Thứ Ba, 1 tháng 9, 2015

@ LẠI THÊM MỘT KẺ HÚC ĐẦU VÀO ĐÁ.




Đoan Hùng
          “Húc đầu vào đá” là thành ngữ chỉ những kẻ không biết mình là ai, nghĩ rằng có thể đánh đổ được những lực lượng vật chất hoạc tinh thần lớn lao. Điều này cũng đồng nghĩa với việc tự sát về thể chất hoặc về tư tưởng chính trị, uy tín    ( nếu có) của kẻ đó. Tương tự như vậy người ta còn dùng khái niệm “Nói láo”,       “ trẻ ranh biết gì mà nói”… là ngôn ngữ đời thường khi bố mẹ bực tức chửi con cái khi nó vô lễ với người trên. Trong chính trị cũng có kẻ húc đầu vào đá và cũng có những “trẻ ranh” xúc phạm đến vĩ nhân của Dân tộc và nhân loại. Đây là câu chuyện của Hà Huy Toàn (HHT) mới gửi bài viết về Chủ nghĩa Mác cho trang “Dân luận”- được xem là trang chống Cộng có “ uy tín”…Không hiểu HHT đã đọc trực tiếp được mấy trang của Mác mà Y khẳng định như đinh đón cột rằng:
          “Nhìn nhận Chủ nghĩa Marx bằng triết học khoa học sẽ cho phép người ta thấy được Chủ nghĩa Marx có quá nhiều khuyết tật nghiêm trọng”;
“K. Marx không hề biết bản tính vị kỷ vừa tồn tại xuyên không gian vừa tồn tại vượt thời gian làm động lực tuyệt đối cho toàn bộ lịch sử đòi hỏi xã hội phải được tổ chức theo chính thể dân chủ mới có thể giải phóng được mọi cá nhân khỏi sự áp bức bóc lột để nhân loại phải biết sống theo đạo đức vốn cũng phải tồn tại cố định theo bản tính vị kỷ làm cho bản tính vị kỷ trở thành bản tính tốt đẹp... Đó chính là nguyên nhân sâu xa dẫn đến nhiều tai họa lớn cho bất cứ cộng đồng nào áp dụng Chủ nghĩa Marx”.
Đọc mấy dòng trên người ta thấy HHT đang muốn xây dựng một học thuyết phát triển dựa trên “ thể chế dân chủ”. Đây là một ảo tưởng không đáng thương.
 Quy luật- đời sống “ vật chất”, “ hạ tầng cơ sở” trong đó có các hoạt động kinh tế quyết định hoạt động tinh thần ( như Pháp luật, văn hóa nghệ thuật, tôn giáo…) đã được các nhà tư tưởng lớn, tất nhiên có Marx khẳng định đã trở thành một định đề trong khoa học triết học nói riêng, trong khoa học xã hội- nhân văn nói chung.
          Còn “bản tính vị kỷ” thì được HHT tôn lên là “cái động lực phát triển của xã hội…” là điều ngớ ngẩn nếu không nói là HHT có vấn đề về tâm thần, mặc dù HHTcó nói rằng cái tính vị kỷ này đẻ ra thể chế dân chủ. Thiết nghĩ trong thời đại thông tin ngày nay thời gian là quý báu nên người viết mấy dòng comment này xin không trích dẫn HHT nữa.
          Trong cái gọi là “Tiểu luận” của HHT người ta không thấy Y trực tiếp trích một dòng nào của Marx mà chỉ Copy trích dẫn và bình luận của người khác. Nói như ngôn ngữ thời @ thì đó là hành vi vi phạm bản quyền, là “ đạo văn/ đạo khoa học”. Còn ngôn ngữ bình dân thì người ta gọi là “ ăn cắp”. Những người viết về Marx thì ít nhất cũng độc “ Tuyên ngôn của Đảng cộng sản”- là công trình viết vắn tắt nhất về Chủ nghĩa Marx còn HHT thì không!
          HHT trong cái gọi là “ tiểu luận “ của mình, Y không chỉ chống Marx còn chống lại những nhà khai sáng, những nhà tư tưởng lớn của nhân loại. Chẳng hạn Montesquieu và J.Jacqesseau đã đặt nền móng học thuyế về nhà nước và pháp luật trong công trình “ Tinh thần pháp luật” và “ Bàn về khế ước xã hội”. Trong hai công trình này các ông cho rằng sự ra đời của nhà nước và pháp luật như là một “khế ước xã hội”…Sau này F. Ăngghen đã làm rõ hơn trong công trình “ Nguồn gốc gia đình, chế độ tư hữu và nhà nước”. Cho đến nay chưa một ai có thể bác bỏ được lập luận dựa trên tổng kết lịch sử nhân loại của Ông rằng: “ Lực lượng sản xuất phát triển đã dẫn đến sự ra đời chế độ tư hữu và từ đó xã hội phân chia thành các giai cấp đối kháng và cuộc đấu tranh giai cấp không thể điều hoà được xuất hiện. …Xã hội lúc này đòi hỏi phải có một tổ chức mới đủ sức dập tắt; điều hòa các cuộc xung đột … đó chính là nhà nước.” Còn HHT thì chỉ chăm chú nghĩ đến ca ngợi “ thể chế dân chủ” của Y mà không biết đến thể chế đó từ đâu mà có. Thậm chí HHT cũng chẳng hề biết đến vai trò của nhà nước (mà “ thể chế dân chủ” của Y cũng chỉ là một yếu tố của nhà nước mà thôi!).
