Thứ Tư, 2 tháng 3, 2016

TÍNH KHOA HỌC CỦA LÝ LUẬN MÁC-XÍT VỀ TKQĐ LÊN CNXH BỎ QUA CHẾ ĐỘ TBCN


@Phạm Văn Chúc
    Trong các “thư ngỏ”, “góp ý”, “kiến nghị” xuất hiện gần đây của một số cá nhân, nhóm người, có một điểm chung mang tính cơ bản, thực chất. Đó là sự phủ nhận, bác bỏ hoàn toàn lý luận và thực tế về CNXH dựa trên CNM-LN. Những người này cho rằng:
     - Các học thuyết về CNXH, CNCS từ trước đến nay nhìn chung đều sai lầm, không tưởng, không hợp lý, trái tự nhiên. Lý luận “CNXH khoa học mác-xít” thật ra cũng vẫn là ảo tưởng, mơ hồ, thiếu căn cứ thực tế.
     - Khoảng 150 năm kể từ Mác – Ăng-ghen và Lê-nin trở lại đây, rõ ràng CNTB tiếp tục phát triển ngày càng cao hơn. Thế nhưng chế độ xã hội này đã, đang và sẽ vẫn là chính nó, mà không trở thành cái “khác CNTB”, hoặc “cao hơn CNTB”. Trong CNTB từ trước đến nay và mãi mãi về sau, không hề tồn tại, và cũng không thể xuất hiện bất cứ tiền đề, điều kiện, cơ sở, khả năng, hay xu hướng nào cho CNXH.
     - Giả định là sau CNTB, một xã hội “hậu TBCN” nào đó sẽ ra đời, thì về bản chất cũng là và chỉ có thể là xã hội TBCN. Lịch sử “cáo chung” hay kết thúc bởi CNTB, tức CNTB đã chính là đỉnh điểm của sự phát triển lịch sử. Nó chỉ trở nên ngày càng hoàn thiện hơn, mà không “quá độ” lên một chế độ xã hội nào khác mới hơn và ưu việt hơn cả. CNTB thường xuyên tự làm mới mình, không ngừng phát triển, tiến bộ mà không phải đổi thay, phá bỏ hoặc vượt thoát khỏi khuôn khổ những nguyên lý, quy luật vận động đặc thù, cơ bản của chính nó.
     - Các xã hội được gọi là “XHCN”, hay “CNXH hiện thực” xuất hiện, tồn tại, rồi sụp đổ một phần quan trọng trên thế giới 100 năm nay, chẳng qua chỉ là kết quả của sự vận động quẩn quanh, lầm lạc của lịch sử. Chúng đều rơi vào tình trạng kém phát triển, không phát triển, thậm chí tụt hậu, để cuối cùng lại tìm ra lối thoát tối ưu không tránh khỏi là quay về quỹ đạo TBCN.
     - Tất cả các nước XHCN đều có điểm xuất phát là tiền TBCN hoặc TBCN trung bình, thấp hơn hẳn so với phương Tây TBCN tiên tiến. Trong lịch sử tồn tại, phát triển của mình, các nước này cũng chưa bao giờ vươn lên ngang bằng phương Tây về trình độ và quy mô LLSX, năng suất lao động. Cho nên, trong nền tảng kinh tế - kỹ thuật của chúng càng không thể có bất cứ điều kiện, tiền đề nào cho CNXH. “TKQĐ lên CNXH”, “xu hướng XHCN”, “định hướng XHCN”, “chế độ XHCN” ở đây đều chỉ là những giả tưởng, ảo tưởng được duy trì, áp đặt, gán ghép một cách chủ quan duy ý chí, ghò ép khiên cưỡng và độc đoán thô bạo, chứ không phải là những trạng thái, kết cấu xã hội thực tồn.    
     - Đối với Việt Nam từ những năm 20 – 30 thế kỷ XX đến nay, lý luận phù hợp, đúng đắn chính là tư tưởng, đường lối “dân tộc dân chủ” không có nội dung XHCN của Hồ Chí Minh. Ngoài ra, lý thuyết về CNXH ít nhiều đáng tham khảo, chỉ là CNXHDC hình thành từ việc “xét lại” Mác – Ăng-ghen cuối thế kỷ XIX.
     Những ý kiến trên có nội dung lý luận, chính trị không quá đơn giản, nhưng cũng chứa đựng nhiều điều ngộ nhận, tùy tiện, phiến diện, sơ sài, kể cả việc cố ý làm sai lệch sự thật. Chúng cần được phê phán, bác bỏ một cách kiên quyết, mạnh mẽ. Bài viết này góp phần thực hiện yêu cầu đó thông qua việc trước hết tập trung khẳng định một số điều dưới đây:    
     - Lý luận của chủ nghĩa Mác – Lê-nin về TKQĐ từ CNTB lên CNXH và về TKQĐ lên CNXH bỏ qua chế độ TBCN, ngoài tiền đề lý luận không thể thiếu, chính là đã dựa vững chắc chủ yếu trên cơ sở thực tế quan trọng. Đó là CNTB ở Tây Âu và trên thế giới trong lịch sử phát triển của nó, cũng như đương thời (giữa thế kỷ XIX – đầu thế kỷ XX).
