Hồ Chí Minh. Chính bản thân CN M-L là một trong những nguồn gốc cơ bản nhất để hình thành nên tư tưởng Hồ Chí Minh.
Trước hết, cần vạch rõ thực chất của cái luận điểm sai trái, mang tính chụp mũ khi đối lập CN M-L, lý luận CNXHKH với nội dung đúng đắn của tư tưởng Hồ Chí Minh
Thực tiễn cách mạng thế giới và cách mạng Việt Nam ngày càng chứng minh tính sinh động, phản ánh bản chất khoa học và cách mạng của CN M-L. Với nhiều nguyên lý mang giá trị phương pháp luận bền vững, thể hiện các quan điểm biện chứng, lịch sử - cụ thể và quan điểm phát triển đã làm cho CN M-L trở thành cơ sở lý luận và phương pháp luận soi đường cho giai cấp công nhân, các Đảng Cộng sản và Đảng Công nhân trên thế giới xác định đúng con đường cách mạng nhằm giải phóng giai cấp, giải phóng xã hội, giải phóng con người khỏi mọi áp bức bất công.
Luận điểm nổi tiếng của C. Mác và Ph.Ăngghen nêu trong Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản (1848): "Thay cho xã hội tư bản cũ, với những giai cấp và đối kháng giai cấp của nó, sẽ xuất hiện một liên hợp, trong đó sự phát triển tự do của mỗi người là điều kiện cho sự phát triển tự do của tất cả mọi người"1 đã phản ánh bản chất nhân đạo, nhân văn của học thuyết Mác về CNXHKH.
CN M-L trở thành nền tảng tư tưởng, vũ khí tư tưởng sắc bén cho giai cấp công nhân và nhân dân lao động cần lao tiến hành, cách mạng do Đảng Cộng sản lãnh đạo nhằm lật đổ chủ nghĩa tư bản - một xã hội vẫn dựa trên chế độ áp bức, bóc lột, bất công, bất bình đẳng, đã và đang kìm hãm nhân loại tiến tới một xã hội văn minh.
CN M-L với những phát kiến vĩ đại: quan niệm duy vật về lịch sử quy luật bóc lột, giá trị thặng dư - quy luật kinh tế cơ bản của CNTB và sứ mệnh lịch sử toàn thế giới của giai cấp công nhân, giai cấp có khả năng tổ chức, lãnh đạo cách mạng dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản nhằm cải biến CNTB thành CNXH đã giúp cho học thuyết này cân đối, hoàn thiện, thành cơ sở lý luận tiên phong soi đường cho giai cấp công nhân và nhân dân lao động thế giới xóa bỏ chế độ TBCN xây dựng CNXH và CNCS.
Bản thân CN M-L chính là học thuyết của đấu tranh giai cấp của giai cấp công nhân nhằm giải phóng giai cấp, giải phóng xã hội, giải phóng con người.
Chính bởi từ những cống hiến có bước ngoặt lịch sử của những nguyên lý của C. Mác và Ph.Ăngghen, V.I.Lênin đã có công lao lớn trong việc bảo vệ và bổ sung, cụ thể hóa những nguyên lý, lý luận trong điều kiện mới, đã biến CNXHKH thành hiện thực ở nước Nga Xô viết sau cuộc cách mạng XHCN tháng X thắng lợi.
CN M-L, CNXHKH có sức sống, sức chiến đấu nhờ tính sinh động, phát triển thường xuyên, phản ánh đúng quy luật phát triển xã hội loài người như một quá trình tất yếu lịch sử - tự nhiên. Quan điểm duy vật biện chứng và duy vật lịch sử mãi mãi có giá trị bền vững, trang bị cho giai cấp công nhân, nhân dân lao động một thế giới quan khoa học, một nhân sinh quan cách mạng, nhân đạo, nhân văn.