          Hà Huy Toàn vì “ say đòn” chống Marx, hoặc để trở thành người hùng? (Và biết đâu đấy sẽ có cơ hội ghi điểm với các ông chủ chống cộng… sau này) nên Y đã không biết đến người ta đã viết về Marx như thế nào.
Họ là ai? – Chắc chắn HHT chưa xứng làm học trò được. Chẳng hạn như Thomas L. Friman-người nhận 3 lầm giải thưởng Pulizer ( về những cống hiến của ông cho tờ The New York Times). Ông là tác giá của công trình “ Thế giới phẳng” (The World is Flat)[1], được bình chọn là “cuốn sách hay nhất trong năm” (2005) tại Hoa Kỳ. Tác giả này viết rằng: “Tôi …đã trò chuyện với nhà lý thuyết chính trị nổi tiếng của Đại học Hardvard- giáo sư Michael.J.Sandel… Sandel khiến tôi hơi giật mình rằng quá trình làm phẳng thế giới mà tôi mô tả thực ra đã được C. Marx và F. Ăngghe đưa ra lần đầu trong “ Tuyên ngôn của Đảng cộng sản”…Ông trích tiếp:
 “ Marx là một trong những người đầu tiên nhìn thấy khả năng thế giới trở thành một thị trường toàn cầu…Marx là người chỉ trích mạnh mẽ nhất chủ nghĩa tư bản, song ông cũng là người phát hiện ra sức mạnh đáng sợ của nó trong việc phá vỡ các rào cản và tạo ra một hệ thống sản xuất và tiêu thụ tòa cầu…( không chỉ sản xuất vật chất mà sản xuất tinh thần cũng được toàn cầu hóa Ông trích tiếp)…Những thành quả hoạt động tinh thần của một dân tộc… trở thành tài sản chung của tất cả các dân tộc…từ những nền văn học dân tộc …đang nẩy nở ra một nền văn học toàn thế giới”. Về vai trò của hàng hóa, L. Friman tiếp tục trích  Marx: “ Giá rẻ của các sản phẩm của gia cấp ấy ( giai cấp tư sản) là trọng pháp bắn thủng tất cả những bức vạn lý trường thành và buộc những những người dã man bài ngoại chấp nhận phương thức sản xuát tư sản, nếu không sẽ bị tiêu diệt…”[2].
Để người đọc có thêm thông tin quan điểm của Marx về Chủ nghĩa cộng sản như thế nào xin bạn đọc dừng lại ít phút đọc trích dẫn sau đây (trong Tuyên ngôn của Đảng cộng sản,) Marx viết: “ Thay cho xã hội cũa với gia cấp và những đối kháng gia cấp của nó thì một thể liên hợp xuất hiện, trong đó sự phát triển tự do của mỗi người là điều kiện cho sự phát triển tự do của tất cả mọi người”[3].
Cái gọi là tiểu luận của HHT chẳng khác nào Y đang húc đầu vào đá. Hậu quả về chính trị thì còn chờ, còn hậu quả về nhân cách thì khó chữa…Y có thể được xem là kẻ “xuất huyết não nhân cách”!
Không biết, hoặc che dấu sự thật tuy có khác nhau về năng lực và tư cách nhưng đều đem lại những hậu quả xã hội nào đó. Việt Nam có câu “ biết thì thưa thớt, không biết thì dựa cột mà nghe”. Còn nếu biết mà che dấu thì đó là tư cách của những kẻ nói láo, những kẻ lưu manh chính trị.  HHT có quyền lựa chọn 1/ 2 phương án trên.


[1] -Thế giới phẳng( Tóm lược lịch sử thế giới yhes kỷ XXI). Nhà xuất bản Trẻ, HN, 2006
[2] -Sách Đ D tr 349…351
[3] -C. Mác F. Ăngghen Tuyển Tập, T I,  NXB ST HN, 1962 Tr 49.

@Trò diễn xảo trá của những kẻ đi ngược lại sự thật lịch sử của dân tộc

Trung Dũng
                Cách mạng tháng Tám năm 1945, hơn ai hết, nhân dân Việt Nam là người hiểu rõ, thấu đáo giá trị và ý nghĩa thắng lợi đó của dân tộc. Thắng lợi là kết quả của quá trình đấu tranh, hy sinh xương máu của toàn thể dân tộc Việt Nam suốt 15 năm dưới sự lãnh đạo của Đảng kể từ ngày thành lập. Và đó còn là kết quả hơn 30 năm tìm đường cứu nước của lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh. Để cuộc Tổng khởi nghĩa giành thắng lợi, Đảng, Bác Hồ và toàn dân ta đã phải chuẩn bị toàn diện thực lực cách mạng từ nhiều năm trước. Vào đầu năm 1941, trước những chuyển biến mau lẹ của tình hình trong nước và thế giới, Bác Hồ về nước và Người đã cùng Trung ương Đảng kịp thời nắm bắt tình hình, đề ra chiến lược, sách lược, xây dựng căn cứ địa, chuẩn bị lực lượng, đào tạo, huấn luyện cán bộ, tổ chức, động viên, lãnh đạo toàn dân chớp thời cơ chín muồi đứng lên lật đổ chế độ thực dân, phong kiến, giành chính quyền về tay nhân dân. Đó là sự thật - sự thật lịch sử, chứ không phải như ai đó cố tình xuyên tạc, với tâm địa đen tối, rằng: “Đảng Cộng sản Việt Nam đã hứng được quả ngọt trời cho là tình thế của Pháp, Nhật và hào khí của dân tộc lúc đó để cướp chính quyền cho riêng mình”. Hơn thế, họ còn ngụy biện: “nếu không có Cách mạng tháng Tám, nước ta đã giàu mạnh từ lâu, chứ không phải nghèo hèn, mất dân chủ như bây giờ ”. Thật trơ trẽn, một sự trơ trẽn trắng trợn. Trong khi mọi người đều biết hoàn toàn không phải vậy và không phải biết có lý do nào khác mà là chính Đảng Cộng sản Việt Nam, với đường lối đúng đắn, phương pháp cách mạng sáng tạo đã nắm chắc, tận dụng thời cơ, biết tổ chức và tập hợp lực lượng, động viên được toàn dân tộc làm nên thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám. 