     - Lý luận này phản ánh thực tế ấy không phải là đơn giản và cảm tính, mà sâu sắc và khái quát. Do vậy, không thể không chú trọng nhận thức đầy đủ, đúng đắn nội dung, thực chất của bản thân lý luận đó.
     - Lý luận này vẫn phù hợp, bao quát được về cơ bản thực tế thế giới và CNTB từ đầu thế kỷ XX đến nay, kể cả các nước đang và chậm phát triển ngày nay.
     - Riêng nội dung lý luận về TKQĐ lên CNXH bỏ qua chế độ TBCN có vai trò, tác dụng to lớn soi sáng thực tế và chỉ dẫn thực tiễn cách mạng ở các nước XHCN từ trước đến nay, kể cả các nước XHCN còn lại ngày nay sau khi chế độ XHCN ở Liên Xô trước đây và các nước Đông Âu đã sụp đổ. Đồng thời bản thân lý luận này cũng cần được vận dụng sáng tạo và phát triển bằng chính những điều kiện, tình hình cụ thể luôn biến chuyển, đổi thay trong thực tế.
     Từ CNTB lên CNCS: tất yếu kinh tế của quá trình lịch sử - tự nhiên
     Mác – Ăng-ghen đã nghiên cứu sâu sắc cả toàn bộ lịch sử phát triển, lẫn  thời đương đại bắt đầu hoàn thiện (từ khoảng nửa đầu thế kỷ XIX) của HTKT – XH TBCN. Các ông chỉ rõ, PTSX và quan hệ sở hữu tư nhân TBCN khác hẳn PTSX và quan hệ sở hữu tư nhân PK. Sản xuất PK là tự cấp tự túc, tự sản tự tiêu, kìm hãm, loại bỏ thương nghiệp trên quy mô toàn đế chế, vương quốc, khép kín trong cương vực, địa khu của từng công hầu, lãnh chúa. Quyền tư hữu PK mang tính chính trị hóa trực tiếp phi kinh tế, tính đẳng cấp đặc quyền đặc lợi, tính hạn chế tương đối theo tầng bậc giảm thiểu dần từ đại hoàng đế, tiểu vương xuống chúa đất, thần dân.
     Trong khi đó, sản xuất, trao đổi và sở hữu tư nhân TBCN tất yếu dẫn đến cạnh tranh tự do. Điều này lại thúc đẩy phát triển quy mô và trình độ LLSX, mở rộng thị trường từ phạm vi vùng miền lên cả quốc gia – dân tộc và ra khắp thế giới. Nhưng sự phát triển, mở rộng tự do, tự phát ấy đạt tới một mức độ nhất định, thì xảy ra khủng hoảng kinh tế ở từng vùng, từng nghành, rồi cả nước, kể cả quốc tế. Hậu quả là, một khối lượng ngày càng lớn LLSX, sức lao động và sản phẩm vật chất bị hủy hoại, lãng phí một cách vô ích.
     Các giá trị vật chất – con người, kinh tế - kỹ thuật ấy lẽ ra đã có thể được sử dụng từ lâu để phục vụ nâng cao đáng kể mức sống của toàn nhân loại, trước hết là người lao động. Con đường tăng trưởng – khủng hoảng, sáng tạo – hủy diệt của PTSX TBCN rõ ràng không thể được coi là hợp lý, tối ưu. Trái lại, thậm chí nó còn chứa đựng trong chiều sâu cơ cấu và cơ chế vận hành căn bản của chính mình một khiếm khuyết mang tính tự hủy không thể nào xóa bỏ, khắc phục hoàn toàn được.
     Đến khoảng giữa thế kỷ XIX, tại các nước TBCN tiên tiến phương Tây, cuộc cách mạng công nghiệp diễn ra được gần 100 năm. Sở hữu tư nhân mâu thuẫn với công cụ sản xuất đại công nghiệp, cản trở sự phát triển của LLSX đại công nghiệp. Nền đại công nghiệp đã vượt quá cạnh tranh tự do, và LLSX vượt quá chế độ tư hữu. Cạnh tranh tự do lan rộng đến hết giới hạn của thị trường, và trở thành xiềng xích trói buộc đại công nghiệp. Khủng hoảng kinh tế xảy ra thường xuyên theo chu kỳ 5 – 7 năm…
     Mặt khác, lúc này LLSX vẫn chưa phát triển đến mức làm cho chế độ tư hữu trở thành xiềng xích ngăn cản sự lớn mạnh của nó. Cho đến khi kinh tế phát triển hoàn toàn chín muồi để xóa bỏ PTSX TBCN, thì còn rất lâu. Cơ sở kinh tế TBCN cũng còn rất nhiều khả năng mở rộng ra nữa. Để kiềm chế cạnh tranh tự do, thuế quan bảo hộ cũng đã được áp dụng từ rất sớm…
     Tuy nhiên, việc xóa bỏ chế độ tư hữu, QHSX TBCN ngay từ khi đó đã là điều có thể làm. Sau “Tuyên ngôn của ĐCS” gần 50 năm, vào giữa những năm 1890 Ăng-ghen nhận định rằng, mục tiêu ấy vẫn là không thay đổi, chỉ có phương pháp đấu tranh của giai cấp công nhân là cần thay đổi cho phù hợp với hoàn cảnh mới. Chẳng hạn, kỹ thuật quân sự, tính chất vũ khí, nghệ thuật tác chiến đều đổi mới. Cho nên, tất yếu phải chuyển từ bạo lực sang hòa bình, từ chiến lũy đường phố sang nghị viện, từ bất hợp pháp sang hợp pháp… để bảo tồn lực lượng cho đến ngày quyết định…
     Từ đây đã bộc lộ rõ một xu hướng khách quan bao gồm hai mặt, hai quá trình thống nhất với nhau. Đó là, CNTB nhất định sẽ tự phá vỡ hệ thống kinh tế - xã hội, chính trị – xã hội của mình bằng chính những quy luật vận động, phát triển nội tại tự thân. Thay vào đó, CNCS với chế độ công hữu TLSX, và việc mọi thành viên của toàn xã hội tham gia quản lý sản xuất theo một kế hoạch chung, tất yếu sẽ ra đời. Tức là, ngay trong CNTB đương thời đã xuất hiện một điều kiện cơ bản, một khả năng khách quan mang tính hiện thực cho sự phát triển tiến bộ, cách mạng của xã hội.