Mặc dù CNXH hiện thực thế giới từ những năm 90 của thế kỷ XX đến nay đang ở bước thoái trào song trong cùng thời gian đó, dư luận phương Tây vẫn bình chọn C.Mác là nhà tư tưởng có ảnh hưởng số một vào sự phát triển xã hội loài người của thế kỷ XX!
Bản chân CNTB hiện đại cũng rơi vào khủng hoảng (trước hết là khủng hoảng tài chính) trong điều kiện hiện nay càng cho thấy mặt trái của chế độ TBCN đối với phát triển của văn minh nhân loại. Không phải ngẫu nhiên mà học giả nổi tiếng của nước Pháp, Giắc-cơ Đê-ri-đa gần đây đã phê phán CNTB một xã hội đầy "ung nhọt", những "vết loét" từ bên trong và kêu gọi thế giới hãy quay về với C.Mác và học thuyết Mác.
Cũng gần đây, học giả Terry Eagleton, Giáo sư trường Đại học Tổng hợp Lancaste Vương quốc Anh đã viết cuốn sách Tại sao Mác đúng?, với sự đóng góp ý kiến của Alex Calinices, Philip Carperter, Ellen Meiksins Wood - là các Giáo sư chính trị của Anh - Mỹ. Cuốn sách đã được trường Đại học Tổng hợp Yale, một Đại học danh tiếng của Mỹ lựa chọn xuất bản vào đầu năm 2011.
Cuốn sách đã đón nhận nhiều bình luận, đánh giá khác nhau. Trong đó, rất nhiều người hoan nghênh, ủng hộ T.Eagleton. Tờ Financial Times ra ngày 27/5/2011 đã cho rằng: cuốn sách xứng đáng là ứng viên giải Nobel kinh tế vì đã "làm sống lại Mác" và khẳng định: "Cách tiếp cận của Mác là cách xem xét tốt nhất đối với chủ nghĩa tư bản"1. Tạp chí Socialist Review số ra tháng 6/2011 viết: "Cuốn sách này rõ ràng nhằm tới những người đầu tiên tiếp cận sâu những tư tưởng của Mác… Nhưng cuốn sách nhỏ này giúp trang bị cho những người xã hội chủ nghĩa thế hệ mới những tư tưởng cần thiết để giành thắng lợi trong trận chiến sắp tới"1.
Ở một bài bình luận đăng trên www.Socialistalternative.org viết: "Cuốn sách ra đời rất đúng lúc khi người ta đang phê phán chủ nghĩa Mác là "lạc hậu" và "không phù hợp", không thể gắn nó với những vấn đề kinh tế và chính trị đương đại. T. Eagleton đã đưa ra sự điều chỉnh rất cần thiết cho quan điểm thiếu hiểu biết này"2.
Rất nhiều luận điểm có giá trị trong cuốn sách đủ dẫn chứng để đập tan cái luận điểm cho rằng CN M-L là sai lầm. Chỉ nêu một luận điểm của T. Eagleton: "Vậy điều gì đã xảy ra nếu như không phải chủ nghĩa Mác lỗi thời mà chính chủ nghĩa tư bản đã lỗi thời?... C.Mác coi xã hội tư bản đầy những thứ hão huyền, hoang đường và sùng bái, cho dù nó tự hào nhiều về tính hiện đại của mình. Chính sự khai sáng của chủ nghĩa tư bản - niềm tin đầy tự mãn về tính hợp lý vượt trội của nó - cũng chỉ là một thứ mê tín. Nếu chủ nghĩa tư bản có thể có những tiến bộ đáng kinh ngạc nào nó, thì sẽ có một cảm nhận khác rằng chẳng qua nó buộc phải cố hết sức chỉ đề tồn tại. C.Mác từng nhận xét rằng giới hạn cuối cùng của chủ nghĩa tư bản chính là tư bản, mà quá trình tái sản xuất không ngừng của tư bản là ranh giới mà chủ nghĩa tư bản không thể vượt qua"3.
