Thứ Sáu, 17 tháng 4, 2015

Giết hại nhà báo - họ và chúng ta

Xin giới thiệu với bạn đọc bản dịch bài viết "Murdering Journalists - Them and Us" của tác giả William Blum đăng trên tạp chí Coldtype số 93 tháng 2 năm 2015, trang 76. Không chỉ đề cập đến việc Hoa Kỳ đã sát hại nhiều nhà báo trong các cuộc chiến của họ, tác giả còn bình luận về sự thay đổi hệ tư tưởng của một lớp người Mỹ dưới tác động của cuộc chiến tranh Việt Nam, chính sách phá hoại Cuba của Hoa Kỳ.
Giết hại nhà báo – họ và chúng ta
Sau sự kiện ở Paris, sự lên án đối với cuồng tín tôn giáo đạt tới đỉnh điểm. Tôi cho rằng thậm chí là ảo tưởng tiến bộ nhỏ nhoi đối với những kẻ thánh chiến, nhét vào đầu họ vài ý nghĩ về trí thức, châm biếm, hài hước, tự do ngôn luận. Trên hết, chúng ta đang nói về những thanh niên nổi dậy ở Pháp, không phải ở Arab Saudi.
Đâu là điểm xuất phát của chủ nghĩa Hồi Giáo chính thống trong thời hiện đại? Đa số chúng – được huấn luyện, vũ trang, tài trợ, tẩy não – đến từ Afghanistan, Iraq, Lybia và Syria. Trong những thời kỳ khác nhau từ những năm 1970 cho tới nay, bốn quốc gia đó đã từng là các quốc gia phúc lợi, thế tục, hiện đại, có giáo dục nhất ở khu vực Trung Đông. Điều gì đã xảy ra với những quốc gia phúc lợi, thế tục, hiện đại và có giáo dục đó?
Vào những năm 1980, Hoa Kỳ lật đổ chính quyền Afghanistan tiến bộ và có đầy đủ quyền cho phụ nữ, tin vào điều đó hay không, thì hệ quả là Taliban xuất hiện và giành được quyền lực.
Vào những năm 2000, Hoa Kỳ lật đổ chính quyền Iraq, phá hủy không chỉ nhà nước thế tục mà còn là nhà nước văn minh, để lại một nhà nước thất bại.
Vào năm 2011, Hoa Kỳ và cỗ máy quân sự NATO của họ lật đổ chính quyền Muammar Gaddafi của Lybia, để lại phía sau một nhà nước phi luật pháp, với hàng trăm phần tử thánh chiến và hàng tấn vũ khí khắp Trung Đông.
Trong vài năm qua, Hoa Kỳ đã tham gia vào việc lật đổ chính quyền thế tục Bashar al-Assad của Syria. Điều đó cùng với việc chiếm đóng Iraq của Hoa Kỳ đã châm ngòi cho sự bùng phát của chiến tranh Sunni-Shia, dẫn đến sự hình thành của Nhà Nước Hồi Giáo với trò chặt đầu và những trò hấp dẫn khác của họ.
Mặc dù vậy, bất chấp tất cả, thế giới được tạo ra an toàn đối với chủ nghĩa tư bản, chủ nghĩa đế quốc, chủ nghĩa bài cộng sản, dầu mỏ, Israel và những kẻ thánh chiến. Chúa thật vĩ đại!
Khởi đầu với Chiến Tranh Lạnh, những cuộc can thiệp đã nêu diễn ra trong suốt 70 năm chính sách đối ngoại Hoa Kỳ, nếu không có chúng – như nhà văn người Nga/Mỹ Andre Vltchek đã quan sát – “hầu hết các quốc gia Hồi Giáo, trong đó có Iran, Ai Cập và Indonesia, hiện giờ sẽ hoàn toàn giống như các nước xã hội chủ nghĩa, dưới quyền một nhóm lãnh đạo rất ôn hòa và thế tục.” Thậm chí ngay cả Arab Saudi cực đoan – nếu không có sự bảo hộ của Washington – thì có lẽ mọi thứ sẽ rất khác biệt.
Vào ngày 11 tháng 1, Paris là địa điểm diễn ra Tuần Hành Đoàn Kết Quốc Tế để vinh danh tạp chí Charlie Heddo, nơi có những nhà báo đã bị kẻ khủng bố ám sát. Cuộc tuần hành có chút ấn tượng nhưng cũng phơi bày sự đạo đức giả của Phương Tây, với kênh truyền hình Pháp và đám đông đại diện tán tụng bất tận sự trả thù của thế giới NATO cho nhà báo và tự do ngôn luận; một biển biểu ngữ tuyên bố Je suis Charlie … Nous Sommes Tous Charlie; và một cây bút chì khổng lồ đầy huênh hoang, nếu như nó là bút chì – chứ không phải là bom, xâm lược, lật đổ, tra tấn và tấn công bằng máy bay không người lái – được Phương Tây lựa chọn làm vũ khí ở Trung Đông suốt thế kỷ qua. 
Không có mảy may đề cập nào đến sự thật là quân đội Hoa Kỳ, trong chuỗi chiến tranh của họ suốt những thập kỷ qua ở Trung Đông và những nơi khác, phải chịu trách nhiệm về cái chết của hàng tá nhà báo. Một trong số các sự kiện xảy ra ở Iraq, hãy xem đoạn video năm 2007 của Wikileak về vụ sát hại máu lạnh hai nhà báo của hàng Reuters; vào năm 2003, tên lửa không đối đất của Hoa Kỳ bắn vào văn phòng của Al Jazeera ở Baghdad khiến cho ba nhà báo bị chết và bốn người khác bị thương; Hoa Kỳ bắn vào khách sạn Palestine ở Baghdad trong cùng năm đó khiến hai nhà quay phim ngoại quốc thiệt mạng.
Hơn thế nữa, vào ngày 8 tháng 10 năm 2001, ngày thứ hai trong cuộc ném bom Afghanistan, trạm chuyển tiếp sóng phát thanh Shari của chính quyền Taliban bị ném bom và ngay sau đó Hoa Kỳ ném bom khoảng 20 trạm phát thanh địa phương. Bộ trưởng Quốc Phòng Hoa Kỳ Rumsfeld biện minh cho việc tấn công những cơ sở đó: “Dĩ nhiên, chúng không thể được coi là các cơ sở truyền thông tự do. Chúng là cơ quan phát ngôn của Taliban và những kẻ chứa chấp khủng bố.” 
Ở Nam Tư vào năm 1999, trong chiến dịch ném bom kéo dài 78 ngày tai tiếng tại một quốc gia không tạo thành bất cứ mối đe dọa nào đối với Hoa Kỳ hay bất cứ quốc gia nào khác, đài truyền hình phát thanh nhà nước Serbia (RTS) là mục tiêu tấn công vì họ đưa những tin tức mà Hoa Kỳ và NATO không thích (như sự kinh khủng mà những trận ném bom tạo ra). Bom đã tước đoạt sinh mạng của nhiều nhân viên nhà đài, hai chân của một người sống sót đã bị cắt bỏ để có thể đưa anh ta ra khỏi đống đổ nát.
Tôi trình bày ở đây một số quan điểm về Charlie Heddo mà một người bạn ở Paris gửi cho tôi, người này có mối quan hệ gần gũi lâu dài với xuất bản và nhân viên trong ngành: 
“Về chính sách đối ngoại thì Charlie Heddo theo hướng tân bảo thủ. Họ ủng hộ mọi sự can thiệp của NATO từ thời Nam Tư tới nay. Họ bài Hồi Giáo, bài Hamas (hay bất cứ tổ chức Palestine nào), bài Nga, bài Cuba (với một họa sĩ truyện tranh là ngoại lệ), bài Hugo Chavez, bài Iran, bài Syria, ủng hộ Pussy Riot, ủng hộ Kiev … Tôi có cần tiếp tục không?” 
“Thật lạ lùng, tạp chí này lại được coi là ‘cánh tả’. Sự phức tạp đối với tôi là phê phán họ vào lúc này bởi vì họ không phải là ‘người xấu’, họ chỉ là một nhóm các họa sĩ truyện tranh, đúng vậy, những trí thức tự do không hề có bất cứ kế hoạch đặc biệt nào và là những người không liên quan tới các dạng ‘cải huấn’ – chính trị, tôn giáo hay bất cứ thứ gì; chỉ là vui vẻ và cố gắng bán một tạp chí ‘lật đổ’ (với sự ngoại lệ đáng chú ý là cựu biên tập viên Philippe Val, người mà tôi cho là tân bảo thủ từ trong trứng).”
Ngu xuẩn và ngu xuẩn hơn
Có ai còn nhớ Arseniy Yatsenuk? Cái người Ukraina được quan chức Hoa Kỳ sử dụng vào đầu năm 2014 và sắp đặt làm thủ tướng, để ông ta có thể dẫn dắt Lực Lượng của Cái Tốt của Ukraina chống lại Nga trong Cuộc Chiến Tranh Lạnh mới?
Trong một cuộc phỏng vấn với đài truyền hình Đức vào ngày 7 tháng 1 năm 2015, Yatsenuk đã nói như sau: “Tất cả chúng ta đều nhớ rõ cuộc xâm lược của Soviet đối với Ukraina và Đức. Chúng ta sẽ không cho phép điều đó, không ai có quyền viết lại kết quả của Chiến Tranh Thế Giới thứ II.” Lực Lượng của Cái Tốt của Ukraina, các bạn hãy nhớ kỹ rằng, cũng bao gồm một số những kẻ tân Phát xít tại các vị trí cao cấp của chính quyền và nhiều trong số đó đang tham gia vào cuộc chiến chống lại người Ukraina thân Nga ở miền đông-nam của đất nước. Vào tháng 6 năm ngoái, Yatsenuk gọi những người thân Nga là “hạ cấp”, tương đương với khái niệm “người hạ đẳng” của phát xít. 
Thế nên lần tới mà bạn lắc đầu trước những bình luận ngớ ngẩn của quan chức chính quyền Hoa Kỳ, hãy nhớ rằng các quan chức cấp cao Hoa Kỳ không nhất thiết phải là những kẻ ngu ngốc nhất, ngoại trừ việc họ lựa chọn đối tác xứng đáng cho đế chế.
Kiểu mít tinh ở Paris vào tháng này để lên án hành động khủng bố của những kẻ thánh chiến cũng được dùng để lên án nạn nhân của vụ Odessa ở Ukraina vào tháng 5 năm ngoái. Cùng một kiểu tân phát xít đã nêu trên, diễu hành loanh quanh với biểu tượng giống như chữ thập ngoặc, kêu gào giết người Nga, giết cộng sản và giết Do Thái, đốt tòa nhà công đoàn ở Odessa, giết hại nhiều người và khiến hàng trăm người phải vào viện; nhiều nạn nhân bị đánh đập hay bắn khi họ cố gắng thoát khỏi lửa và khói; xe cứu thương bị ngăn cản tiếp cận những người bị thương. Nếu bạn cố gắng tìm kiếm một đơn vị truyền thông chính thống Hoa Kỳ đưa tin có một chút nghiêm túc về sự kiện kinh hoàng đó thì bạn phải tới trạm truyền thông Nga ở Washington, DC, RT.com, tìm kiếm từ khóa “vụ hỏa hoạn Odessa” để có bài tường thuật, hình ảnh và phim, cũng như xem bài đăng trên Wikipedia về vụ đụng độ ở Odessa vào ngày 2 tháng 5. 