     Tại các nước phương Tây, CNTB hình thành với chất lượng đặc thù khi còn ở trong lòng xã hội PK. Nó được sinh thành với hệ thống – kết cấu bước đầu hoàn chỉnh sau những cuộc cách mạng tư sản vào thế kỷ XVII – XVIII. Nó kết thúc giai đoạn phát triển số lượng đầu tiên để trưởng thành, với chất lượng cơ bản và hệ thống – kết cấu bước đầu hoàn thiện vào nửa đầu thế kỷ XIX. Sự phát triển tiếp tục của nó đến chất lượng điển hình, với hệ thống – kết cấu hoàn thiện đầy đủ, rồi chín muồi hoàn toàn để có thể chuyển hóa, đã được thấy rõ và chỉ còn là vấn đề thời gian.
     Như vậy, sau khoảng 100 – 150 năm tiến hành cách mạng chính trị - xã hội và cách mạng kinh tế - kỹ thuật (công nghiệp), lúc này CNTB đã có thể bắt đầu đi lên CNCS. Tức là, dù chưa vươn tới đỉnh điểm lịch sử của mình, nhưng theo lô-gíc vận động đến sớm hơn của chính nó, CNTB cũng đã thực sự bước vào một tiến trình quá độ (QĐ) lên CNCS. Tuy nhiên, ngay khi đó một “thời kỳ quá độ chính trị” (TKQĐCT) từ CNTB lên CNCS, mở đầu bằng thắng lợi của cuộc CMVS, thì vẫn chưa đến. TKQĐCT đó nằm trong tiến trình QĐ, ở giữa giai đoạn cuối của CNTB và giai đoạn đầu của CNCS. Nó kết nối liền kề, nhưng không chồng lấn trùng lặp với hai giai đoạn ấy.
     2. QĐ và TKQĐ từ CNTB lên CNCS
     Ở Tây Âu, QĐ từ NL lên PK kéo dài khoảng 400 năm (thế kỷ V – IX), và từ PK lên TB là khoảng 200 - 300 năm (thế kỷ XIV, XV – XVII). Trong những tiến trình này, quá độ chính trị (QĐCT) là một hoặc một số cuộc cách mạng chính trị tương đối ngắn. QĐ từ PK lên TB bắt đầu trước cách mạng tư sản (thế kỷ XVII, XVIII), với sự nảy sinh của QHSX TBCN trong lòng xã hội PK.
     QĐ từ CNTB lên CNCS, bắt đầu vào khoảng giữa thế kỷ XIX. Trong đó, tiền đề LLSX cho CNCS hình thành, tăng trưởng trong lòng CNTB. Khi chúng được tích lũy đủ lượng tối đa, tức là CNTB phát triển đến tột đỉnh, thì cuộc cách mạng vô sản nổ ra. Nhưng ở trường hợp này, nội dung QĐCT là cả một quá trình cách mạng chính trị - xã hội liên tục và rất khó khăn lâu dài. Đó là “một TKQĐCT” “thích ứng với một thời kỳ cải biến cách mạng từ xã hội nọ sang xã hội kia”.
     Hai “thời kỳ” khác nhau ấy trùng nhau về thời gian. Nhưng chúng có nội dung rộng hẹp khác nhau, trong đó QĐCT kết hợp, phối hợp, thống nhất với các nội dung quá độ còn lại. Lúc này QĐCT trở thành một nội dung quan trọng của “thời kỳ cải biến cách mạng”. Nó xuyên suốt, kết nối và gắn liền với tất cả các nội dung quá độ khác về kinh tế, văn hóa, xã hội, tư tưởng của thời kỳ đó.
     Tuy nhiên, trong thực tế lâu nay, chính thuật ngữ TKQĐ đã được dùng để định danh chung cho toàn bộ “thời kỳ cải biến cách mạng”. Do đó, cần phân biệt TKQĐ được dùng thông dụng hiện nay, không phải là toàn bộ QĐ nói chung, hoặc chỉ là QĐCT. TKQĐ được hiểu là có nội hàm đồng nhất với “thời kỳ cải biến cách mạng”, tức là bao hàm tất cả các nội dung quá độ về chính trị, kinh tế, xã hội, văn hóa, tư tưởng.