Ở Mỹ, Nouriel Roubini - Giáo sư kinh tế của Đại học New York đã viết trên tờ Project Syndicale (15/8/2011): "Có vẻ như C.Mác đã đúng phần nào khi lập luận rằng: quá trình toàn cầu hóa, hoạt động trung gian tài chính đã vượt ra khỏi tầm kiểm soát, và sự tái phân phối thu nhập và của cải từ giới lao động sang giới tư bản có thể đưa chủ nghĩa tư bản tới tình trạng tự hủy diệt"4.
Những học giả của các nước phương Tây ngày nay đã và đang khẳng định sức sống và giá trị bền vững của những nguyên lý lý luận trong học thuyết Mác.
Ở nước Nga, hiện nay - sau khi Liên Xô XHCN đổ vỡ, dư luận và các học giả Nga đã bình tĩnh xem xét lại quá trình vận dụng ý luận mác xít về CNXH của V.I.Lênin, chỉ rõ sai lầm từ việc vận dụng một mô hình máy móc, giáo điều sau Lênin: chủ nghĩa xã hội kiểu Xô viết - CNXH kiểu Xtalin, chứ hoàn toàn không phải học thuyết Mác - Lênin về CNXH là sai lầm, là lạc hậu, lỗi thời!.
Rất nhiều học giả đều đánh giá, tìm đúng các nguyên nhân dẫn đến đổ vỡ chế độ XHCN ở Liên Xô và Đông Âu. Chỉ xin nêu một vài luận điểm của học giả V.S. Semenốp trong công trình Chủ nghĩa Mác trong hiện thực và những bài học về sự phát triển của nó sau một thế kỷ rưỡi: "… Bản thân V.I.Lênin đã coi mình giản đơn chỉ là người kế tục C. Mác và Ph.Ăngghen, là người mác xít, người vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác trong thực tiễn, người phát triển chủ nghĩa Mác trên cơ sở thực tiễn hiện thực và cụ thể, cũng là điều mà C. Mác và Ph.Ăngghen đòi hỏi.
Người ta nói một cách có căn cứ về chủ nghĩa Mác thể hiện trong chủ nghĩa Lênin, bởi vì Lênin đã đưa vào chủ nghĩa Mác nhiều điều sáng tạo, đổi mới, bổ sung, mở rộng và làm sâu sắc thêm, làm cho chủ nghĩa Mác phù hợp với những yêu cầu của thời đại và trên cơ sở khái quát những kinh nghiệm mới cực kỳ đồ sộ mang tính cách mạng và thực tiễn xã hội chủ nghĩa"1.
Hầu hết các học giả Nga khi tranh luận về CNXH đều đánh giá cao bản chất khoa học và cách mạng của CN M-L và CNXHKH. Từ đó, chỉ ra những nguyên nhân trực tiếp dẫn đến khủng hoảng, đổ vỡ chế độ XHCN ở Liên Xô và Đông Âu. Một trong những nguyên nhân chủ yếu nhất là các Đảng Cộng sản, đứng đầu là Đảng Cộng sản Liên Xô đã hoặc tuyệt đối hóa mô hình chủ nghĩa xã hội Xô viết áp đặt hoặc từng bước xa rời những nguyên lý của CN M-L về CNXH, xây dựng CNXH, đặc biệt là các nguyên tắc xây dựng Đảng kiểu mới, biến Đảng Cộng sản thành một tổ chức cực quyền.
Thời gian càng lùi xa, thực tiễn thành công và thất bại của cách mạng XHCN thế giới càng chứng minh giá trị bền vững cả CN M-L do CNXH, CNCS, tức giá trị khoa học và cách mạng của bản thân CNXHKH mà C. Mác và Ph.Ăngghen khởi xướng, V.I.Lênin đã bảo vệ, bổ sung, phát triển trong điều kiện mới, từ thực tiễn của nước Nga đương thời.