Nếu người Mỹ bị buộc phải xem, nghe và đọc mọi câu chuyện về hành vi của tân phát xít ở Ukraina những năm gần đây, tôi nghĩ rằng họ sẽ ngạc nhiên tại sao chính quyền của họ lại liên minh thân thiết với những người đó. Hoa Kỳ có thể ở cùng phe với những người đó để tiến hành chiến tranh chống Nga. 
Một vài suy nghĩ về hệ tư tưởng 
Norman Finkelstein, một nhà phê bình Israel dữ dội người Mỹ, mới được Paul Jay phỏng vấn trên Mạng Lưới Tin Tức Trung Thực. Finkelstein kể về việc ông trở thành người theo chủ nghĩa Mao thời trẻ và bị phá hủy vì sự phơi bày và sự sụp đổ của Bè Lũ Bốn Tên vào năm 1976 ở Trung Quốc. “Điều đó xuất hiện chỉ dường như là quá nhiều tham nhũng. Những người mà chúng tôi nghĩ rằng họ tuyệt đối không vị kỷ thực ra lại rất vị kỷ. Điều đó đã rõ ràng. Vụ lật đổ Bè Lũ Bốn Tên đã nhận được sự ủng hộ lớn của dân chúng.”
Nhiều người theo chủ nghĩa Mao khác đã bị chia rẽ bởi sự kiện đó. “Mọi thứ bị lật đổ trong một đêm, toàn bộ hệ thống kiểu Mao, những người mà chúng ta cho [là] người xã hội chủ nghĩa mới, họ đều được tin rằng đã tự phấn đấu, tự đấu tranh. Sau một đêm tất cả bị đảo lộn.”
“Anh biết không, nhiều người nghĩ rằng McCarthy đã phá hủy Đảng Cộng Sản,” Finkelstein tiếp tục. “Đó hoàn toàn không phải là sự thật. Anh biết không, khi anh là một người cộng sản thời đó, anh có sức mạnh nội tại chống lại chủ nghĩa McCarthy, bởi vì đó là chính nghĩa. Thứ đã phá hủy Đảng Cộng Sản là bài phát biểu của Khrushchev,” đề cập tới việc thủ tướng Nikita Khrushchev của Soviet vào năm 1956 đã phơi bày các tội ác của Joseph Stalin.
Mặc dù khi đó tôi đã đủ trưởng thành và đủ quan tâm để bị ảnh hưởng bởi cuộc cách mạng Trung Quốc và Nga, tôi đã không bị ảnh hưởng. Tôi vẫn là người ca tụng chủ nghĩa tư bản và là một người chống cộng rất trung thành. Cuộc chiến tranh Việt Nam mới là Bè Lũ Bốn Tên và Nikita Khrushchev của tôi. Vào một ngày sau những ngày của năm 1964 và đầu năm 1965, tôi theo dõi tin tức cẩn thận, thu thập các thống kê hàng ngày về hỏa lực của Hoa Kỳ, các loại bom và số lượng xác chết. Tôi tràn đầy tự hào yêu nước về sức mạnh khổng lồ đang vẽ lại lịch sử của chúng tôi. Những từ ngữ như của Winston Churchill, về việc Hoa Kỳ tham gia vào Chiến Tranh Thế Giới thứ II, lại dễ dàng đi vào đầu óc – “Nước Anh sẽ sống, Vương Quốc Anh sẽ sống; khối thịnh vượng chung của các quốc gia sẽ sống.” Sau đó một ngày, tôi bị đánh bại đột ngột và không thể cắt nghĩa được. Ở những ngôi làng với cái tên xa lạ có người dân bị ném bom, mọi người bỏ chạy hoàn toàn vô vọng trước sự trừng phạt của khẩu súng máy mà chúa cũng phải khiếp sợ.
Kịch bản đó được tiếp diễn. Các bản tin vẫn hướng tôi vào sự tự hài lòng đúng đắn rằng chúng ta đang dạy cho những gã cộng sản khốn kiếp thấy là họ không thể thoát khỏi những thứ mà chúng ta muốn có. Khoảnh khắc tiếp theo, làn sóng ghê tởm đã nhấn chìm lòng tự hào về mọi thứ trong tôi. Thực ra, sự kinh tởm đã dìm chết qua lòng tự hào yêu nước, không bao giờ quay trở lại nơi mà tôi từng ở đó; nhưng khiến tôi cảm thấy sự vô vọng của chính sách đối ngoại Hoa Kỳ hết lần này đến lần khác, hết thập kỷ này qua thập kỷ khác.
Bộ não của con người là một cơ quan kỳ diệu. Nó hoạt động 24h một ngày, 7 ngày một tuần, và 52 tuần một năm, từ trước khi bạn rời khỏi bụng mẹ, cho đến ngày bạn bị nhiễm chủ nghĩa quốc gia. Ngày đó có thể đến rất sớm. Dòng tiêu đề mới đây trên tờ Washington Post: “Ở Hoa Kỳ, việc tẩy não bắt đầu ở nhà trẻ.”
Ôi, sự nhầm lẫn của tôi! Tiêu đề thực tế là: “Ở Bắc Triều Tiên, việc tẩy não bắt đầu ở nhà trẻ.”
Hãy để Cuba sống! Danh sách ma quỷ về những điều Hoa Kỳ đã làm với Cuba
Vào ngày 31 tháng 5 năm 1999, một vụ kiện trị giá 181 tỷ dollar về thiệt mạng oan ức, thương tích cá nhân và thiệt hại kinh tế chống lại Hoa Kỳ được khởi sự ở tòa án Havana. Sau đó vụ kiện cũng được tiến hành với Liên Hiệp Quốc. Kể từ khi đó, định mệnh của nó là một điều bí ẩn. 
Vụ kiện bao gồm 40 năm kể từ cuộc cách mạng năm 1959 của quốc gia và mô tả, với các chi tiết chắc chắn, các hành động xâm lược Cuba của Hoa Kỳ; cụ thể, thường xuyên có tên, ngày tháng và các tình huống đặc biệt, mỗi người được nhắc đến đều bị giết hại hoặc bị thương nặng. Trên hết, 3.478 người bị giết hại và 2.099 người khác bị thương nặng. (Con số này không bao gồm nhiều nạn nhân gián tiếp của việc Washington phong tỏa và gây áp lực kinh tế)
Vụ kiện, theo khái niệm pháp lý, rất dễ bị chìm xuồng. Vụ kiện về thiệt mạng vô cớ của các cá nhân, theo mệnh lệnh của những người sống sót và thương tích cá nhân của những người sống sót sau các thương tích nghiêm trọng. Không có vụ tấn công thất bại nào của Hoa Kỳ là phù hợp, do đó không có lời khai liên quan đến hàng trăm âm mưu ám sát thất bại đối với Chủ tịch Cuba Fidel Castro và các quan chức cao cấp khác, hay thậm chí là các vụ đánh bom mà không có ai bị chết hay bị thương. Thiệt hại về mùa màng, gia súc, hay kinh tế Cuba nói chung đã bị loại trừ, không có lời khai về việc đưa cúm lợn hay mốc thuốc lá vào hòn đảo này.
Mặc dù vậy, những bề ngoài của những cuộc chiến tranh sinh học và hóa học của Hoa Kỳ chống lại Cuba liên quan đến nạn nhân được mô tả chi tiết, rất đáng chú ý là vệc phát tán bệnh sốt xuất huyết vào năm 1981, trong thời kỳ đó có khoảng 340.000 người đã bị nhiễm bệnh và 116.000 phải nhập viện; đó là chuyện xảy ra ở quốc gia chưa từng trải qua một trường hợp dịch bệnh nào trước đó. Cuối cùng, 158 người, trong đó có 101 trẻ em, đã chết. Chỉ có 158 trong số 116.000 người nhập viện đã chết là lời khai về khu vực y tế công cộng đáng chú ý của Cuba.
Đơn kiện mô tả chiến dịch tấn công hàng không và hàng hải chống lại Cuba diễn ra vào tháng 10 năm 1959, khi tổng thống Hoa Kỳ Dwight Eisenhower chấp thuận một chương trình bao gồm ném bom các nhà máy đường, đốt cháy các cánh đồng mía, tấn công bằng súng vào Havana, thậm chí là cả các tàu hỏa chở hành khách.
Một phần khác của đơn kiện mô tả các nhóm khủng bố có vũ trang los banditos, những kẻ đã tàn phá hòn đảo trong 5 năm, từ năm 1960 đến năm 1965, khi nhóm cuối cùng bị bao vây và đánh bại. Những băng nhóm đó khủng bố những nông dân nhỏ, tra tấn và giết hại những người bị coi là (thường không đúng) người ủng hộ tích cực của cuộc cách mạng; đàn ông, đàn bà và trẻ em. Nhiều giáo viên tình nguyện viên trẻ của chiến dịch xóa mù chữ cũng là nạn nhân của những kẻ thủ ác đó.
Dĩ nhiên là cả vụ xâm lược tai tiếng Vịnh Con Lợn vào tháng 4 năm 1961. Mặc dù toàn bộ sự kiện chỉ diễn ra trong vòng chưa đầy 72 giờ, 176 người Cuba bị giết và 300 người nữa bị thương, 50 người trong số họ bị tàn tật vĩnh viễn.
Đơn kiện cũng mô tả cuộc chiến trừng phạt và khủng bố bất tận bao gồm đánh bom tàu bè và máy bay cũng như cửa hàng và văn phòng. Ví dụ kinh khủng nhất về sự trừng phạt dĩ nhiên là vụ đánh bom máy bay của Cuba trên bầu trời Barbados vào năm 1976 khiến cho 73 hành khách thiệt mạng. Những vụ giết hại các nhà ngoại giao và quan chức Cuba diễn ra khắp thế giới, trong đó có một vụ xảy ra trên đường phố New York vào năm 1980. Chiến dịch này tiếp diễn vào những năm 1990, với những vụ sát hại cảnh sát, binh lính và thủy thủ vào năm 1992 và 1994, chiến dịch đánh bom khách sạn vào năm 1997 khiến một người nước ngoài thiệt mạng, một chiến dịch nhằm mục đích đe dọa khách du lịch và dẫn đến việc sĩ quan tình báo Cuba được gửi tới Hoa Kỳ để ngăn chặn các vụ đánh bom; từ hàng ngũ của họ xuất hiện Nhóm Năm Cuba.
Ngoài những chuyện kể trên còn có thể nhắc tới nhiều hoạt động tống tiền, bạo lực và trừng phạt do Hoa Kỳ và các nhân viên của chính quyền thực hiện trong 16 năm kể từ khi vụ kiện bắt đầu. Sự tổn thương sâu sắc và thiệt hại mà người dân Cuba phải gánh chịu có thể coi như một vụ 11 tháng 9 của hòn đảo.