      Chỉ trong TKQĐ, dưới sự bảo đảm của CCVS, tiền đề LLSX từ CNTB mới có thể tiếp tục phát triển cao hơn. Trên cơ sở đó, QHSX CSCN hình thành, trực tiếp thay thế QHSX TBCN. Giữa hai loại QHSX đó không có hình thức nào khác trung gian. QHSX TBCN bị xóa bỏ từng bước, giảm dần về lượng, QHSX CSCN được xác lập và tăng dần về lượng. Sự chuyển biến này diễn ra đến mức độ nhất định, thì QHSX cũ tiêu vong, chỉ còn là dấu vết, tàn tích. QHSX mới ngày càng chiếm ưu thế và trở thành chủ đạo, phổ biến. Đó cũng là lúc TKQĐ kết thúc, PTSX và xã hội CSCN hoàn chỉnh, toàn vẹn ra đời, bước vào giai đoạn đầu (CNXH) của mình.
     Trong TKQĐ, LLSX tăng lên mạnh mẽ, nhưng không phải là ngay lập tức đã tạo ra QHSX CSCN. Phát triển LLSX từ mức độ bắt đầu vượt quá QHSX TBCN đến mức độ tạo cơ sở sơ khai cho QHSX CSCN, là một quá trình tích lũy lượng hiện thực cụ thể. Nó rất phức tạp khó khăn, chứ không phải chỉ là một bước nhảy vọt chóng vánh đơn giản dễ dàng. Cho nên, QHSX TBCN sẽ tồn tại một cách khách quan, lâu dài. Còn QHSX CSCN cũng phải trải qua thời gian tương ứng mới chiếm địa được vị thống trị.
     Khi TKQĐ kết thúc, thì QHSX TBCN bị xóa bỏ hoàn toàn, QHSX CSCN được xác lập trong toàn bộ nền sản xuất. Chỉnh thể xã hội CSCN ra đời, tồn tại độc lập trên cơ sở của mình. CNCS từ chất lượng đặc thù (khác CNTB) trong TKQĐ, trở thành chất lượng cơ bản lúc mới sinh thành, và bắt đầu phát triển dần về lượng để đạt tới chất lượng trưởng thành. Sang giai đoạn sau cao hơn, CNCS “đã phát triển trên những cơ sở của chính nó” và chuyển lên các trình độ chất lượng hoàn thiện, điển hình, chín muồi.
     QĐ từ CNTB lên CNCS bao gồm: i) Giai đoạn cuối của CNTB, với LLSX phát triển cao nhất trở thành tiền đề cho CNCS; ii) Giai đoạn đầu của CNCS, dựa trên những cơ sở vừa mới được xác lập, CNCS bắt đầu phát triển từ sinh thành hoàn chỉnh đến trưởng thành hoàn thiện, với các dấu vết còn lại về kinh tế, đạo đức, tinh thần… của CNTB; iii) TKQĐ ở giữa hai giai đoạn trên, không thuộc về cả CNTB lẫn CNCS, không phải là toàn bộ QĐ, cũng không trùng với một giai đoạn nào trong hai giai đoạn đó.
     Đối với CNTB, thì PTSX (cả LLSX lẫn QHSX)
 của nó đã hình thành về cơ bản trong xã hội PK. Trên cơ sở kinh tế này và nhờ cách mạng tư sản, nền chính trị TBCN được xác lập. Nhưng trong TKQĐ, không phải là chính trị CSCN được hình thành chỉ như kết quả của kinh tế CSCN đã ra đời đầy đủ trọn vẹn từ CNTB. Trái lại, ngoài tiền đề LLSX chưa thật sự đầy đủ, cả hai nhân tố đó đều đến đây mới hình thành trọn vẹn. Chúng tác động qua lại, thúc đẩy lẫn nhau cùng phát triển đến mức đầy đủ hoàn toàn, và cùng với những nhân tố khác tạo thành hệ thống xã hội XHCN hoàn chỉnh ở cuối TKQĐ.
     3. TKQĐ nửa trực tiếp lên CNCS bỏ qua giai đoạn phát triển TBCN
     QĐ bỏ qua giai đoạn phát triển một xã hội trong lịch sử
     Trong thời cổ đại ở châu Âu, người Giéc-manh từ xã hội CXNT dựa vào LLSX của người La Mã ở xã hội NL đã phát triển đến trình độ cao, để cùng tiến lên xã hội PK. Hai khối dân cư này tiếp xúc, liên hệ với nhau vào khoảng thế kỷ thứ II. Nhưng QĐ lên PK như một tiến trình chung của cộng đồng thống nhất ở họ, chỉ bắt đầu từ thế kỷ thứ V, khi đế chế Tây La Mã bị người Giéc-manh đánh đổ. Và nó kết thúc vào thế kỷ IX, khi vương quốc phong kiến điển hình đầu tiên của hoàng đế Sác-lơ-ma-nhơ ra đời. Đối với người La Mã, đây là QĐ trực tiếp lên PK từ NL. Còn đối với người Giéc-manh, đó là QĐ nửa trực tiếp lên PK bỏ qua giai đoạn phát triển NL.