Đánh giá, thẩm định một học thuyết, một hệ thống lý luận là đánh giá, thẩm đỉnh những giá trị khái quát lý luận từ tổng kết thực tiễn ở tính khoa học, tính thực tiễn và cách mạng chứ không chỉ là theo định kiến: hoặc sùng bái đến mức thần thánh hóa, hoặc phủ nhận một cách hồ đồ, vô căn cứ.
Phủ nhận CN M-L, phủ nhận lý luận CNXHKH bằng định kiến, ngụy biện, chụp mũ đó là thực chất của cái luận điểm gọi là…"chủ nghĩa Mác, trước hết là lý luận chủ nghĩa xã hội khoa học là sai lầm".
Không những thế, vì e sợ không thuyết phục được ai, những kẻ nhân danh là môn đưệ của Hồ Chí Minh, luôn ca ngợi tư tưởng Hồ Chí Minh đã dấn sâu thâm một bước rằng: chủ nghĩa Mác, CNKHXH là "đối lập với nội dung đúng đắn của tư tưởng Hồ Chí Minh"(!). Lại một phương thức chụp mũ tinh vi, xảo quyệt núp dưới bóng tư tưởng Hồ Chí Minh.
Thực chất của vấn đề, trước hết hãy bằng thực tiễn cách mạng Việt Nam từ quá trình việc tìm đường và bắt gặp CN M-L, từ đó vận dụng và phát triển sáng tạo CN M-L vào điều kiện cụ thể của Việt Nam của Chủ tịch Hồ Chí Minh, đưa cách mạng Việt Nam thoát khỏi tình trạng khủng hoảng về đường lối cách mạng, từng bước giành thắng lợi to lớn trong cách mạng giải phóng dân tộc, giành độc lập dân tộc, thống nhất đất nước rồi đưa cả nước vững bước đi lên CNXH. Thành quả đó trên con đường cách mạng của Hồ Chí Minh cũng chính là thành quả của tư tưởng Hồ Chí Minh đối với cách mạng Việt Nam mà tư tưởng cốt lõi nhất là: Con đường cách mạng Việt Nam phải đi theo cách mạng vô sản, với hệ tư tưởng Mác - Lênin dẫn dắt; độc lập dân tộc gắn bó hữu cơ với CNXH.
Ai đã thấm nhuần tư tưởng Hồ Chí Minh đều thấm thía sâu sắc ý nghĩa to lớn, bước ngoặt của việc Chủ tịch Hồ Chí Minh sau nhiều năm bôn ba khắp bốn phương trời Âu, Phi, Mỹ, Á, trở về nước Pháp (1920) mới bắt gặp được con đường cứu nước khi tiếp cận tư tưởng Mác - Lênin, trước hết là từ quan điểm của V.I.Lênin trong Luận cương các vấn đề về dân tộc và thuộc địa. Ai đã từng nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh thì đều không thể không ghi nhận những tình cảm, sự trân trọng và niềm tin của Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh vào CN M-L… Một học sinh phổ thông cũng vẫn thuộc câu nói - khái quát lý luận giản dị, sinh động của Nguyễn Ái Quốc về CN M-L: bây giờ học thuyết, nhiều chủ nghĩa nhiều nhưng đúng đắn nhất, chắc chắn nhất là chủ nghĩa Lênin.
Suốt cả cuộc đời mình, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã lấy CN M-L làm cẩm nang tư tưởng, đồng thời đánh giá đúng chân giá trị của học thuyết đó ở tinh thần cốt lõi nhất: phép biện chứng duy vật và quan điểm duy vật lịch sử - đó là tinh túy, là hồn cốt của CN M-L, kết tinh thành thế giới quan và phương pháp luận cho giai cấp công nhân, các Đảng Cộng sản, Đảng Công nhân có lập trường, quan điểm vững vàng trong cuộc trường chinh cách mạng nhằm xóa bỏ áp bức, bóc lột, bất công, giải phóng giai cấp, giải phóng xã hội, giải phóng con người. Ở Việt Nam cuộc phóng đó phải bắt đầu từ giải phóng dân tộc khỏi ách thực dân, đế quốc…
Hơn ai hết, Hồ Chí Minh thấm nhuần tư tưởng nhân văn, vì con người, do con người, cho con người trong lý luận CNXHKH - bộ phận cấu thành mật thiết của CN M-L, phản ánh mục đích, nội dung của tư tưởng Mác - Lênin.