Vinh hay nhục cái nghề làm báo


LẠI THÊM MỘT KẺ “ NGÁO ĐÁ” HOANG TƯỞNG VỀ CHÍNH TRỊ.



“Ngáo đá” là kẻ sử dụng ma túy đá. Ma túy đá là một loại ma túy có hàm lượng ma túy cao, khiến cho người dùng không chỉ cực “ phê” mà còn làm cho người ta rơi vào trạng thái hoang tưởng. Hiện nay có không ít vụ án hình sự, kẻ giết người thân ( vợ, con, mẹ, người yêu) do sử dụng ma túy đá. Chẳng hạn họ nghĩ rằng mình đang là người đau khổ  ( khiến họ có thể tự sát); có khi lại nghĩ rằng mình là anh hùng (khiến người ta nghĩ mình có thể làm những việc phi thường như cứu người, giết người…). Nghuy hiểm nhất là “ ngáo đá” lẫn lộn thực tế với ảo giác. Trong không gian mạng hiện nay cũng đang tồn tại những kẻ “ngáo đá” chính trị. Họ cũng “nghiền” thứ ma túy đá chính trị, đó là mô hình dân chủ, nhân quyền ngoại nhập mà nhiều người gọi là sùng bái phương Tây. Họ cũng hoang tưởng ngỡ mình là vĩ nhân, là thiên tài, phát hiện ra khái niệm chính trị mới, lẫn lộn lịch sử, thực tế với mong muốn chính trị chủ quan khi viết về sự tồn vong và phát triển của dân tộc Việt Nam trong thế kỷ XX ( cho đến nay).
Đài  RFA (Châu Á tự do ) vừa qua đã phát tán bài viết của một kẻ chống Cộng về lịch sử Việt Nam trong thế kỷ XX. Điều này cũng có thể xem là xuất hiện thêm một kẻ “ngáo đá” hoang tưởng về chính trị. Ông ta cho rằng, 70 năm qua ( từ 1945-2015 ), kể từ khi nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hòa ( nay là nhà nước CHXHCN Việt Nam ra đời đến nay), trong đó có 2 cuộc kháng chiến chống đế quốc xâm lược do Đảng cộng sản Việt Nam lãnh đạo là “ thời gian bị mất trong lịch sử”!
 Bây giờ chúng ta hãy xem lập luận của ông ta đúng sai như thế nào?
Trước hết, khái niệm về khái niệm “ Thời gian bị mất trong lịch sử”. Đây vốn là một ý tưởng mà Y đã coppy của những kẻ chống cộng Ba Lan ( họ không thừa 44 năm sự tồn tại của chế độ “cộng sản” ở Ba Lan là chế độ cộng hòa) , từ đó Y suy ra 70 năm qua đối với Dân tộc ta “ không phải là chế độ cộng hòa! cũng là “thời gian bị mất”!
Cũng vì hoang tưởng chính trị mà Y xem ở Việt Nam, chính phủ tay sai phát xít Nhật do Trần Trọng Kim đứng đầu, ( chỉ tồn tại được 5 tháng, từ tháng 4 năm 1945 – tháng 8/ 1945) cùng với chế độ xã hội do Mỹ thống trị ở miền Nam là “chính thể Cộng hoà” . Tất nhiên với Y đây không phải là chữ nghĩa mà là một chế độ xã hội tốt đẹp! Về chế độ chính trị ở Miền Nam từ khi Mỹ xâm lược Y nói : “Mặc dù đây là một chính quyền thân Mỹ nhưng nó đảm bảo những yếu tố cơ bản của một nhà nước Cộng hoà”! Thực tế có xác nhận điều Y nói không?
Rõ ràng chỉ có những kẻ mang đầu óc nô lệ mới dùng các mô hình ngoại nhập, ( ở đây là tư duy chính trị) làm tiêu chuẩn cho dân tộc mình. Về thực tế lịch sử thì Y bỏ qua “thành tích” đặc sắc của chế độ cộng hòa đó. Chẳng hạn như hàng vạn người dân yêu nước đã bị lên máy chém theo Luật 10/59, hàng ngàn người trong nhà tù Côn Đảo (được gọi là địa ngục trần gian) đã bị bọn cai ngục đổ vôi bột xuống các “chuồng cọp” giam giữ các tù nhân chính trị, thậm chí chúng còn đóng đinh vào đầu gối, mắt cá chân và cả vào đầu nhiều người yêu nước. Ấy là chưa kể tổng thống Ngô Đình Diệm, người đứng đầu chế độ “ cộng hòa” “độc lập” đã bị chết thảm do ông chủ Hoa Kỳ “thay ngựa giữa dòng”. Phải chăng đó là chế độ       “ cộng hòa” chân chính, tốt đẹp của dân tộc Việt Nam? Cũng vì là kẻ “ ngáo đá”, nên trên bài viết Y đã “ suy bụng ta ra bụng người”, đồng nhất chế độ tay sai phát xít Nhật với chính quyền Sài Gòn thân Mỹ. Điều này chắc sẽ có không ít người xem đây là một điều xúc phạm.
Thức hai, Y đã đổi trắng thay đen, “gắp lửa bỏ tay người”. Y đổ lỗi cho chế độ xã hội do Đảng cộng sản Việt Nam lãnh đạo khiến cho hàng trăm ngàn người di tản và đã chết trên biểm.
Những người có đôi chút tri thức, hoặc có nhân cách thì phải hiểu rằng nói chung sự lựa chọn chế độ chính trị không thuộc nhận thức của cá nhân mỗi người, đơn giản vì người ta chưa có kinh nghiệm sống trong một chế độ xã hội chưa tồn tại. Bởi vây sự lựa chọn chế độ chính trị của người dân thường thì đều do bộ máy tuyên truyền của nhà nước “ hướng dẫn”. Trong trường hợp bài báo nói trên, đó là một sự hoang tưởng về chính trị khi Y cho rằng: Sở dĩ hàng trăm ngàn người rời bỏ quê hương là vì bộ máy tuyên truyền của chính quyền Sài Gòn. Người sống ở Sai gòn khi đó còn nhớ trên đài phát thành của chính quyền này ra rả rằng: “ sẽ có tắm máu” khi Việt Cộng vào thành phố! Rút cuộc chẳng thấy tắm máu đâu mà chỉ thấy “thuyền nhân” tử nạn trên biển do bộ máy truyên truyền Sài Gòn lừa gạt.
Thứ ba, về chế độ xã hội từ 1945 đến nay, Y cho rằng : “ Đảng Cộng Sản Việt Nam đã biến cả nước thành một nhà tù khổng lồ, nơi mà an ninh theo dõi kiểm soát, chi phối từng hoạt động của mỗi người… Một chế độ bất nhân và vong bản, chỉ đáp ứng ít nhiều về vật chất nhưng hoàn toàn giam hãm tư tưởng của con người trong một học thuyết ngoại lai, không tưởng: học thuyết Mác-Lenin”.
Không phủ nhận rằng trong gần 3/4 thế kỷ qua, sự lãnh đạo nhà nước và xã hội của Đảng cộng sản Việt Nam, trong điều kiện “thù trong, giặc ngoài”, đã phạm phải một số sai lầm nào đó, chẳng hạn như cải cách ruộng đất, xóa bỏ kinh tế thị trường, sở hữu tư nhân, …do bệnh giáo điều về lý luận hoặc học hỏi kinh nghiệm của nước ngoài một cách máy móc…Nhưng liệu ai có thể phủ nhận được chân lý lịch sử: 
(1) Độc lập dân tộc chủ quyền Quốc gia, thống nhất đất nước là thành quả  của Dân tộc ta do Đảng cộng sản Việt Nam lãnh đạo!
(2) Chế độ chính trị  của Việt Nam đã có những thay đổi cơ bản, từ khi Đảng thực hiện đường lối đổi mới ( từ 1986). Đến nay Việt Nam đang xây dựng chế độ hướng tới mục tiêu : Dân giầu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.
Về xã hội Việt Nam, Chương II, Hiến pháp 2013 đã quy định ở nước CHXHCN Việt Nam các quyền con người được ghi nhận tôn trọng và bảo đảm.
(3) Về kinh tế, Việt Nam hiện nay đang hoàn thiện nền kinh tế thị trường định hướng  XHCN với nghĩa, đó là nền kinh tế đó hướng trong khi tuân thủ quy luật thị trường vẫn hướng tới lợi ích của cả xã hội chứ không phải nhằm bảo đảm quyền làm giầu cho một số nhỏ người.  Đó cũng không phải là chính sách kinh tế : “ vỗ béo để làm thịt” như có kẻ hù dọa. Hiện nay Việt Nam đang là thị trường có sức thu hút đầu tư hàng đầu ở Đông Nan Á.
(4 ) Về đối ngoại, vị trí và vị thế của nước CHXHCN Việt Nam ngày càng được nâng cao.
Tới thời điểm này, Việt Nam đã thiết lập quan hệ ngoại giao với hơn 180 quốc gia với nhiều cấp độ khác nhau, trong đó có quan hệ đối tác chiến lược với 13 quốc gia gồm Nga (2001), Ấn Độ (2007),  Nhật Bản (2006); Trung Quốc (2008), Hàn Quốc, Tây Ban Nha (2009), Anh (2010), Đức (2011), Italy, Thái Lan, Indonesia, Singapore, Pháp (2013); quan hệ đối tác toàn diện với 4 quốc gia gồm Australia (2009); New Zealand (2010), Đan Mạch, Hoa Kỳ ( đối tác toàn diện 2013); và đối tác chiến lược theo lĩnh vực với Hà Lan. Như vậy là, Việt Nam đã xác lập quan hệ đối tác chiến lược, đối tác toàn diện với tất cả 5 quốc gia thành viên thường trực của Hội đồng Bảo an Liên Hợp Quốc (LHQ).
Cho dù  xã hội Việt Nam đang có nhiều vấn đề, nhất là sự suy thoái về đạo đức, lối sống của cán bộ, đảng viên, công chức chưa được đẩy lùi thì việc phủ nhận thực tế cũng như phủ nhận lịch sử không phải là chuyện dễ. Là kẻ “ ngáo đá”, hoang tưởng về chính trị, tác giả “ Thời gian bị mất trong lịch sử” vẫn không thể không chịu trách nhiệm với vong linh những người đã khuất càng không thể không phải chịu trách nhiệm trước tòa án lương tâm.
Thanh Hà