     Bỏ qua giai đoạn phát triển một xã hội nhất định, trên thực tế và về thực chất chính là bỏ qua quá trình xây dựng từ đầu LLSX của xã hội đó. Bởi vì người Giéc-manh được sử dụng ngay tiền đề LLSX NL đã đạt tới đỉnh điểm ở người La Mã. Họ chỉ cần một thời gian không nhiều để chiếm đoạt, lĩnh hội, vận hành LLSX này, chứ không phải sáng tạo, dựng xây, phát triển nó từ đầu. Chính nhờ vậy mà họ đã thực hiện được sự phát triển rút ngắn đáng kể đối với xã hội NL. Người Giéc-manh không lặp lại cả hành trình lịch sử dài lâu của xã hội này, mà cùng với người La Mã chỉ tham gia vào chặng cuối của nó, tức QĐ lên PK.
     Tiền đề QĐ cơ bản chủ yếu đối với người La Mã là LLSX NL của chính họ. Còn đối với người Giéc-manh, ngoài hình thức tổ chức quân sự thị tộc bộ lạc cổ truyền được lưu giữ và cải biến, thì tiền đề đó cũng là LLSX ấy nhưng với tư cách cái chiếm đoạt được. Cho nên, QĐ lên PK ở người La Mã là hoàn toàn trực tiếp, còn ở người Giéc-manh là “trực tiếp không hoàn toàn”, hay “nửa trực tiếp”. QĐ này kéo dài khoảng 400 năm, là tương đối ngắn với người La Mã và là rất ngắn với người Giéc-manh. Bởi vì, đến thế kỷ thứ V thì chế độ NL ở La Mã đã bước vào giai đoạn suy đồi, khủng hoảng, bế tắc, có nguy cơ thoái hóa, tan rã. Còn với người Giéc-manh, bằng sự so sánh và tham chiếu lịch sử, có cơ sở để khẳng định: nếu chỉ phát triển trong sự cô lập, thì để đi nốt xã hội CXNT rồi trải qua xã hội NL, chắc chắn họ phải mất hàng nghìn năm lịch sử.
     Trường hợp cụ thể trên của người Giéc-manh cho thấy, QĐ bỏ qua giai đoạn phát triển một xã hội nhất định nào đó không phải là hiện tượng tuyệt đối cá biệt, ngẫu nhiên. Trái lại, một tiền lệ lịch sử sinh động về kiểu QĐ này đã được tạo ra, với những điều kiện, cơ chế, phương thức và tính quy luật hoàn toàn có thể được xác định cụ thể, rõ ràng.
     TKQĐ nửa trực tiếp lên CNCS bỏ qua giai đoạn phát triển TBCN ở nước Nga
     Đến giữa thế kỷ XIX nước Nga Sa hoàng là một cường quốc chính trị, quân sự hàng đầu ở châu Âu và trên thế giới. Tuy nhiên, nó có QHSX PK nửa TB, LLSX phát triển chưa cao và không đồng đều. Ở nhiều vùng rộng lớn của nước này còn tồn tại hình thức sở hữu công xã nông thôn cổ truyền.
     Giữa Nga với các nước Tây Âu có quan hệ lẫn nhau liên tục và nhiều mặt từ xa xưa trong lịch sử. Tới thời điểm này nó tập trung trong bản thân mình những mâu thuẫn cơ bản bên trong và bên ngoài đã trở nên gay gắt như: đế quốc Nga với các đế quốc phương Tây, chính quốc Đại Nga với các thuộc quốc, vô sản với tư sản, nông nô với chúa đất, tư  sản với phong kiến. Nước Nga không thể tiến lên được, nếu không giải quyết những mâu thuẫn ấy. Mà điều này có nghĩa là, nó phải tách thoát vượt qua CNTB, là con đường dẫn tới sự phụ thuộc vào phương Tây, sự trì trệ lạc hậu của cả dân tộc Đại Nga, Tiểu Nga, Bạch Nga lẫn các dân tộc thuộc địa và phụ thuộc khác trong toàn Đế chế Sa hoàng.
      CNTB Nga trong quá trình lịch sử hình thành, tăng trưởng ngay từ đầu đến đương thời của nó, luôn bị CNTB Tây Âu ở trình độ phát triển cao hơn kiềm chế, chi phối. Mặt khác, nó lại bị chủ nghĩa thực dân kiểu PK vô cùng phản động lạc hậu của chính mình, từ trung tâm Đế chế thi hành đối với các vùng thuộc địa và phụ thuộc như ở Tuốc-két-xtan, Ngoại Cáp-ca-dơ, Đông Xi-bia, Pri-ban-tích, Ba Lan, Phần Lan đầu độc, tác động tiêu cực ngược trở lại. Cho nên CNTB đặc thù Nga ấy không thể phát triển được, mà đi vào ngõ cụt bế tắc.
     Trong điều kiện lịch sử - cụ thể như vậy, một cuộc cách mạng vô sản mở ra con đường XHCN vừa là giải pháp phát triển cơ bản triệt để duy nhất, vừa là khả năng mang tính hiện thực cao. Nếu cuộc cách mạng này ở Nga phối hợp được với cách mạng vô sản ở các nước Tây Âu đồng thời nổ ra thắng lợi, thì cùng với các nước ấy Nga có thể bước vào TKQĐ lên CNCS bỏ qua giai đoạn phát triển TBCN. Khi đó, công nhân Nga sẽ dựa trên tiền đề LLSX TBCN tiên tiến được công nhân Tây Âu giúp đỡ, để cải biến QHSX công xã nông thôn thành QHSX CSCN văn minh. Tương tự như trường hợp người Giéc-manh 1500 năm trước, nước Nga cũng có thể sẽ thực hiện sự phát triển rút ngắn đối với CNTB, quá độ nửa trực tiếp từ xã hội lạc hậu chủ yếu là tiền TBCN lên CNCS.