          Hơn thế nữa, chúng còn xảo trá đưa ra nhận định "Không có Cách mạng tháng Tám thì Việt Nam sẽ ra sao?. Câu trả lời nghiêm túc, thách thức mọi phản biện từ hệ thống tuyên truyền CSVN rằng: 100% sau 1945 Quốc gia Việt Nam chắc chắn vẫn và sẽ Độc Lập hoàn toàn mà không phải đổ máu, không cần đến Hồ Chí Minh, đảng CSVN và nhất là không cần “Cách Mạng tháng 8” nào cả. Chứng minh: Sau thế chiến II quyền “Tự Quyết” liên quan đến độc lập của mọi quốc gia được Liên Hiệp Quốc tuyên bố khẳng định đó là quyền thiêng liêng bất khả từ, các thành viên đầu tiên của Hội đồng Bảo An là: Anh, Mỹ, Pháp, Liên Xô và Trung Hoa Dân Quốc không phủ quyết, tất cả đều đồng thuận nguyên tắc này. Vì vậy các quốc gia thuộc địa của thực dân (chủ yếu Anh, Pháp) từ Đông Nam Á và khắp các châu lục đều lần lượt tự thu hồi hoặc được trao trả Độc Lập mà không cần hao tốn máu xương, dù thời điểm mỗi quốc gia có khác nhau do cần thời gian để lấy ý kiến người dân nên hay không gia nhập vào khối liên hiệp với “mẫu quốc” Anh hoặc Pháp. Nói một cách khác, chấm dứt thế chiến, độc lập như ánh bình minh vươn lên khắp các châu lục mà không một thế lực sức mạnh nào có thể níu kéo lại được". Đúng là "thần kinh" chúng có vấn đề, vô nhân tính hết chỗ nói. Song lố bịch hơn, chúng lại cho rằng: việc “du nhập” chủ nghĩa Mác-Lê-nin vào Việt Nam là một sai lầm lịch sử, chỉ đưa đến tai họa cho dân tộc, vì chủ nghĩa Mác-Lê-nin là “tư tưởng ngoại lai, xa lạ với truyền thống dân tộc”. Theo họ “học thuyết Mác-Lênin chỉ phù hợp với thế kỷ XIX, chỉ phù hợp với một chừng mực nào đó với trình độ, lực lượng sản xuất và văn hóa Nga, không phù hợp với thế kỷ này, với nước ta,...”.
          Sự thật vẫn là sự thật không thể diễn trò để đi ngược lại lịch sử của dân tộc. Những ai đã từng học lịch sử Việt Nam thì đều biết, một cuộc Cách mạng hay nói một cách khác, cuộc kháng chiến dành độc lập cho dân tộc, chống lại sự đô hộ 80 năm của Thực dân Pháp là do Việt minh lãnh đạo. Có thể nói cuộc đấu tranh chống lại thế lực ngoại bang xâm lược là cả một quá trình dài, từ bí mật đến công khai với nhiều bước đi, đã trải qua nhiều giai đoạn, những bước chuyển có tính lịch sử, từ thất bại đến thành công có nhiều sự hy sinh và mất mát để xây dựng được phong trào cách mạng non trẻ. Có được cuộc CM tháng 8 mà đỉnh cao là tổng khởi nghĩa trên toàn quốc, đó là kết tinh, bước chuyển cuối cùng của một quá trình Cách mạng, đó cả là một nghệ thuật đấu tranh CM, biết chớp thời cơ để dành độc lập dân tộc. “Hai mươi triệu nhân dân ta, dưới sự lãnh đạo của một chính đảng Công nông đầu tiên, nhất tề vùng dậy cướp chính quyền”. Thế mà cái đầu bại não của chúng cho đó là điều tưởng tượng, 20 triệu người nhất tề vùng dậy là điều hoang đường, không thuyết phục. Đúng là thiểu năng và vô trách nhiệm, cùng với lối suy diễn vô lối của chúng đến tận ngày nay vẫn cố rặn ra một thứ sản phẩm lịch sử rất đầy định kiến lẫn bất công cả thiển cận, phủ nhận và cả dối trá, phủi sạch trơn cuộc Cách mạng của dân tộc ta, nhân dân ta đó là một tội ác. Chúng cố tình lầm lẫn đến tệ hại với bản chất rất lưu manh của những con buôn chính trị, khi nói rằng “không hề có cách mạng Tháng 8, không có chuyện Việt Minh làm Cách mạng” đây là một luận điểm tuyên truyền hoàn toàn dối trá đầy sai trái của chúng là cố tình che giấu một sự thật lịch sử và đánh giá thấp một sự kiện mang tính lịch sử, đánh cắp công lao to lớn của Đảng Cộng sản Việt Nam cùng nhân dân Việt Nam trong cuộc kháng chiến chống thực dân dành độc lập cho dân tộc. Trong khi chúng thừa hiểu rằng, nền độc lập của một dân tộc không tự nhiên từ trên trời rơi xuống, mà phải trải qua đấu tranh trường kỳ, gian khổ, bền bỉ và cả sự hy sinh, máu đã đổ thấm đẫm màu cờ của tổ quốc, dân tộc ta mới có được nền độc lập như ngày nay.