Nghĩ gì về bài viết “ Bốn lý do suy giảm niềm tin”

Tác giả Bùi Công Dụng đăng tải trên mang bài “Bốn lý do suy giảm niềm tin” bằng cách khai thác một số khuyết điểm, một số hiện tượng trong Đảng Cộng sản Việt Nam rồi tuyệt đối hóa, làm như thể Đảng đã mất hết lòng tin , làm như thể tất cả Đảng viên không còn niềm tin ở Đảng. Và, như thế xét về logic tác giả muốn dẫn người ta đến chỗ nhận thức rằng ĐCSVN sẽ sụp đổ. Xuyên tạc thực trạng Đảng, xuyên tạc bản chất Đảng, kích động người đọc không tin, không nghe Đảng nữa, đó chính là cái động cơ chính trị tư tưởng của tác giả.
Khái quát thành một nhận định Đảng coi thường luật pháp, Đảng chưa coi trọng kỉ cương phép nước, thì đó là một sự xuyên tạc thực trạng lãnh đạo của Đảng. Cần nhớ rằng chính Đảng lãnh đạo việc sửa đổi, bổ sung hiến pháp trong năm 2013 vừa qua, chính Đảng đã lãnh đạo xây dựng luật hàng năm và lãnh đạo các ngành, các cấp tổ chức thực hiện , chính Đảng lãnh đạo các hoạt động của Quốc hội và Hội đồng nhân dân các cấp, hoạt động của Viện kiểm sát nhân dân và Tòa án nhân dân các cấp. Đảng lãnh đạo thông qua các Đảng đoàn, các Ban cán sự Đảng, các tổ chức Đảng và đảng viên. Không phủ nhận rằng có một số ít đảng viên vi phạm pháp luật, sống thiếu kỉ luật, nhưng từ đó quy thành thực trạng của toàn đảng thì đó lại là sự xuyên tạc, bôi nhọ Đảng.
Đảng Cộng sản Việt Nam cũng nhiều lần chỉ ra rằng một số không ít những vấn đề lí luận về chủ nghĩa xã hội, về đảng cầm quyền cần phải nghiên cứu làm sáng tỏ. Điều này dễ hiểu, vì chủ nghĩa xã hội là một vấn đề mới mẻ của xã hội loài người, nhất là xây dựng chủ nghĩa xã hội từ một nước kinh tế kém phát triển như nước ta thì chưa có tiền lệ, chưa có nhiều kinh nghiệm. Song điều đó không thể đi đến chỗ xổ toẹt trình độ lý luận của Đảng, bịa đặt rằng hiện nay Đảng Cộng sản Việt Nam không có cơ sở lý luận để dẫn dắt dân tộc. Tác giả Bùi Công Dụng viết rằng “Đảng viên, tầng lớp trí thức của đất nước và người dân đều có suy nghĩ rằng Đảng ta đang bị khủng hoảng rất lớn và bế tắc về lý luận chính trị…” Trong văn học người ta gọi lối nói ấy là nói quá, nói cường điệu, thổi phồng. Căn cứ vào thực tiễn thì có thể nói đó là lối nói mang tính áp đặt, xuyên tạc. Căn cứ vào đâu mà tác giả dám nói rằng mọi đảng viên, mọi trí thức, mọi người dân đều có suy nghĩ giống tác giả. Nên nhớ rằng Đảng Cộng sản Việt nam có “Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kì quá độ lên Chủ nghĩa xã hội” Đó là cơ sở lý luận chung, tổng quát để Đảng lãnh đạo toàn dân tộc trong giai đoạn mới. Tuy cần có những nhận thức mới, đúng đắn về chủ nghĩa Mác-Lenin cho phù họp với những biến đổi sâu sắc của xã hội loài người trong thế kỉ XXI, Đảng và nhân dân ta vẫn thừa nhận chủ nghĩa Mác-Lenin và tư tưởng Hồ Chí Minh là nền tảng tư tưởng, lý luận, kim chỉ nam cho hành động của chúng ta. Vậy không thể trắng trợn nói Đảng không rõ cơ sở lý luận của mình để lãnh đạo dân tộc. Còn hiện tượng một vài đảng viên tự ra khỏi Đảng do không còn tán thành Cương lĩnh và Điều lệ Đảng hoặc một vài đảng viên bị đưa ra khỏi Đảng vì họ không còn hoạt động theo Cương lĩnh và Điều lệ của Đảng nữa, thì điều đó cũng là bình thường đối với một đảng chính trị, là bình thường đối với tổ chức và sinh hoạt của Đảng Cộng sản Việt Nam, và không thể vì thế mà mơ tưởng về sự sụp đổ của Đảng Cộng sản Việt Nam.
Hà Nội, 16-4-2015
Phạm Lý

Thứ Năm, 16 tháng 4, 2015

Bịa đặt của trang Boxit và sự thật về cải cách ruộng đất

Sau khi Ngô Đình Diệm phá hoại Hiệp Định Paris, từ chối tổng tuyển cử, đã dựng lên cái được gọi là tắm máu trong cải cách ruộng đất ở miền Bắc Việt Nam dưới chế độ cộng sản để tuyên truyền, bôi nhọ những người cộng sản và biện minh cho tội lỗi của mình. Nửa thế kỷ đã trôi qua, chiến tranh đã kết thúc, câu chuyện cũ không còn mấy người nhắc tới. Nhưng mới đây, trang Boxit, vốn tự xưng là "Tiếng nói phản biện nhiều mặt của người trí thức" đã tiếp tục nhai lại những bịa đặt trắng trợn về cải cách ruộng đất.
Trong bài "Bi kịch của kẻ sĩ dưới chế độ Đảng trị" đăng ngày 15 tháng 8 năm 20014, ban biên tập Boxit đã đăng lời dẫn có đoạn như sau:
"Chế độ Đảng trị ở Việt Nam mới tồn tại được 70 năm nhưng nó đã gây ra vô vàn bi kịch cá nhân và tập thể. Trong các triều đại phong kiến, chưa thấy sử sách nào ghi lại một cuộc cải cách ruộng đất có quy mô hủy diệt và quy mô đau khổ giống như cuộc cải cách ruộng đất thời Đảng trị,..."