      Nhưng điều này còn có ý nghĩa rộng lớn và sâu sắc hơn. Từ trình độ phát triển đã đạt được ở phương Tây vào khoảng giữa thế kỷ XIX trở đi, trong CNTB thế giới đã đồng thời xuất hiện và thường xuyên tồn tại hai khả năng QĐ lên CNCS. Tuy rất khác nhau, nhưng chúng có quan hệ với nhau chặt chẽ sâu sắc và đều mang tính hiện thực trực tiếp như nhau. Đó là: i) Các nước TBCN tiên tiến nhất có thể QĐ theo phương thức trực tiếp lên CNCS; ii) Một xã hội tiền TBCN với những điều kiện lịch sử - cụ thể thuận lợi nhất định, có thể QĐ theo phương thức nửa trực tiếp lên CNCS bỏ qua giai đoạn phát triển TBCN.
     4. TKQĐ gián tiếp lên CNXH bỏ qua chế độ TBCN
     NEP và việc sử dụng kinh tế TBCN
     Trong thời đại mình, từ thực tế CNTB đã tiếp tục phát triển hơn trước, Lê-nin thấy rằng, khi chưa có được tiền đề LLSX TBCN phát triển cao và cũng không nhận được sự giúp đỡ về điều này từ công nhân các nước tiên tiến, thì nước Nga có thể và cần phải tự mình tạo ra chính tiền đề đó. Trước hết là tiến hành cách mạng vô sản thắng lợi, đánh đổ sự thống trị của các giai cấp phong kiến, tư sản, bước vào TKQĐ. Tiếp theo, chính quyền Xô-viết sử dụng và phát triển kinh tế TBCN cả trong nước lẫn nước ngoài để phục vụ xây dựng LLSX cho CNXH. Cuối cùng, từ LLSX lớn mạnh vượt qua LLSX TBCN đã phát triển tột đỉnh, trực tiếp hoàn toàn xóa bỏ QHSX TBCN và xác lập QHSX XHCN. Như vậy, TKQĐ gián tiếp này có hai chặng chính: quá độ lên trình độ phát triển kinh tế TBCN tột đỉnh, và quá độ trực tiếp từ đó lên CNXH.
     Tức là, do thiếu tiền đề LLSX tiên tiến, nên nước Nga không thể quá độ theo các phương thức: i) Trực tiếp lên CNXH như các nước TBCN tiên tiến sẽ có thể thực hiện; ii) Trực tiếp lên xã hội PK từ NL như người La Mã; iii) Nửa trực tiếp lên PK từ CXNT như người Giéc-manh; iv) Nửa trực tiếp lên CNCS từ PK như Mác – Ăng-ghen từng giả định vào giữa thế kỷ XIX. Nước Nga không thể bỏ qua nội dung quan trọng nhất trong toàn bộ sự phát triển của CNTB, là hình thành LLSX tiên tiến. Nó chỉ có thể rút ngắn sự phát triển này, và bỏ qua chế độ chính trị TBCN mà thôi.
     Biện pháp quyết định ở đây là, chủ động thực hiện kinh tế TBCN vì CNXH, dưới sự kiểm soát của Nhà nước XHCN, quá độ gián tiếp thông qua chỉ riêng nhân tố cơ bản đó của CNTB mà đi lên CNXH. So với quá độ trực tiếp (từ LLSX TBCN nội sinh), hay nửa trực tiếp (từ LLSX TBCN ngoại nhập), rõ ràng quá độ này khó khăn lâu dài hơn. Đó chính là bản chất kinh tế - chính trị lê-nin-nít của thực tiễn và lý luận về NEP.
     CSCSTC và việc không sử dụng kinh tế TBCN
     Trong trường hợp có nhiều khó khăn đặc biệt, như xảy ra tình trạng quân sự khẩn cấp, “thù trong giặc ngoài” gây nội chiến và can thiệp vũ trang, thì về khách quan không thể sử dụng kinh tế TBCN. Bởi vì nó bao hàm tiềm tàng nhân tố đối kháng đối lập, phản loạn lật đổ tự phát tự nhiên, sẵn sàng bùng nổ trỗi dậy mỗi khi Nhà nước XHCN gặp khó khăn về chính trị đối nội hay đối ngoại. Khi đó, buộc phải tạm thời áp đặt, thi hành ngay tức khắc QHSX CSCN.
     Ở đây sự hình thành dần từng bước QHSX XHCN, tức là bản thân tiến trình QĐ nói chung và kể cả bước QĐ trực tiếp nói riêng, đều tạm thời bị đình chỉ, cắt giảm. Thay vào đó là việc xác lập chính QHSX XHCN, thậm chí CSCN. Tất nhiên QHSX này chỉ là hình thức thuần túy, không dựa trên nội dung tương ứng là một LLSX CSCN đích thực tiên tiến, hùng mạnh, cao hơn LLSX TBCN đã phát triển tột đỉnh. Đó chính là bản chất kinh tế – chính trị lê-nin-nít của thực tiễn và lý luận về “chính sách cộng sản thời chiến” (CSCSTC).