Chỉ xin dẫn một ví dụ nhỏ, một lời căn dặn chân tình của Chủ tịch Hồ Chí Minh đối với cán bộ, đảng viên trong lớp Huấn luyện đảng viên mới do Thành ủy Hà Nội tổ chức ngày 14 tháng 8 năm 1966 về chủ nghĩa xã hội khoa học: "… Muốn có lập trường vô sản vững chắc, thì đảng viên phải có ý thức giai cấp đồng thời phải có lý luận cách mạng. Không có lý luận về chủ nghĩa xã hội khoa học thì không thể có lập trường giai cấp vững vàng. Vì vậy, các cô, các chú phải chịu khó học tập lý luận Mác - Lênin, học tập đường lối, chính sách của Đảng; đồng thời phải học tập văn hóa, kỹ thuật và nghiệp vụ"1.
CN M-L, CNXHKH luôn luôn là ngọn cờ tư tưởng, nền tảng tư tưởng để từ đó Chủ tịch Hồ Chí Minh xây dựng, hoàn thiện nên tư tưởng Hồ Chí Minh về lý luận và cách mạng Việt Nam.
Điều này là một thực tế hiển nhiên không ai có thể phủ nhận hoặc xuyên tạc hồ đồ!
ĐCSVN khi khẳng định bản chất khoa học và cách mạng của CN M-L, của CNXHKH, đồng thời đã khẳng định thực chất của tư tưởng Hồ Chí Minh: "Tư tưởng Hồ Chí Minh là một hệ thống quan điểm toàn diện và sâu sắc về những vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam, là kết quả của sự vận dụng và phát triển sáng tạo CN M-L vào điều kiện cụ thể của nước ta, kế thừa và phát triển các giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại. Đó là tư tưởng về giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp , giải phóng con người; về độc lập dân tộc… gắn liền với chủ nghĩa xã hội, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh của thời đại; về sức mạnh của nhân dân, của khối đại đoàn kết dân tộc; về quyền làm chủ của nhân dân; xây dựng Nhà nước thật sự của dân, do dân, vì dân, về quốc phòng toàn dân, xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân; về phát triển kinh tế và văn hóa, không ngừng nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân,; về đạo đức cách mạng, cần, kiệm, liêm chính, chí công vô tư; về chăm lo bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho đời sau; về xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh, cán bộ, đảng viên vừa là người lãnh đạo, vừa là người đầy tớ trung thành của nhân dân…"1.
Xin hỏi ai đó lớn tiếng vu cáo sự đối lập giữa CN M-L, CNXHKH với nội dung đúng đắn của tư tưởng Hồ Chí Minh thì đối lập ở đâu? nội dung gì là đối lập? hãy chỉ ra xem có thuyết phục được ai không? phải chăng do quá run sợ trước sức sống, tính chiến đấu của CN M-L và quá mơ hồ về tư tưởng Hồ Chí Minh mà nêu lên luận điểm xằng bậy về đối lập…?
Sự thuyết phục của mỗi luận điểm nào đó, trước hết phải thuyết phục có luận cứ có thực tiễn chứ không thể chỉ là thái độ xáo trá, hằn học "đánh lận con đen" được!
Thực chất của cái luận điểm "CN M-L, trước hết là chủ nghĩa xã hội khoa học là sai lầm và đối lập với nội dung đúng đắn của tư tưởng Hồ Chí Minh" là sự xuyên tạc, vu cáo trắng trợn, hồ đồ, bất chấp cả lý luận và thực tiễn nhằm phủ nhận CN M-L, đồng thời tuyệt đối hóa tư tưởng Hồ Chí Minh để phủ nhận gián tiếp cả tư tưởng Hồ Chí Minh.