"Chưa thấy cá nhân nào, tổ chức nào làm cái việc thống kê xem Cuộc cải cách ruộng đất 1953 - 1955 có bao nhiêu người bị giết, bao nhiêu gia đình bị đẩy vào cảnh cùng đường, bao nhiêu người bị tù đày? Không ai biết, không ai thống kê, nhưng chắc chắn con số đó phải hàng triệu. "
Cải cách ruộng đất ở miền Bắc những năm năm mươi của thế kỷ trước đã được rất nhiều học giả trên thế giới nghiên cứu và họ đã chỉ ra rằng phần lớn các con số thống kê là bịa đặt và phóng đại nhằm mục đích tuyên truyền, nhưng ban biên tập của Boxit lại trắng trợn bịa đặt là không có ai nghiên cứu hay thống kê. Kết quả của cải cách ruộng đất là rất tích cực song trang Boxit đã lờ đi, họ chỉ tung ra những lời mập mờ phóng đại về mặt tiêu cực để bôi đen lịch sử, bôi nhọ chính quyền thời đó, và tất nhiên là để tấn công chế độ hiện tại.
Cải cách ruộng đất khi ấy là cần thiết để đem lại ruộng đất cho người nông dân và nhanh chóng thanh toán các tàn dư của chế độ phong kiến, chỉ có như vậy mới đảm bảo được đời sống của đại đa số dân chúng. Điều đáng tiếc là trong quá trình thực hiện đã xảy ra sự lạm dụng ở một số nơi, song Đảng đã kịp thời chỉnh đốn, sửa sai và kỷ luật nhiều quan chức lãnh đạo. Chính trong hoàn cảnh đó, lần đầu tiên người nông dân vốn suốt an phận sau lũy tre làng thấy tiếng nói của mình có thể vươn đến tận chính quyền trung ương, đó là điều mà suốt hàng nghìn năm lịch sử chưa bao giờ họ có được. Không chỉ có ruộng đất để cày cấy mà họ còn được trải nghiệm một chế độ thực sự dân chủ, chính điều ấy đã giúp cho người nông dân chân lấm tay bùn có đủ sức mạnh để đánh bại đế quốc số một thế giới. 
Kẻ bịa đặt trắng trợn nhất về cải cách ruộng đất là một tay sai của chính quyền Sài Gòn, một người có tên là Hoàng Văn Chí. Trang Boxit luôn đăng ảnh tướng Giáp trên đầu trang, nhưng khi họ nhai lại những điều bịa đặt của Hoàng Văn Chí thì họ không biết rằng cũng đang nhai lại những điều mà Hoàng Văn Chí đã vu khống cho tướng Giáp.
Xin mời bạn đọc tham khảo bản dịch bài viết "Cải cách ruộng đất giữa những năm năm mươi" trích từ chương 3: Nefarious and Mythical Bloodbath trong cuốn sách "Counter-Revolutionary Violence: Bloodbaths in Fact and Propaganda"  của hai giáo sư người Mỹ là Edward S. Herman và Noam Chomsky để thấy trang Boxit đã bôi nhọ lịch sử ra sao. Cũng cần phải nói thêm là cuốn sách này đã được xuất bản từ năm 1973, trước khi chiến tranh ở Việt Nam kết thúc.
Cải cách ruộng đất giữa những năm năm mươi
Trong một phát biểu vào ngày 3 tháng 11 năm 1969, tổng thống Nixon đã nói về việc Cộng Sản Bắc Việt giết hại hơn 50.000 người sau khi họ nắm quyền ở miền Bắc những năm năm mươi. Sáu tháng sau, trong một bài phát biểu vào ngày 30 tháng 4 năm 1970, ông ta lại tăng con số đó lên “hàng trăm ngàn”, hàng trăm ngàn người đã phải nếm trải sự tàn sát và sự dã man của Cộng Sản Bắc Việt. Sau đó một tuần, vào ngày 5 tháng 8 năm 1970, dường như là hoảng loạn trước phản ứng của công chúng về cuộc xâm lược Campuchia của ông ta, ngài Nixon đã viện dẫn đến hình ảnh “hàng triệu” thường dân có thể bị thảm sát nếu miền Nam Việt Nam bị sát nhập vào miền Bắc. Tiếp đó, trong sự trơ tráo vô liêm sỉ của buổi trả lời báo chí vào ngày 16 tháng 4 năm 1971, tổng thống Nixon tường thuật rằng “nửa triệu người, theo một ước lượng có cân nhắc nhất… đã bị Bắc Việt sát hại hay xử tử theo cách nào đó”. Rõ ràng là tính tin cậy có vấn đề khi có hàng loạt các con số khác nhau mỗi tuần về số nạn nhân, nhưng có ba yếu tố cơ bản trong việc thảo luận về huyền thoại tắm máu này.
Thứ nhất, bất kể là con số nào liên quan đến việc lạm dụng cải cách ruộng đất ở Bắc Việt, chúng rất ít hoặc không liên quan đến hành động trả thù việc hợp tác với Pháp. Ngay cả khi các nguồn tin dựa vào các nhà tuyên truyền chính thống thì các nạn nhân được xác định trước hết là địa chủ bị trừng phạt bởi các cáo buộc áp bức tá điền trong quá khứ, hơn là những người hợp tác với Pháp trong thời kỳ chiến tranh. Do đó, các âm mưu sử dụng giai đoạn này là bằng chứng cho một vụ tắm máu chắc chắn nhằm trả thù sự hợp tác với người Mỹ hay bất hợp tác trong thời kỳ tiếp tục kháng chiến là phóng đại.
Thứ hai, chế độ Bắc Việt bị bối rối bởi sự lạm dụng cải cách ruộng đất, họ đã công khai thừa nhận sai lầm, trừng phạt rất nhiều những quan chức đã tạo ra hay cho phép sự bất công, và triển khai cải cách hành chính để ngăn chặn sự tái diễn. Một cách ngắn gọn, chế độ Bắc Việt đã cho thấy khả năng phản ứng trước sự lạm dụng và kịp thời đáp ứng được lợi ích và nhu cầu của nông thôn. [191] Đó là “sự thật cay đắng” đối với giáo sư Samuel Huntington về “sự ổn định chính trị tương đối” của Bắc Việt, đối lập với miền Nam, dựa trên sự thật là “tổ chức của đảng Cộng Sản vươn tới các khu vực nông thôn và cung cấp một kênh truyền thông về sự bất bình của nông thôn tới trung ương và phục vụ cho việc kiểm soát lãnh thổ của chính quyền”. [192] Thứ mà Huntington quên là lợi ích giai cấp không ngăn cản chế độ Bắc Việt phản ứng có tính xây dựng đối với sự bất bình của nông thôn. Ở miền Nam, như Jeffrey Race đã chỉ ra, ngay cả khi tầng lớp chóp bu phản cách mạng nhận được các tài liệu thể hiện sự bất bình của nông thôn mà những người nổi dậy cảm thấy họ có thể lợi dụng (cũng như cung cấp các chương trình phù hợp) thì “chính quyền không phát triển những chính sách thích hợp để ngăn chặn việc lợi dụng những vấn đề đã được đề cập trong tài liệu”. [193]
Thứ ba, tất nhiên quan trọng nhất đối với các mục tiêu hiện tại, nguồn căn bản của ước lượng bừa bãi về việc giết chóc trong cải cách ruộng đất ở miền bắc Việt Nam là các thành phần hợp tác với CIA hay bộ tuyên truyền Sài Gòn. Theo một người công giáo Việt Nam hiện sống ở Pháp, đại tá Nguyễn Văn Châu, người đứng đầu Cục Tâm Lý Chiến Trung Ương của quân đội Sài Gòn từ năm 1956 đến 1962, những con số của “vụ tắm máu” trong cải cách ruộng đất được cơ quan tình báo Sài Gòn “bịa đặt 100%”. Theo đại tá Châu, một chiến dịch bôi nhọ có hệ thống bằng cách sử dụng các tài liệu giả mạo đã được thực hiện suốt những năm 1950 để biện minh cho việc Diệm từ chối đàm phán với Hà Nội về việc chuẩn bị tổng tuyển cử thống nhất vào năm 1956. Theo Châu thì các tài liệu giả mạo được hỗ trợ bởi các nhân viên tình báo Anh và Mỹ, họ đã giúp thu thập các tài liệu đáng tin cậy nhưng có cơ sở hợp lý để đưa vào đó những giấy tờ giả mạo, chúng được “phân phát cho nhiều các nhóm chính trị khác nhau và cho các nhóm nhà văn cũng như nghệ sĩ, những người đó sử dụng tài liệu bị làm sai lệch để thực hiện chiến dịch tuyên truyền”.[194]
Nguồn thông tin chính gốc về cải cách ruộng đất trong suốt nhiều năm là tác phẩm của Hoàng Văn Chí, một địa chủ giàu có ở Bắc Việt, được bộ thông tin Sài Gòn, CIA và các nguồn chính thống Hoa Kỳ khác tuyển dụng và trợ cấp trong nhiều năm. [195] Mới đây, D. Gareth Porter đã thực hiện phân tích chi tiết đầu tiên về công trình đó và cho biết rằng kết luận của Chí dựa trên hàng loạt các lời nói dối, các tài liệu không tồn tại, cũng như các dịch thuật đầy thiên kiến và dối trá về các văn bản có thực. Ví dụ, Chí tuyên bố rằng nhà cầm quyền Bắc Việt đã đặt hạn mức tối thiểu là ba địa chủ bị xử tử ở mỗi làng, nhưng thực tế là họ đặt hạn mức tối đa là ba người có thể bị lên án và xét xử, chứ không phải bị xử tử. [196] Trong một đoạn khác Chí trích dẫn lời ông Giáp khi ông nói, “Sự tồi tệ vẫn tiếp diễn, tra tấn được coi là việc bình thường trong thời kỳ chỉnh đốn Đảng”, nhưng thực ra ông Giáp nói: “Thậm chí sự áp bức đã được sử dụng để chỉnh đốn Đảng”. Trong một đoạn khác được Chí trích dẫn như là bằng chứng về kế hoạch nhằm “cố ý khủng bố quá mức” đã được Porter chỉ ra là “trường hợp đơn giản về dịch thuật có định kiến nhằm mục đích tuyên truyền”. [197]
Ước lượng về 700.000 hay 5% dân số Bắc Việt, là nạn nhân của cải cách ruộng đất mà hiện nay Chí khẳng định là “ước đoán”, dựa trên kinh nghiệm về làng của ông ta, nơi có 10 người chết trên tổng số 200 người dân, mặc dù chỉ có duy nhất một người thực sự bị xử tử. [198] Do Chí đã được chứng minh là sẵn sàng nói dối, con số người chết trong cải cách ruộng đất mà ông ta đưa ra khó có thể là sự thật, [199] nhưng phép ngoại suy của ông ta trong ví dụ về toàn bộ Bắc Việt Nam, thậm chí ngay cả khi Chí khẳng định rằng không phải là phổ biến, đã không được thảo luận. Mặc dù vô giá trị về mặt khoa học, và chắc chắn là bịa đặt nhằm mục đích tuyên truyền, “ước đoán” của Chí đã phục vụ tốt suốt nhiều năm trong việc cung cấp các ước lượng có căn cứ và “có cân nhắc”, không chỉ cho các lãnh đạo chính trị và các kênh truyền thông của họ mà cho cả các nghiên cứu nghiêm túc về chiến tranh. Bernard Fall đã bị Chí lôi kéo, và Frances Fritzgerald trong tác phẩm đầy ảnh hưởng của bà ta “Fire in the Lake"  tiếp nối Fall đã đưa ra một “ước đoán có cân nhắc” rằng “khoảng năm mươi ngàn người ở mọi tầng lớp kinh tế đã bị sát hại” trong cuộc cải cách ruộng đất. [200] Do họ có danh tiếng là những người chống chiến tranh, Fall và Fritzgerald đã đóng một vai trò đặc biệt quan trọng trong việc dựng lên một huyền thoại được phổ biến liên tục suốt ba thập kỷ.[201]
Dựa trên một phân tích về các thống kê chính thức và các tài liệu đáng tin cậy, cộng với ước lượng của chính quyền Diệm vào năm 1959, Porter [202] đã kết luận rằng phạm vị thực tế của việc xử tử trong cải cách ruộng đất có thể nằm trong khoảng từ 800 đến 2.500 người. Đó là một con số đáng chú ý, mặc dù giới hạn tối đa của việc xử tử trong ước lượng của Porter thấp hơn rất nhiều so với sự thảm sát bừa bãi chỉ trong một chiến dịch Speedy Express được mô tả phía trên – và người dân Bắc Việt không vinh danh trách nhiệm của đảng trong việc lạm quyền.