          Sau khi Cách mạng Tháng Tám nổ ra và thắng lợi, đã có những nhân chứng lịch sử, những nhà nghiên cứu về lịch sử chính trị, quân sự, ngoại giao Việt Nam đề cập. Hầu hết những người này, kể cả những người từng ở trong bộ máy chính trị, quân sự của thực dân Pháp hay cơ quan tình báo Mỹ ở Viễn Đông, ở mức độ khác nhau, đều phản ánh đúng một sự thật khách quan rằng: dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam (ĐCSVN) và lãnh tụ Hồ Chí Minh, nhân dân Việt Nam đã trải qua một quá trình đấu tranh lâu dài, gian khổ, xây dựng lực lượng ngày càng trưởng thành, làm suy yếu lực lượng địch, tạo và đón thời cơ khởi nghĩa giành chính quyền. Đến tháng 8/1945, nắm bắt thời cơ thuận lợi, cả dân tộc Việt Nam, nòng cốt là Mặt trận Việt Minh, vùng lên khởi nghĩa, giành chính quyền. Tuy nhiên, cũng vẫn có ý kiến đánh giá và xuyên tạc  không đúng thành công của Cách mạng Tháng Tám như nêu ở trên. Dù cách nói có khác nhau, nhưng tựu chung lại họ đều cắt xén, xuyên tạc lịch sử, lấy một số hiện tượng không tiêu biểu quy thành bản chất, lập luận một cách ngụy biện, rút ra kết luận không dựa vào các luận cứ, luận chứng khoa học. Những ai biết tôn trọng lịch sử đều thừa nhận sự thật hiển nhiên đó. Điều này chẳng những được nhân dân Việt Nam nhận thức ngày càng sâu sắc, mà nhiều người nước ngoài cũng cảm nhận được và nói lên ở mức độ khác nhau sự thật về cuộc Cách mạng Tháng Tám của dân tộc Việt Nam. Lịch sử đã chứng tỏ rõ ràng, hoàn toàn không có chuyện đây là “một hành động nhanh tay” trong khi “bộ máy chính quyền cũ đã bỏ trống".  Do đó không có đất cho trò diễn xảo trá của những kẻ đi ngược lại sự thật lịch sử của dân tộc Việt Nam./.

@ PHẢI CHĂNG Ở VIỆT NAM “KHÔNG CÒN DIỄN BIẾN HÒA BÌNH”?




                                                                                            Nguyễn Tiến Bắc.
Sau sự kiện Việt Nam và Mỹ tuyên bố thiết lập quan hệ “ đối tác toàn diện” trong chuyến thăm Hoa Kỳ của Chủ tịch nước Trương Tấn Sang ( tháng 7/ 2013) ở vào một thời điểm quan trọng đối với cả hai quốc gia, đã mở ra một thờ kỳ hợp tác phát triển mới, mạnh mẽ, bền vững giữa hai dân tộc. Đặc biệt là tháng 7 ( 2015) Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã có chuyến thăm Hoa Kỳ theo lời mời của nhà nước này. Hai người đứng đầu hai quốc gia từng là “ cựu thù” của nhau lại một lần nữa tái khẳng định tiếp tục phát triển quan hệ giữa hai nước lên một tầm cao mới.
Điều đặc biệt là Tổng thống Brack Obama và nhiều chính khách Hoa Kỳ đã đón tiếp Tổng Bí thư Đảng cộng sản Việt Nam theo nghi thức người đứng đầu nhà nước. Cuộc đón tiếp và làm việc chính thức với Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng diễn ra ở “ phòng Bầu Dục” được nhiều nhà nghiên cứu xem đây là sự kiện có ý nghĩa mang tầm quốc tế. Tuy nhiên vẫn có người chê và có cả người với giọng “lấp lửng” “ nửa nạc nửa mỡ”. Chẳng hạn như họ nói đây là “bước đi oái oăm của lịch sử”, hoặc cho rằng sự phát triển quan hệ của Việt Nam với Hoa Kỳ là “ Đi cũng dở, ở không xong”. Âu cũng là kiểu cách văn hóa “phương Đông” biến dạng, trách móc làm gì.
Tuy nhiên cũng cần nói thẳng ra trong cách nói “ lấp lửng” này người ta vẫn không che dấu được ác ý. Họ nói: “Sự oái oăm của lịch sử còn thể hiện ra ở đường giáp ranh mong manh giữa tội đồ lịch sử và người thúc đẩy lịch sử!”. Trong câu này mọi người đều hiểu hàm ý của “ tội đồ lịch sử” là ai, là lượng chính trị nào? Trước những diễn biến dồn dập này có người còn cho rằng: “Thực ra bây giờ những người vẫn còn lo lắng về “Diễn biến hòa bình” là những người rất lạc hậu”. Nói cách khác là không còn “ Diễn biến hòa bình” ở Việt Nam nữa!
Chúng ta hay xem quan điểm này đúng sai ra sao.
          Trong bối cảnh Trung Quốc đang thực hiện nhiều kịch bản chính trị, quân sự ở Biển Đông thì đây là một cách “ thúc đẩy” Việt Nam “ xoa trục” về phương Tây, dựa trên sự kiên giàn khoa HD 981 mà Trung Quốc hạ đặt trong vùng đặc quyền kinh tế, thềm lục địa Việt Nam. Có người nói rằng ngày nay Đảng cộng sản Việt Nam ở trong trạng thái chính trị đầy mâu thuẫn: “ Đi với Trung Quốc thì mất nước, đi với Mỹ thì mất Đảng”.