     Khi không sử dụng kinh tế TBCN, thì tức là không thực hiện QĐ gián tiếp. Trong khi đấy, do thiếu tiền đề LLSX tiên tiến, nên QĐ trực tiếp, hay nửa trực tiếp đều bất khả thi. Mặt khác, lại không thể đi con đường TBCN dẫn đến lạc hậu và phụ thuộc. Cho nên, lúc này chỉ có thể thực hiện bước nhảy đột ngột, hay sự phát triển theo phương thức “phi QĐ” lên CNXH.
     Song phương thức ấy, ở mức độ lớn là không phù hợp với bản chất của sự phát triển nói chung, quy luật về các HTKT-XH nói riêng. Theo đó, sự phát triển giữa chúng được tất định là theo phương thức QĐ. Như vậy, tiến trực tiếp lên CNXH bằng CSCSTC, là phương thức phát triển hết sức đặc biệt, đặc thù. Tuy vẫn có cơ sở thực tế khách quan nhất định và có quan hệ biện chứng với NEP, nhưng dù sao nó cũng không thể được áp dụng tràn lan kéo dài tùy tiện giản đơn bất chấp mọi hoàn cảnh lịch sử - cụ thể.
     Sự khác biệt và thống nhất giữa NEP và CSCSTC
     Lý luận “TKQĐ gián tiếp lên CNXH bỏ qua chế độ TBCN” của Lê-nin là sự vận dụng, phát triển sáng tạo lý luận của Mác – Ăng-ghen về “quá độ nửa gián tiếp lên CNCS bỏ qua giai đoạn phát triển TBCN” trong điều kiện CNTB chuyển sang giai đoạn ĐQCN và trong hoàn cảnh cụ thể, đặc thù của nước Nga đương thời. Lý luận này của Mác – Ăng-ghen là kết quả của việc hai ông tiếp tục bổ sung và phát triển các lý luận của mình về: i) Mô hình phát triển chung nhất, chuẩn mẫu, trừu tượng của toàn bộ lịch sử theo tiến trình tuần tự các HT KT-XH; ii) “TKQĐ từ CNTB lên CNCS”. Đây là quá độ hoàn toàn trực tiếp, vì xuất phát từ CNTB đã phát triển đến đỉnh điểm, chứ không phải chỉ từ xã hội tiền TBCN, hay dựa vào tiền đề LLSX TBCN từ bên ngoài đưa vào. Do đó ở đây không cần tạo dựng bất kỳ nhân tố nào của xã hội này, mà trái lại có thể và cần phải bỏ qua chúng hoàn toàn.
     Sự bổ sung và phát triển ấy được các ông thực hiện trên cơ sở nghiên cứu từ rất sớm hai chủ đề mới. Đó là: i) Một số trường hợp phát triển không theo trình tự các HTKT-XH, do sự tương tác, tổng hợp giữa các trình độ phát triển cao thấp khác nhau trong lịch sử (giữa người Giéc-manh và người La Mã, giữa các địa phương của một nước và giữa các nước với nhau trong thời đại công nghiệp lớn,…); ii) Sự tác động qua lại sâu rộng giữa các nước TBCN tiên tiến Tây Âu với cường quốc Nga Sa hoàng lạc hậu phụ thuộc về kinh tế đương thời.
     Trong “TKQĐ gián tiếp lên CNXH bỏ qua chế độ TBCN”, cả NEP lẫn CSCSTC đều là những chính sách cần thiết phù hợp với điều kiện nước Nga trong các bối cảnh cụ thể khác nhau. Không phải là NEP thì luôn luôn đúng, CSCSTC thì tuyệt đối sai lầm “tả khuynh”; hoặc NEP hoàn toàn là hữu khuynh xét lại, CSCSTC mới là cách mạng chân chính. Mặt khác, cả hai đều không phải là vạn năng. Trong mỗi chính sách đều có nhân tố là hợp lý, tích cực, đúng đắn hay là ngược lại, tùy theo hoàn cảnh cụ thể.
     Tinh thần cơ bản về NEP đã có trước bản thân nó trong kế hoạch xây dựng CNXH, được vạch ra ngay sau Cách mạng Tháng Mười (11/1917 – 4/1918). Kế hoạch đầu tiên ấy phải tạm dừng, không phải vì nó phi lý, sai lầm. Nguyên nhân chỉ là ở chỗ, từ khoảng xuân – hè năm 1918, nước Nga Xô-viết lâm vào cuộc nội chiến và chiến tranh can thiệp xâm lược của CNTB phương Tây. Mùa xuân năm 1921, sau khi giành được thắng lợi trong những cuộc chiến này, nó trở lại thực hiện kế hoạch ban đầu trong hình thái thực tiễn đầy đủ, cụ thể hơn. Và đó chính là NEP. Nhưng chỉ sau một năm, NEP lại được chính Lê-nin điều chỉnh trong ý nghĩa là CNXH “tạm ngừng rút lui”, để tự củng cố và ngăn chặn sự trỗi dậy thái quá của những xu hướng, nhân tố TBCN.