Danh mục tài liệu tham khảo của tác giả từ [191] đến [202]

[191] This system of responsiveness extends into the military sphere, helping to explain the "astonishing" fighting capacity and "almost incredibly resilient morale" of DRV soldiers, who benefit from a system of "morale restitution. designed to lend great emotional and physical support to its members," a system which "anticipates and alleviates possible future morale troubles." Kellen, op. cit., p.9. 192] In R. N. Pfeffer, ed., No More Vietnams? , Harper and Row (1968), p.227.
[193] Race, op. cit., pp.182-183, note 22.
[194] Diane Johnstone, "'Communist Bloodbath' in North Vietnam is Propaganda Myth, says former Saigon Psychological Warfare Chief," St. Louis Post-Dispatch (September 24,1972).
[195] The analysis that follows is based on D. Gareth Porter, The Myth of the Bloodbath: North Vietnam's Land Reform Reconsidered, International Relations of East Asia, Interim Report No.2, Cornell (1972).
[196] Ibid., pp.26-28.
[197] Ibid., pp.44-45.
[198] "Figure on N. Vietnam's Killing 'Just a Guess,' Author Says," The Washington Post (September 13,1972).
[199] Late 1954 was also a period of famine in much of North Vietnam, affecting the very area in which Chi had lived, which further compromises his inferences drawn from a count of village deaths by starvation.
[200] Fire in the Lake, Little, Brown, 1972, p.223. Fitzgerald gives no footnote reference for this "conservative estimate," but she relies heavily on Fall and her language here is similar to his.
[201] Michael Harrington writes that he and other "socialist cadre . . . knew that Ho and his comrades had killed thousands of peasants during forced collectivization in North Vietnam during the '50s (a fact they themselves had confessed). Dissent (Spring 1973). In fact, the only known "confessions" are the fabrications that had been exposed many months earlier, and neither Harrington nor other western observers "know" what took place during the land reform. U.S. government propagandists can rest unperturbed, despite the exposures of earlier fabrications.
[202] Porter, Op. cit., p.55.

Nào, ta cùng làm luật biểu tình


Đâu là thực chất của việc "biểu tình" không chặt cây?!

Đi biểu tình "không chặt cây xanh" mà sao lại có những biểu ngữ không liên quan gì cây xanh vậy nè? Còn có cả "dân oan" nữa?
Thích · Bình luận ·

Nghĩ kỹ lắm rồi: DLV

Từ sự việc một số thanh niên mặc áo phông màu đỏ trên có logo với dòng chữ “DLV đấu tranh chống luận điệu xuyên tạc” tại Hồ Gươm hôm 14/3, đối chọi với những kẻ giả danh yêu nước đã trở thành vấn đề nóng, dai dẳng trên mạng. 
 Khẩu hiệu mà No-U dùng trong buổi tưởng niệm Gạc Ma
Căn nguyên là từ lời người đứng đầu CA Hà Nội trong họp báo đã khẳng định những người đó là "lực lượng tự phát", không thuộc lực lượng do Thành ủy, Ban Tuyên giáo hay Công an tổ chức và hứa sẽ xác minh về họ. 
Cùng với đó, ông Phan Đăng Long, Phó trưởng ban Tuyên giáo Thành ủy Hà Nội khẳng định: “Những dư luận viên của thành phố không bao giờ xuống đường”. DLV do ban Tuyên giáo tổ chức là "lực lượng gồm nhiều tầng lớp, thành phần như cựu chiến binh, phụ nữ, thanh niên, học sinh, sinh viên..." được bố trí ở các đơn vị, cơ sở dân cư để nắm tình hình dư luận quần chúng. 
Cái danh từ "Dư luận viên" có từ khi nào vậy? Còn nhớ, vào năm ngoái, tại Hội nghị công tác tuyên giáo toàn quốc, Trưởng ban tuyên giáo Thành ủy Hà Nội, ông Hồ Quang Lợi cho biết, Hà Nội đã có 900 dư luận viên trên toàn thành phố thực hiện nhiệm vụ tuyên truyền. Bên cạnh đó còn có các “nhóm chuyên gia” đấu tranh trực diện, tham gia bút chiến, xây dựng 19 trang tin điện tử và hơn 400 tài khoản trên mạng.
Ngay sau hội nghị, mạng mẽo cũng đã ồn ào về chuyện DLV, nhưng sau đó có lẽ nhận thấy việc đó cũng là cần thiết để chính quyền nắm bắt được tâm tư, dư luận quần chúng nên đã lắng xuống. Chỉ có vài trang mạng cố lăn vào năm ăn, năm thua để chứng minh rằng DLV là công cụ bất hợp pháp của chính quyền. Việc đó là vô ích, vì rằng nó là lực lượng đã có từ lâu, đã được chính quyền công khai danh tính, cách thức tổ chức, phương thức hoạt động qua hai cuộc kháng chiến rồi. Nay ông Hồ Quang Lợi cho biết tên gọi mới, số lượng lực lượng này thì cũng chẳng có gì lạ. Hà Nội có đến 30 quận, huyện, thị xã với 587 xã, phường, thị trấn thì đội ngũ 900 "Dư luận viên" được bố trí ở cơ sở không phải là nhiều. Xưa nay việc tổ chức lực lượng báo cáo viên, tuyên truyền viên đến tận cơ sở là việc mà chính quyền nơi nào cũng làm, nay có thêm chức năng nắm dư luận quần chúng thì càng có ích cho phương thức dân chủ. Sự thật là, chẳng có chế độ nào, nhà nước nào bỏ trống hoặc buông lỏng việc truyền bá tư tưởng, chính sách, pháp luật... của họ cả. Hình thức, binh chủng tuyên truyền có nhiều và trong đó có cộng tác viên tuyên truyền ở cơ sở là cách làm phổ biến.
Vậy nhưng, sau khi xảy ra sự việc tại lễ tưởng niệm 64 chiến sỹ Gạc Ma ở khu vực Bờ Hồ, “Dư luận viên” là một từ hót và là cái cớ để các "nhà dân chủ" bôi nhọ, công kích chính quyền bằng việc đồng nhất lực lượng DLV được tổ chức của Thành ủy với DLV tự phát trong quần chúng hôm 14/3 nhằm kích động dân chúng. 
Thật nực cười và vô duyên, nếu chính quyền động viên được thành phong trào quần chúng tự nguyện để "phản biện", thậm chí "phản biểu tình" thì càng tốt và cũng nên làm việc đó. Mỗi chủ trương mà chưa được tuyên truyền tạo sự đồng thuận trong dân thì dễ gây xung đột. DLV rất cần, rất quan trọng cho xã hội dân chủ. Còn quần chúng tự phát mà hình thành lực lượng DLV của mình thì đấy cũng là điều tốt vì rằng chính quyền đã có sự đồng tình, hậu thuẫn của quần chúng.
Cái danh từ DLV (tự xưng) trở thành công khai bắt nguồn từ cuộc chiến trên mạng khi hai bên tố nhau. Phía DLV (tự phát) thì cho rằng, họ hành động chỉ với trách nhiệm với tổ quốc và bằng động cơ yêu nước, không vụ lợi vật chất nhưng các "nhà dân chủ" đã vu cho họ là "ăn lương 3 củ" (3 triệu/tháng) của Thành ủy. Một thời, những bạn trẻ này đã in áo "3 củ" để tuyên chiến với "rận" (từ họ gọi các tổ chức tự xưng "xã hội dân sự" như NO-U, CLB nhà báo tự do, Bầu bí tương thân...) Và từ đó "DLV" như là một tuyên ngôn tự xưng để tập hợp, đoàn kết những người có chung chí hướng tình nguyện "diệt rận". Hoạt động của họ rất thống nhất, nhanh nhạy thông qua thông tin trên mạng xã hội. Mỗi khi các nhóm "xã hội dân sự" có hoạt động gì đó bất thường được thông tin trên mạng liền bị họ phát hiện và đối phó. Họ là một lực lượng tự phát trải khắp đất nước và rất đông đảo trên mạng Internet. Tôi tin, nếu làm một phép thử nghiệm kêu gọi các DLV đổi avata thành cờ đỏ như năm nào chống giàn khoan HD981 của Tàu thì sẽ có hàng chục nghìn người hưởng ứng. 
Như vậy, với đất nước, DLV (tự nguyện, tự phát) là đáng quý, đáng tự hào của người Việt yêu nước, đáng mừng cho chính quyền.
 Những đứa trẻ bị No-U dẫn đi trong ngày tưởng niệm Gạc Ma                
Trở lại hiện tượng có nhiều bạn trẻ mặc áo có logo với dòng chữ: “DLV đấu tranh chống luận điệu xuyên tạc” cản trở một nhóm người đầu đeo băng Gạc Ma, tay cầm biểu ngữ chống Đảng cộng sản, xuyên tạc, vu cáo, kích động chống Đảng như: “Bè lũ nào đã ép 64 chiến sĩ làm bia đỡ đạn cho Tàu ở Trường Sa", "Đảng cộng sản hãy trả lại xương máu cho các liệt sỹ Trường Sa", “Đả đảo Nông Đức Mạnh tham nhũng, bán nước”… hôm 14/3 vừa rồi ở khu tượng đài Lý Thái Tổ Hà Nội. Phía các "nhà đấu tranh dân chủ" thì cho rằng: DLV hôm đó là công cụ của chính quyền tổ chức để áp chế họ; DLV là bất hợp pháp; Hành động DLV cản trở họ trong hoạt động tưởng niệm Gạc Ma là xúc phạm các liệt sỹ.
Cái lý DLV là công cụ của chính quyền xem ra không vững từ những phân tích nói trên. Cùng với đó, khi xã hội dân chủ phát triển thì cũng nên làm quen với hiện tượng dân chúng tự phát biểu thị ý nuốn của mình như mấy ngày qua ở khu công nghiệp Tân Tạo, trước đó là các cuộc xuống đường khắp trong và ngoài nước chống Trung Quốc hạ đặt giàn khoan trái phép ở Biển Đông. Hay xa hơn là hiện tượng áo vàng, áo đỏ trong các cuộc xuống đường ở Thái Lan để ủng hộ hay phản đối chính phủ. DLV quần chúng có quyền biểu thị thái độ của mình đối với NO-U, miễn sao hành động của họ có mục đích đúng đắn, không vi phạm pháp luật thì nên khuyến khích.
Cái lý DLV là bất hợp pháp cũng chẳng có gì thuyết phục. Vì rằng, kể cả trong trường hợp cách thức tổ chức của Hà Nội như ông Phạm Quang Lợi nói thì đấy là việc mặc nhiên của chính quyền, chẳng có gì sai. Kể cả đội ngũ DLV tự phát xuất hiện đối chọi với các "nhà dân chủ" trên đường phố cũng là hợp pháp khi động cơ của họ là vì dân tộc, không xâm phạm đến ANTT.
Xem lại băng hình thì thấy rằng, hành vi cản trở của họ là có thật, thậm chí có đôi chỗ nó đã gây tâm lý phản cảm cho người xem. Nhưng nếu xét kỹ về nguyên nhân thì thấy rằng: Những người đến tưởng niệm chiến sỹ Gạc Ma hôm đó đã khiêu khích bằng những khẩu hiệu vu cáo Đảng cộng sản. Những gương mặt đến tưởng niệm đã quá quen thuộc trong những hoạt động có tính đã kích, gây gỗ, kích động chống đối nhà nước mà các DLV đã nhận diện được. Đấy không phải là quần chúng tốt. DLV đã "ghét" họ nên sẵn sàng mạnh tay với họ là điều dễ hiểu. Họ ghét bọn chống Đảng núp dưới chiêu bài tưởng niệm nên họ làm vậy chứ không phải họ không tôn trọng các liệt sỹ Gạc Ma. Cái trò "tưởng niệm Gạc Ma" của No-U chỉ là cái bẫy khiêu khích, còn sự non nớt của DLV đã làm họ "sập bẫy". Đến cả ông Giám đốc CA TP cũng "sập bẫy" báo chí huống hồ gì họ. Tuy nhiên, khi tĩnh tâm lại, dân chúng đã đứng về phía họ và cả giới báo chí đã tôn trọng họ qua việc rút bài, sửa bài trên báo. Tôi cũng tin rằng, phát biểu với báo chí về "sẽ xác minh" của ông Giám đốc CA cũng chỉ là xã giao, chẳng cần chứng minh thì cũng biết ông ấy sẽ ủng hộ và bảo vệ các bạn. 
Nhiều DLV sau vụ việc này đã tỏ ra bực bội, "bất mãn" vì bị đặt vào vòng ngắm "xác minh" của CA và bị một số báo chí nói là cản trở người yêu nước. Ngược lại, một số "nhân sỹ cơ hội", nhóm NO-U, lực lượng chính của ngày hôm đó lại được lờ đi những hành động vu cáo Đảng, Nhà nước và một vài tờ báo còn tôn xưng là "người yêu nước". Thiết nghĩ, những dấu hiệu ủng hộ mạnh mẽ của dư luận thời gian qua cùng sự sửa sai của báo chí đã chứng minh DLV đã đúng. Họ đáng được ủng hộ. Không có gì phải "bất mãn" cả.
Có điều, qua đây đội ngũ DLV cũng nên rút kinh nghiệm về cách thức hoạt động, thái độ ứng xử của mình khi đối mặt với những tình huống tương tự ở nơi công cộng, nhất là khi đối phó với những cái đầu "trí thức cơ hội" già rơ trong trò "ném đá giấu tay".
Tôi yêu các bạn và tôi mong Luật Biểu tình sớm ra đời để các bạn không còn bị động khi phản biểu tình.
Theo Molang