Có chuyên gia nước ngoài có nhiều năm nghiên cứu địa chính trị ở khu vực Nam Á- Biển Đông, đặc biệt là Việt Nam cho rằng: Việt Nam ngày nay dường như đang ứng nghiệp với một  “lời nguyền”, một “ định mệnh” về đại lý. Đó là tồn tại bên một nước lớn (với nhiều điều khác biệt các nước lớn khác)- một điều không thể thay đổi. Quan niệm này đã được nhiều chuyên gia trong và ngoài nước đánh giá cao bởi tính khách quan và lịch sử hàng nghìn năm giữa hai nước đã xác nhận. Thế nhưng những “ trí thức-bất đồng chính kiến” trong nước thì dường như bỏ qua sự thật này.
Trên thực tế, người ta luôn luôn không chấp nhận những gì mà Đảng và Nhà nước Việt Nam đã và đang làm nếu như không thay đổi chế độ chính trị, nếu không chuyển sang đường lối chính trị “dân chủ và dân tộc” theo mô hình sao chép của phương Tây. Nói cụ thể người ta muốn Đảng công sản Việt Nam phải từ bỏ vai trò lãnh đạo của mình nhường chỗ cho những lực lượng chính trị khác trong thể chế “ Đa nguyên chính trị”, “ Đa đảng đối lập”!
          Vậy trên thực tế cho đến nay những lượng chính trị nào vẫn còn thực hiện “Diễn biến hòa bình”- mong muốn thay đổi chế độ chính trị ở Việt Nam?
          Nhà nước Hoa Kỳ chăng?  Câu trả lời là “ vừa có, vừa không”. Vì sao như vậy?
Xin có mấy bình luận: Hoa Kỳ là một nhà nước theo chế độ “ đa nguyên chính trị, đa đảng đối lập” cùng với thể chế “Tam quyền phân lập”. Bởi vây trên một vấn đề (trong và ngoài nước), có nhiều quan điểm, lập trường khác nhau ngay trong chính giới là điều dễ hiểu. Cho đến nay, Chính phủ nước này mà Tổng thống Barack Obama là người đại diện đã chính thức thừa nhận tính “ chính danh”, thừa nhận “chế độ chính trị nhất nguyên”- chế độ xã hội do Đảng cộng sản Việt Nam lãnh đạo. Do đó sẽ không có chuyện “Đi với Mỹ thì mất Đảng” như người ta hù dọa. Xin các vị “cộng sản nòi” đừng sợ thiết lập quan hệ hợp tác với Mỹ thì sẽ bị “Diễn biến hòa bình”, sẽ “mất Đảng”.
Có nhiều sự kiện và phát ngôn đáng để chúng ta suy nghĩ về điều này. Chẳng hạn như Phó Tổng thống Hoa Kỳ Joe Biden tại tại tiệc chiêu đãi Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng tại Bộ Ngoại giao nhân chuyến thăm chính thức Hoa Kỳ của Ông đã khẳng định mục tiêu chung của hai quốc gia là: “Cả hai nước sẽ tiếp tục làm việc cùng nhau ở châu Á - Thái Bình Dương trong bối cảnh Hoa Kỳ tái cân bằng hướng tới khu vực, nơi hai nước chia sẻ những lợi ích chung như hòa bình và ổn định khu vực, thịnh vượng của ASEAN”. Ngài phó Tổng thống còn lẩy Kiều ví quan hệ Việt Nam- Hoa Kỳ như “ tan sương đầu ngõ…” để tặng Tổng Bí thư Đảng cộng sản Việt Nam.
Còn trước đó, Đại sứ Hoa Kỳ đầu tiên ở Việt Nam Pete Peterson từng nói: Sự khác biệt về Ý thức hệ giữa Việt Nam và Hoa kỳ “Là thách thức lớn nhất từ khi chiến tranh Việt Nam kết thúc, (1975) đến nay”. Nhưng điều này đã không còn nữa. Đến nay, theo ông: “Trong ngầm ý Hoa Kỳ không muốn thay đổi ý thức hệ ở Việt Nam” nữa.
          Ông Pete Peterson chỉ là người “ công khai” hóa quan điểm chính trị của Hoa Kỳ mà thôi, trên thực tế thì điều này đã diễn ra từ trước rồi. Cón về triết lý đối với bè bạn, lợi ích quốc gia trong quan hệ giữa các nước, thì Thủ tướng Winston Churchill ( Thủ tướng Anh trong thời Thế chiến thứ hai) từng nói: “Trên thế giới này không có bạn bè vĩnh viễn hay kẻ thù vĩnh viễn chỉ có lợi ích quốc gia mới là vĩnh viễn”. Nói cách khác, “ bạn bè” hay cùng chung “ ý thức hệ” không phải là cái bất biến. Ai không tin thì hãy nhìn sang Đông Á thì biết: Một nước có chung Ý thức hệ nhưng lại “trái tính, trái nết” liệu có tốt hơn một quốc gia khác, không cùng chung ý thức hệ nhưng lại tìm được lợi ích- chơi với ai tốt hơn?
Thiết nghĩ câu nói của Thủ tướng Anh vẫn còn nguyên giá trị cho đến nay. Thật đáng buồn cho một số người tự xem là “trí thức”, nhưng lại “ngủ” trên một triết lý đơn giản như vậy. Lịch sử  thế kỷ XX cho thấy, Việt Nam đã từng có nhiều bè bạn ( đến nay vẫn là bạn bè thủy chung) và cũng không ít kẻ thù, nhưng rồi đã có sự thay đổi mà chúng ta phải chấp nhận.  