Quan điểm xuyên tạc đó về thực chất đã được phơi bày! Vấn đề còn phải vạch trần ý đồ xảo trá, đầy tinh vi, đầy "nghệ thuật" của tác giả của nó:
Thứ nhất, nhằm tiếp tục cái luận điểm cũ rích, xuyên tạc, phủ nhận CN M-L, CNXHKH coi đó "là sự sai lầm, lỗi thời, đã kết thúc lịch sử" (!).
Thứ hai, dùng mánh khóe đề cao, tôn sùng sự đúng đắn của tư tưởng Hồ Chí Minh để đối lập CN M-L, CNXHKH với nội dung đúng đắn của tư tưởng Hồ Chí Minh nhằm dễ bề lôi cuốn, thuyết phục những ai ngây thơ về chính trị hoặc cơ hội, bất mãn với chế độ; phủ nhận trực tiếp CN M-L và phủ nhận gián tiếp cả tư tưởng Hồ Chí Minh thông qua phủ nhận nguồn gốc cơ bản hình thành nên tư tưởng Hồ Chí Minh.
Thứ ba, sâu xa và trực tiếp nhất là phủ nhận quan điểm nhất quán của ĐCSVN: "… Đảng lấy CN M-L và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động, lấy tập trung dân chủ là nguyên tắc tổ chức cơ bản"1.
Thứ tư, từ việc phủ nhận CN M-L, CNXHKH và gián tiếp phủ nhận tư tưởng Hồ Chí Minh với ý đồ xâu xa là gây hoang mang, nghi ngờ, dao động đối với cán bộ, đảng viên và nhân dân về định hướng XHCN ở Việt Nam hiện nay, làm lu mờ vai trò uy tín của ĐCSVN, làm suy giảm niềm tin của nhân dân vào Đảng và chế độ.
Thứ năm, gián tiếp tuyên truyền cho tư tưởng phi mác xít, phản mác xít, kích động, chia rẽ đoàn kết nội bộ, trước hết là tuyên truyền các tư tưởng sai trái thù địch đối với CNXH, làm băng hoại tư tưởng, niềm tin của nhân dân vào tương lai, tiền đồ của CNXH mà nhân dân ta đang xây dựng, bảo vệ, trên cơ sở kiên định với CN M-L, tư tưởng Hồ Chí Minh, thường xuyên vận dụng, phát triển sáng tạo CN M-L, tư tưởng Hồ Chí Minh về CNXH và xây dựng CNXH trong điều kiện mới ở Việt Nam./.









1 C. Mác và Ph.Ăngghen: Toàn tập, Nxb CTQG, H.2002, T4, tr 628.
1 Terry Eagleton: Tại sao Mác đúng? Nxb Chính trị Hành chính, H.2014, tr 5.
1 Terry Eagleton: Tại sao Mác đúng? Nxb Chính trị Hành chính, H.2014, tr 5.
2 Terry Eagleton: Tại sao Mác đúng? Sđd , tr  6.
3 Terry Eagleton: Tại sao Mác đúng? Sđd , tr 36 - 37
4 Xem Thông tin những vấn đề lý luận (phục vụ lãnh đạo), số 12/2014, tr 21.
1 Những tranh luận mới của các học giả Nga về chủ nghĩa xã hội, Nxb CTQG. H.2013, tr 109.
1 Hồ Chí Minh, Toàn tập, Nxb CTQG, H.2001, tập 12, tr 92.
1 ĐCSVN: Văn kiện Đại hội Đảng thời kỳ đổi mới, Nxb CTQG, H. 2005, tr 633.
1 ĐCSVN: Văn kiện Đại hội Đảng thời kỳ đổi mới, Sđd, tr 329.