THỦ ĐOẠN ĐÊ HÈN CỦA CÁC "NHÀ DÂN CHỦ"

Thủ đoạn đê hèn của các “nhà dân chủ”

Chống phá cách mạng Việt Nam, trong đó tập trung xóa bỏ vai trò lãnh đạo của đảng và chế độ XHCN ở nước ta là mục tiêu nhất quán của các thế lực phản động, của “nhà dân chủ”. Biết là thế, nhưng mọi người vẫn không khỏi lạ về những thủ đoạn lố bịch, hèn hạ đến nực cười mà họ tiến hành, nhất là vào những thời điểm chúng ta tổ chức sự kiện lớn của đất nước.

Theo kế hạch, năm nay đại hội Đảng các cấp sẽ được tiến hành và đến năm 2016 Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng sẽ được tổ chức. Đây là một sự kiện chính trị trọng đại của toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta. Song, các thế lực thù địch, phản động, các “nhà dân chủ” cũng coi đây là cơ hội, là thời điểm thích hợp nhất để chống phá bằng mọi hình thức. Lợi dụng quyền tự do dân chủ, tự do báo chí, thời gian gần đây họ tung lên các trang mạng xã hội hàng loạt bài viết phê phán quan điểm, đường lối của Đảng Cộng sản Việt Nam trong lãnh đạo sự nghiệp đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc XHCN. Điều đáng chú ý, để đạt được mục đích đen tối, họ dùng nhiều thủ đoạn, kể cả những thủ đoạn đê hèn, bôi nhọ một số đồng chí lãnh đạo cao cấp của Đảng và Nhà nước ta hòng gây chia rẽ nội bộ, làm giảm niềm tin của nhân dân đối với vai trò lãnh đạo của Đảng. Trên một số blog, họ vẽ ra những chuyện gây “sốc” về đồng chí lãnh đạo này của Đảng bị đầu độc do “đấu đá nội bộ”; đồng chí lãnh đạo kia có “khối tài sản khổng lồ”, biệt thự, xe hơi.v.v. Phải thừa nhận họ thật siêu trí tưởng tượng. Nhưng cũng phải nói rằng, những thông tin kiểu này ít, nhiều gây bán tín, bán nghi trong dư luận xã hội. Bởi, các “nhà dân chủ” đã dùng thủ đoạn hết sức tinh vi, lợi dụng một số sự việc đang diễn ra để gán ghép những thông tin khó kiểm chứng, nhằm “đổi trắng thay đen”, làm cho người đọc, thoạt đầu khó phân biệt thật hay giả. Thế nhưng, nếu người đọc suy nghĩ kỹ và có sự

vào cuộc của các cơ quan chức năng, thì chân tướng của họ sẽ bị lật tẩy. Nhân trên mạng đang rộ tin đồn về chuyện cố lãnh đạo Nhà nước Palestine - I.Arafat bị kẻ thù đầu độc bằng chất phóng xạ, cùng với thời điểm một cán bộ cao cấp của Đảng ta phải ra nước ngoài chữa bệnh, các “nhà dân chủ” liền tung tin Đồng chí này cũng bị đầu độc bằng chất phóng xạ (!) Song, sự việc đã lộ nguyên hình là ngụy tạo, khi Đồng chí đó trở về nước, Ban Bảo vệ và chăm sóc sức khỏe Trung ương tổ chức họp báo công bố rõ về bệnh tình của Đồng chí đó. Còn câu chuyện về hàng loạt biệt thự, xe hơi đắt tiền,… thì được họ dày công dựng lên, tung ra trong bối cảnh Đảng, Nhà nước ta đang đẩy mạnh phòng, chống tham nhũng và trong xã hội đang nóng lên về chuyện nhà cửa, đất đai của một số cán bộ về hưu. Họ sử dụng chiêu bài “trắng, đen - thật, giả lẫn lộn”, dùng hình ảnh của các dự án bất động sản và quảng cáo của các hãng xe để gán ghép, chú thích theo ý đồ thâm độc của họ.

Ở một góc độ khác, họ dùng cách tập hợp thông tin phản ánh các vụ việc tiêu cực trên báo chí rồi cố tình nhào nặn để mọi người hiểu theo nghĩa khác, nhằm chống phá Đảng ta. Họ lấy những tiêu cực xảy ra ở một số địa phương, bộ, ngành, rồi tô đậm, phóng đại lên để biến toàn xã hội thành một bức tranh u ám,… từ đó lớn tiếng phê phán, nói xấu Đảng, phủ nhận chế độ XHCN. Đặc biệt, từ hiện tượng một số cán bộ, đảng viên thoái hóa, biến chất, lợi dụng chức vụ, quyền hạn tham nhũng, họ khái quát thành bản chất của Đảng là tham nhũng; Đảng không còn xứng đáng lãnh đạo Nhà nước và xã hội (!)