Trở lại ở Hoa Kỳ những lực lượng nào vẫn còn muốn thay đổi chế độ xã hội, xóa bỏ vai trò lãnh đạo, cầm quyền của Đảng cộng sản Việt Nam?
Đó là những lực lượng “ cực hữu”, đặc biệt là nhóm nghĩ sỹ ở Hạ viện đứng đầu là Chris Smith, đảng Cộng hòa, bang New Jersey và Ed Royce, đảng Cộng hòa, bang California. Hoạt động của họ hàng năm thường là tổ chức các cuộc “Điều trần” về “tự do tôn giáo”, về “ dân chủ, nhân quyền”. Họ còn tiếp xúc với những người “bất đồng chính kiến” (đã đến Mỹ) và những tổ chức nhân quyền của người Việt ở nước ngoài để lấy thông tin  “ chứng cứ”.
Ở trong nước đó là những người đang tìm mọi cách xuyên tạc lịch sử, phủ nhận thành quả trên 70 năm cách mạng Việt Nam. Chẳng hạn họ cho rằng cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước là “ nồi da, nấu thịt”, Cách mạng Tháng Tám, 1945 là “ăn may”, là “ cướp chính quyền” của Chính phủ Trần Trọng Kim ( trên thực tế chính phủ này do Nhật nặn ra)…
 Tất nhiên đó còn là những cán bộ, đảng viên  “tự diễn biến”, “ tự chuyển hóa”, “ suy thoái về chính trị, tư tưởng, đạo đức, lối sống” như Nghị quyết Trung 4 ( khóa XI) Đảng cộng sản Việt đã chỉ ra. Tóm lại đó là: những kẻ đang “ ôm” những tài sản kếch xù, phi pháp muốn xóa bỏ chế độ này để bảo vệ của khối của cải của mình; đó là những kẻ đang giữ hận thù với cách mạng, chúng mong có cơ hội để phụ hồi quyền lực và lợi ích chính trị, kinh tế của họ và không loại trừ một số người đã ngộ nhận rằng chỉ từ bỏ ý thức hệ Mác-Lênin, đi theo con đường của phương Tây mới bảo vệ được độc lập dân tộc chủ quyền quốc gia, toàn vẹ lãnh thổ, phát triển được  đất nước. Theo cách nói của Churchill Winston, có thể nói: “ quan điểm chính trị ( của họ) chỉ là nhất thời, chỉ có lợi ích cá nhân (của họ) mới là vĩnh viễn”!
Lập luận của một số người về sự cần thiết phải chuyển xã hội ta sang mô hình “ Dân chủ, nhân quyền” ngoại nhập dựa trên đánh giá lại một số sự kiện lịch sử hiện nay thiết nghĩ họ đang theo thuyết âm mưu (conspiracy theory). Nghĩa là họ gán cho Đảng và Nhà nước Việt Nam hết bị nước này “lừa” lại đến “mắc lừa nước khác”, làm như chỉ có họ mới là người khôn ngoan và vì lợi ích của Dân tộc!
Không phủ nhận rằng một số lãnh đạo Đảng cộng sản Việt Nam trong những hoàn cảnh khó khăn đã buộc phải chấp nhận sự áp đặt nào đó của nước lớn vì nhiệm vụ chính trị đang diễn tiến. Không loại trừ trường một số trường hợp vì quá tin các “ ông anh” nên mấy ông lãnh đạo nhà ta đã không phát hiện sớm người ta đã thay đổi quan điểm hoặc không còn tôn trọng lợi ích của Việt Nam nữa! Nhưng rút cuộc thì Lãnh đạo Việt Nam cũng đã thực hiệm được mục tiêu cơ bản của mình. Đó là Độc lập dân tộc, chủ quyền quốc gia, thống nhất được đất nước. Nếu như còn ai đó chưa hài lòng với khái niệm “ độc lập dân tộc” hiện nay thì phải xem lại tư duy chính trị của mình có phù hợp với nền chính trị quốc tế đang bị chi phối bới nhiều nước lớn. Tất nhiên đôc lập trên “ mạng” thì chẳng có gì khó, chỉ di chuột là được!
Trở lại vấn đề của bài viết- Ở Việt Nam hiện nay có còn “ Diễn biến hòa bình” nữa hay không? Nội dung của khái niêm này như thế nào?
Câu trả lời đã được viết ở phần trên. Tuy nhiên vẫn có thể nói rõ hơn. Nội hàm của “ Diễn biến hòa bình” ngày nay đã có sự thay đổi nhất định. Mặc dù Đảng cộng sản Việt Nam đã thay đổi mô hình xây dựng XHCN hướng tới mục tiêu: “Dân giầu, nước mạnh, xã hội dân chủ, công bằng…” với nhà nước pháp quyền; kinh tế thị trường; hội nhập quốc tế trong đó có hợp tác toàn diện với Hoa Kỳ. Thiết nghĩ mục tiêu của những lực lượng “ Diễn biến hòa bình” ngày nay không phải là thay đổi chế độ xã hội mà họ muốn Việt Nam phải tham gia liên minh chính trị quân sự với nước này nước khác. Và mục tiêu tối thượng của họ vẫn là xóa bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam - mà họ gọi là “chế độ độc tài Đảng trị”. Đáng tiếc đây là điều mà Hiến pháp, pháp luật không cho phép.

@ Sự trái ngược giữa nói và làm của những người tự xưng là bảo vệ “dân chủ, nhân quyền”



                                                                                     Công Lý
Bẵng đi một thời gian mấy tháng, do công việc của gia đình quá bận, tôi không có thời gian để lướt mạng tìm đọc tin tức hàng ngày theo sở thích của riêng mình. Khi được thỏa thích vùng vẫy trên "biển" thông tin vô tận đó, có nhiều thông tin thực sự hữu ích, nhưng ngược lại có một số bài viết làm tôi bực mình với những lời lẽ bịa đặt, trái ngược hoàn toàn với những gì đang diễn ra trong xã hội ta hiện nay. Trăn trở suy nghĩ mãi và cộng với những gì tôi tích lũy và nhận biết được từ những điều hơn, lẽ phải, cái đúng, cái sai. Tôi mạnh dạn trao đổi cùng bạn đọc đôi dòng suy nghĩ của mình. Trước tiên để đánh giá "khái quát" về những người tự xưng là bảo vệ "dân chủ, nhân quyền" thì trong thời qua, những việc làm của họ lại hoàn toàn trái ngược với những gì họ đã lớn tiếng tuyên bố. Những lời nói và hành động của họ cũng chẳng có gì xa lạ với độc giả bạn đọc khi những bài viết xuyên tạc, bịa đặt tung lên mạng với giọng điệu xảo trá "cả vú lấp miệng em" để đánh lừa dư luận. Nhưng thực tế đâu phải dễ, cộng đồng mạng đã quá quen với những gương mặt không lấy gì đẹp đẽ, nhân cách không mấy sáng sủa, họ là những con người đã bán rẻ lương tâm và phẩm giá của mình cho quỹ dữ để đổi lại những lợi ích chẳng mấy trong sạch được chu cấp tiền bạc bởi những kẻ luôn mệnh danh bảo vệ “dân chủ, nhân quyền” ở nước ngoài. Những điệp khúc mà chúng luôn dùng cũng đã trở nên quá quen thuộc đối với ban đọc. Nói trắng ra đây là sự câu kết giữa các phần tử thù địch ở nước ngoài với các phần tử phản động, cơ hội chính trị trong nước, lợi dụng các hoạt động tôn giáo để tiến hành các hoạt động chống phá Việt Nam về "dân chủ, nhân quyền" đã trở nên phổ biến và quá rõ ràng trên các trang mang "đen" của chúng trong thời gian qua.      
          Thoạt đầu khi đọc những bài viết đó đó tưởng chừng như vô hại, nhưng chịu khó để ý mới thấy sự nguy hại của những bài viết đối với những người dân kém hiểu biết tới mức độ nào?, được ngụy tạo bằng nhiều thủ đoạn khác nhau, từ những bài viết xuyên tạc đăng tải trên internet tới việc đưa tin một số dân biểu Mỹ có tư tưởng cực đoan gửi thư kiến nghị tới Tổng thống Obama vu cáo Việt Nam về  "dân chủ, nhân quyền"... Mọi sự dối trá nhào nặn, bịa đặt cẩu thả đó không thể che lấp được sự thật đang hiện hữu trên đất nước Việt Nam. Đâu phải chỉ có người dân Việt Nam trong nước mới nhận ra điều đó, ngay cả dư luận trong cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài, nhất là ở Mỹ đã lên tiếng bày tỏ sự bức xúc, phẫn nộ trước hành động chống phá Tổ quốc và nhân dân Việt Nam do đám người tự xưng bảo vệ “dân chủ, nhân quyền” đang thực hiện, chúng dựng chuyện “nói không thành có”, rồi ắt chúng sẽ phải trả giá cho những việc làm bẩn thiểu đó, đúng như ông cha ta đã từng răn dạy "ở hiền, thì lại gặp lành, ở ác, gặp dữ, tan tành ra tro". Đặc biệt hơn, mới đây những đánh giá, lời nhận xét khách quan của các chính khách Hoa Kỳ trong chuyến thăm của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng tới Mỹ như một đòn giáng mạnh mẽ vào bộ mặt "giả nhân, giả nghĩa" bấy lâu nay của bọn "rận chủ". Xin trích lời của Mục sư Bob Roberts - Hội thánh (Tin lành) Northwood, Texas đánh giá về tình hình tự do tôn giáo tại Việt Nam “Hai mươi năm trước, nhà thờ của chúng tôi bắt đầu làm việc với Chính phủ Việt Nam về các dự án nhân đạo. Từ đó tới nay, chúng tôi đã có hơn 2.500 người đến Việt Nam thực hiện 120 dự án khác nhau với tổng số quyên góp hàng triệu đô la… Trong hai mươi năm qua đến Việt Nam, tôi đã thấy những thay đổi đáng kể ở Việt Nam về lĩnh vực phát triển kinh tế, gia nhập toàn cầu và xã hội. Tôi cảm ơn cách thức mà chính phủ đã làm để đảm bảo quyền tự do tôn giáo và thể hiện tôn giáo cho tất cả các tôn giáo. Chúng tôi cảm ơn về sự hợp tác của Việt Nam với Viện Liên kết Toàn cầu (IGE)”. Những lời nói đó chứng tỏ thành quả không thể phủ nhận của Việt Nam trên lĩnh vực "dân chủ, nhân quyền". Lĩnh vực mà các thế lực cực đoan liên tục lợi dụng để chống phá Đảng, Nhà nước và nhân dân Việt Nam.