Như vậy là, với thái độ thù địch, định kiến, áp đặt và bằng cách “vơ đũa cả nắm”, họ đang mưu toan “dùng tay che cả mặt trời”. Thế nhưng, sự thật là chân lý. Không ai có thể xuyên tạc sự thật rồi trơ trẽn khẳng định đó là chân lý được. Cũng không thể chỉ với vài ba thủ đoạn đê hèn ấy mà các “nhà dân chủ” có thể xóa được hình ảnh về một đất nước Việt Nam hòa bình, thân thiện và phát triển đang thay da đổi thịt hằng ngày trong mắt bạn bè quốc tế. Dù có mưu ma chước quỷ đến mấy, họ cũng không thể phủ nhận được những thành tựu của công cuộc đổi mới đất nước do Đảng ta khởi xướng và lãnh đạo trong 30 năm qua. Bởi một lẽ đơn giản: đó là sự thật. Nhân dân ta hiểu rõ rằng, đa số cán bộ, đảng viên của Đảng là những người tiền phong, gương mẫu, có phẩm chất và năng lực tốt, đóng vai trò nòng cốt trong công cuộc đổi mới hiện nay. Tuy nhiên, vẫn còn một bộ phận cán bộ, đảng viên không xứng đáng với vị trí, vai trò của mình, tham nhũng, lãng phí, vi phạm phẩm chất đạo đức, lối sống,... gây dư luận xấu trong xã hội. Điều này, Đảng ta đã công khai nói rõ và đang quyết tâm khắc phục; tập trung chỉ đạo các cấp thực hiện tốt hệ thống giải pháp trong Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XI) đã đề ra. Đồng thời, thành lập các cơ quan chức năng chuyên trách, tăng cường kiểm tra, thanh tra của Đảng và Nhà nước, phát huy vai trò của quần chúng nhân dân, các cơ quan báo chí; kiên quyết xử lý mọi hành vi phạm tội, bất kỳ ai vi phạm đều phải xử lý hoặc đưa ra xét xử theo đúng quy định của pháp luật,v.v. Trong ba năm qua, đã có nhiều cán bộ, đảng viên (có cả cán bộ cao cấp) vi phạm pháp luật bị xử lý nghiêm khắc, đúng quy định của luật pháp. Nhờ vậy, công tác đấu tranh phòng, chống tham nhũng, lãng phí đạt được những kết quả tích cực, lòng tin của nhân dân đối với Đảng và Nhà nước được củng cố; hiệu quả hoạt động lãnh đạo, quản lý, điều hành của các tổ chức đảng, chính quyền các cấp được nâng cao.

Tuy nhiên, các “nhà dân chủ” vẫn cứ cố tình lợi dụng vấn đề dân chủ, nhân quyền như một chiêu bài để xuyên tạc và phủ nhận nền tảng tư tưởng, cương lĩnh, đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng và chế độ XHCN ở Việt Nam. Họ rêu rao: chủ nghĩa Mác ­– Lê-nin đã lỗi thời; đường lối của Đảng ta sai lầm, không phù hợp với yêu cầu phát triển đất nước; rằng: Đảng và Nhà nước Việt Nam độc tài, toàn trị, vi phạm dân chủ, nhân quyền,… làm cho kinh tế sa sút, văn hóa xuống cấp, xã hội ngột ngạt; độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ bị xâm phạm (!) Từ đó, họ khẳng định vấn đề mấu chốt là phải xóa bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng, xóa bỏ chế độ XHCN, thực hiện “đa nguyên, đa đảng”, phát triển theo con đường TBCN thì đất nước mới giàu mạnh; dân chủ, nhân quyền mới được bảo đảm (!) Thật lố bịch, nực cười.

Cần phải nhắc lại rằng, cái thứ lập luận ấy là hoàn toàn sai, xuyên tạc sự thật và chỉ để phục vụ cho các thế lực bất mãn, thù địch đối với đất nước Việt Nam. Còn đối với nhân dân ta, hơn ai hết, chúng ta hiểu rất rõ những thành quả to lớn, trên tất cả các mặt: chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, dân chủ, nhân quyền,… mà biết bao thế hệ người Việt Nam phải hy sinh xương máu, mồ hôi và nước mắt mới có được. Nhân dân ta cũng hiểu rằng, chỉ có Đảng Cộng sản Việt Nam, với nền tảng tư tưởng là chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, mới tập hợp và lãnh đạo được toàn dân tộc đứng lên làm cách mạng, đánh đổ chế độ thực dân, phong kiến; tiến hành cuộc kháng chiến chống đế quốc thắng lợi, giành độc lập, thống nhất, để xây dựng đất nước văn minh, giàu mạnh, bảo đảm dân chủ, nhân quyền thực sự. Thực tiễn 85 năm qua chứng minh rằng, cùng với mục tiêu độc lập dân tộc và CNXH, Đảng Cộng sản Việt Nam luôn luôn phấn đấu cho mục tiêu dân chủ, nhân quyền. Chính vì Đảng ta luôn coi dân chủ, nhân quyền là nội dung cơ bản trong đường lối, chủ trương, chính sách của mình, nên đã tập hợp và động viên được mọi giai cấp, tầng lớp trong xã hội chiến đấu, hy sinh cho thắng lợi của cách mạng. Trong công cuộc đổi mới hiện nay, nếu Đảng không phát huy dân chủ và coi trọng nhân quyền, thì liệu có thể động viên và phát huy mạnh mẽ mọi nguồn lực, mọi thành phần kinh tế cho công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc XHCN được không? Trong điều kiện đất nước thực hiện hội nhập quốc tế và kinh tế thị trường định hướng XHCN, đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước ta luôn thể hiện rõ quan điểm coi sức mạnh nội lực là nhân tố quyết định. Để làm được điều đó, Đảng ta khẳng định “con người vừa là mục tiêu, vừa là động lực” của quá trình phát triển đất nước. Đồng thời, luôn xem dân chủ là chìa khóa để phát huy tiềm năng, trí tuệ con người Việt Nam trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Bởi vậy, cùng với coi trọng hoàn thiện hệ thống pháp luật nhằm bảo đảm tốt nhất việc thực thi dân chủ, nhân quyền, Hiến pháp năm 2013 khẳng định: Ở nước Cộng hòa XHCN Việt Nam, các quyền con người, quyền công dân về chính trị, dân sự, kinh tế, văn hóa, xã hội được công nhận, tôn trọng, bảo vệ, bảo đảm theo Hiến pháp và pháp luật. Luật và nhiều văn bản pháp lý đã ghi nhận, thể chế hóa các quyền, nghĩa vụ công dân, như: quyền sở hữu, quyền sử dụng tư liệu sản xuất, quyền tự do kinh doanh hợp pháp, quyền tự do thảo luận, tranh luận, quyền tự do báo chí, tự do hội họp, tự do tín ngưỡng, tôn giáo và tự do không tín ngưỡng, tôn giáo, v.v.

Riêng về tự do báo chí, chúng ta có cơ chế người phát ngôn của các bộ, ngành theo định kỳ, giải đáp các thắc mắc, câu hỏi của các nhà báo trong và ngoài nước. Hằng tháng, Chính phủ tổ chức họp báo sau phiên họp định kỳ, không chỉ có sự tham gia của Chánh văn phòng Chính phủ - Người phát ngôn của Chính phủ - mà còn có sự tham gia của hầu hết các bộ trưởng, sẵn sàng trả lời các câu hỏi của các nhà báo. Đài Truyền hình Việt Nam hằng tuần có chuyên mục “Dân hỏi bộ trưởng trả lời”, người dân gửi câu hỏi đến các bộ trưởng theo hòm thư điện tử được công khai trên truyền hình. Gần đây, Bộ Y tế có đường dây nóng để nhân dân kịp thời phản ánh tình hình hoạt động ở các bệnh viện đến lãnh đạo các viện và Bộ Y tế, giải quyết kịp thời thắc mắc của người dân, v.v. Những việc làm đó không thể hiện tinh thần dân chủ hay sao? Mặt khác, Việt Nam còn tham gia ký kết các Công ước quốc tế về quyền con người; đồng thời, không ngừng hoàn thiện các hành lang pháp lý để thực thi có hiệu quả trong thực tiễn.

Trong lĩnh vực kinh tế, nơi các “nhà dân chủ” thường lớn tiếng công kích Đảng ta là mất dân chủ, phân biệt đối xử, thì vấn đề đó đã được thể hiện rất rõ. Đường lối của Đảng khẳng định: các thành phần kinh tế hoạt động đúng pháp luật đều là bộ phận hợp thành quan trọng của nền kinh tế đất nước; mọi thành phần kinh tếđều bình đẳng trước pháp luật, cùng phát triển lâu dài, hợp tác và cạnh tranh lành mạnh. Trong cơ chế mới, mọi thành phần kinh tế đều bình đẳng về nghĩa vụ và quyền lợi, được tạo điều kiện để phát triển; các lợi ích đều được coi trọng, lợi ích cá nhân không bị kỳ thị, mà là một trong những động lực mạnh mẽ để phát triển đất nước. Cùng với đó, chúng ta tăng cường mở cửa hội nhập quốc tế, không ngừng cải thiện môi trường kinh doanh, khuyến khích các đối tác nước ngoài đầu tư mở rộng sản xuất để phát huy tiềm năng, thế mạnh, xây dựng đất nước giàu mạnh. Nhờ vậy, trong điều kiện hết sức khó khăn, nhiều nước trên thế giới vẫn chìm sâu trong khủng hoảng, thì năm 2014, kinh tế nước ta vẫn đạt mức tăng trưởng là 5,98%, vượt xa các dự đoán trước đó; Việt Nam được đánh giá là nơi có môi trường an ninh, chính trị ổn định, đầu tư hấp dẫn, đang thu hút nhiều nhà đầu tư thế giới và khu vực,v.v.

Trong một thế giới đầy biến động, việc giữ vững ổn định chính trị, tạo môi trường hòa bình để phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội, nâng cao đời sống nhân dân, giữ vững độc lập, chủ quyền đất nước, là một thành tựu quan trọng. Có được điều đó, là nhờ Đảng ta có đường lối, chủ trương đúng đắn; nhân dân đoàn kết, tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng và quyết tâm đưa công cuộc đổi mới đi đến thắng lợi hoàn toàn. Mọi thủ đoạn đê hèn, xuyên tạc của các “nhà dân chủ” không thể đánh lừa được ai.

VINH HIỂN/ TẠP CHÍ QPTD