Âm mưu, thủ đoạn “lá mặt, lá trái” của đám người đó dùng chiêu bài “dân chủ, nhân quyền” nhằm gây bất ổn về chính trị đối với quốc gia, dân tộc Việt Nam nhất định sẽ không thành công, hơn ai hết người dân Việt Nam đã hiểu rõ chân lý không có gì quý hơn độc lập tư do mà Đảng, Bác Hồ đã mang lại cho dân tộc 70 năm qua, nhất là gần 30 năm đổi mới. Nói như vậy để hiểu rõ hơn một điều về mục tiêu trọng tâm cuối cùng của chúng là muốn xóa bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam đối với Nhà nước và xã hội Việt Nam. Phương thức tiến hành của chúng thường lợi dụng tối đa vấn đề “dân chủ, nhân quyền” để rồi tiến hành tập trung thực hiện vào các thời điểm nhạy cảm, ra đòn chiến tranh tâm lý, xuyên tạc đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước. Chúng tác động vào nhận thức, tư tưởng, tình cảm của một bộ phận nhân dân, nhất là giới trẻ hiện nay với nhiều chiêu bài, phương thức cụ thể, như “hỗ trợ kinh phí để thực hiện việc khiếu kiện”; “hỗ trợ nhân đạo kèm theo những điều kiện bắt buộc như tham gia hội, nhóm, tham gia tọa đàm, hội thảo...”; “kích động những người bất mãn với xã hội viết bài xuyên tạc, bôi nhọ cán bộ, công kích cấp ủy, chính quyền địa phương với mức trả thù lao rất cao”. Cùng với đó, chúng lợi dụng việc nhận thức hạn chế của một bộ phận nhân dân, kích động, gây bức xúc từ những vụ việc phức tạp trong đời sống xã hội; dùng các thủ đoạn tác động vào lợi ích trước mắt để mua chuộc lòng tham của con người, hòng đạt tới mục tiêu gây ra sự bất ổn về an ninh, chính trị, trật tự an toàn xã hội, gây sự hoài nghi vào khả năng lãnh đạo và từng bước hạ thấp vai trò của Đảng Cộng sản Việt Nam; dần đần tiến đến xóa bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản đối với xã hội, nhằm tạo ra cơ hội chính trị và lợi ích của chúng mà không hề mang lại lợi ích gì cho các tầng lớp nhân dân.
Cái gọi là “dân chủ, nhân quyền” mà các thế lực thù địch thường rêu rao, đâu phải "dân chủ, nhân quyền" theo đúng nghĩa. Đây là một mưu toan, một chiêu bài mà chúng tuyên truyền, xuyên tạc, bôi nhọ Việt Nam trên trường quốc tế, gây rối, chia rẽ khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Đặc biệt, con bài “dân chủ, nhân quyền” còn được họ sử dụng như một công cụ trong chính sách đối ngoại, thông qua đó lấy cớ để can thiệp vào công việc nội bộ của Việt Nam. Họ tự cho mình có quyền “can thiệp nhân đạo” và liên tục rêu rao “quyền con người không có biên giới”, “nhân quyền cao hơn chủ quyền” để phủ nhận quyền của các dân tộc khác, nhất là quyền tự quyết định vận mệnh hay tự lựa chọn con đường phát triển của các dân tộc. Tự do tôn giáo, vấn đề dân chủ, nhân quyền ở Việt Nam luôn được đảm bảo, chính những người Mỹ, những người trực tiếp hoạt động trong lĩnh vực tôn giáo đã khẳng định điều thực tế này. Một minh chứng nữa không thể phủ nhận, tại Đại hội đồng Liên Hợp Quốc khóa 68 ngày 12/11/2013 đã bỏ phiếu bầu 14 nước thành viên mới của Hội đồng Nhân quyền nhiệm kỳ 2014-2016 và Việt Nam trúng cử với số phiếu cao nhất (184/192). Thực tế đó đã chứng minh rõ ràng những gì đang diễn ra ở Việt Nam khác hoàn toàn với các luận điệu xuyên tạc của những kẻ tự xưng bảo vệ "dân chủ, nhân quyền" đang vu cáo, nhất là luận điệu của 9 vị dân biểu Hoa Kỳ mới đây kiến nghị tới Tổng thống Obama không khách quan, xuyên tạc một cách ác ý, nghiêm trọng và hết sức phiến diện, không có căn cứ thực tế, họ liên tục sử dụng các thuật ngữ như “tù nhân lương tâm”, “tù nhân tôn giáo”… nhằm vu cáo Việt Nam, cản trở tiến trình phát triển, dân chủ ở Việt Nam hiện nay.
       Những điều vụ cáo ở trên không thể trở thành hiện thực, bởi ở Việt Nam hoàn toàn không có "tù nhân lương tâm" hay "tù nhân tôn giáo" như họ đã và đang rêu rao. Cũng phải khẳng định rằng dân tộc Việt Nam không thể dung tha cho những ai vi phạm pháp luật Việt Nam, đảm bảo tính pháp chế và vì lợi ích chung của dân tộc mình. Những thành tựu trên lĩnh vực dân chủ, nhân quyền ở Việt Nam đang hiện hữu và những đánh giá, nhận xét khách quan, tích cực từ chính quyền Mỹ, giới chức Mỹ và dư luận Mỹ gần đây trong chuyến thăm của Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng tới Mỹ là những minh chứng khách quan nhất. Nếu cần Việt Nam luôn rộng mở trân trọng mời đại diện các tổ chức quốc tế của Liên Hợp quốc vào Việt Nam để đích thực tai nghe, mắt thấy về vấn đề "dân chủ, nhân quyền" ở Việt Nam. Nhân dân Việt Nam luôn tâm niệm một điều chủ quyền là quyền thiêng liêng của mỗi quốc gia, dân tộc, trải qua mấy nghìn năm dựng nước và giữ nước, người dân Việt Nam hiểu rất rõ giá trị đích thực của chủ quyền dân tộc, độc lập dân tộc và quyền tự do dân tộc, nhất là quyền con người của mỗi người dân đã được ghi trong Hiến Pháp và đang được thực thi đầy đủ trong xã hội.