     Trong TKQĐ này, NEP và CSCSTC phải được thực hiện một cách linh hoạt theo nhiều mức độ, hình thức cụ thể thích hợp khác nhau, chứ không phải chỉ vận dụng máy móc nguyên xi hình thức ban đầu của chúng trong những năm 1918 – 1921 và 1921 – 1924. Hơn nữa, còn phải thực hiện những chính sách này trong sự triển khai cả tách rời, luân phiên lẫn đồng thời kết hợp, phối hợp, bổ sung lẫn nhau giữa chúng. Bởi vì, đằng sau những nội dung, biện pháp, phương thức trực tiếp cụ thể, xét theo mục đích cuối cùng của chúng, thì NEP và CSCSTC không hề loại trừ mà hoàn toàn thống nhất với nhau.
     5. Cơ sở thực tế và tính khả thi của QĐ gián tiếp lên CNXH ngày nay
     QĐ gián tiếp lên CNXH bỏ qua chế độ TBCN trở thành khả năng mang tính hiện thực cao đối với các nước lạc hậu bắt đầu từ khoảng cuối thế kỷ XIX - đầu thế kỷ XX. Điều kiện khách quan chung của khả năng ấy là từ lúc này ở phương Tây, về mặt lô gíc phát triển CNTB đã bắt đầu đạt đến trình độ hoàn chỉnh, điển hình. Cơ sở vật chất – kỹ thuật hiện có cho phép nó chuyển hóa sang CNXH, ngay cả khi chưa phát triển tới đỉnh điểm chín muồi của mình. Vấn đề chỉ còn phụ thuộc vào nhân tố chủ quan của các giai cấp công nhân và tư sản, cách mạng và phản cách mạng, tiến bộ và phản động.
     Ở đây lịch sử có thể bắt kịp mà không nhất thiết phải luôn luôn đi sau, nhường bước lô-gíc. Tuy nhiên, trong thực tế một tình hình khác cũng có thể xảy ra, và đã xảy ra suốt thế kỷ XX sang đầu thế kỷ XIX. Đó là, lịch sử tiến triển rất chậm qua nhiều nấc thang tích lũy, tăng trưởng định lượng hết sức cách biệt. Trong khi đấy, diễn biến định tính cơ bản, thì lại không thay đổi. Tình hình này đang và sẽ có thể kéo dài đến mức tạo đã nên sự ngộ nhận rằng, dường như cái lô-gíc đã bị vượt qua, hoặc đã bắt đầu một chất lượng mới của một sự vật mới; rằng tiến trình QĐ lên CNXH đã kết thúc, CNTB sẽ không trở thành CNXH mà vẫn là chính nó
     Khả năng QĐ gián tiếp lên CNXH cũng đồng thời được mở ra cho các nước lạc hậu như một xu hướng phát triển và tiến bộ xã hội tối ưu. Điều đó trở nên có tính hiện thực cao trong bối cảnh CNTB quốc tế hóa ngày càng sâu rộng, cách mạng vô sản phương Tây thành công, bắt đầu TKQĐ trực tiếp lên CNXH. Tuy nhiên, đây chỉ là khả năng tích cực tốt đẹp nhất chứ không phải là trực tiếp duy nhất. Bởi vì, trong mối quan hệ với các nước TBCN tiên tiến ở thời thực dân và kể cả ở thời hậu thực dân, thì ngoài một số ít “con rồng, con hổ”, đa số những nước thuộc địa, phụ thuộc đều bị nô dịch, bóc lột hết sức nặng nề. Thực tế là họ đã và đang trở nên ngày càng nghèo nàn lạc hậu và phụ thuộc hơn, cả về tương đối lẫn về tuyệt đối so với phương Tây, chứ hoàn toàn không phải là ngược lại.
     Ngay cả trong TKQĐ trực tiếp lên CNXH từ CNTB đã phát triển đến đỉnh điểm, kinh tế TBCN cũng chỉ có thể bị xóa bỏ dần bằng tính ưu việt của kinh tế XHCN, chứ không phải duy nhất hay chủ yếu bằng biện pháp chính trị. Ở mức độ  hơn thế và với một lô-gíc tương đồng, trong TKQĐ gián tiếp lên CNXH khi tình hình thuận lợi, thì với NEP và bằng NEP kinh tế TBCN còn được sử dụng, phát triển thực sự và lâu dài dưới sự kiểm soát, đảm bảo của chế độ XHCN. Khi tình hình trở nên khó khăn, thì CSCSTC là giải pháp tất yếu duy nhất có thể cấp thời cứu vãn, giữ vững chính quyền Xô-viết. Như vậy, xét trong tổng thể và về thực chất, chính sách ấy cũng chính là để duy trì, xác lập lại những điều kiện cơ bản cần thiết tiếp tục thực hiện chứ không phải từ bỏ, phủ nhận bản thân NEP.
     Tinh thần và thực chất lê-nin-nít ấy của đường lối kinh tế và chính trị trong TKQĐ gián tiếp lên CNXH bỏ qua chế độ TBCN, cho phép hiểu rõ nội dung, đặc điểm, bản chất, nguyên nhân thất bại của mô hình CNXH Xô-viết. Nội dung này sẽ được trình bày trong bài tiếp theo.
      Tóm lại, lý luận về TKQĐ gián tiếp lên CNXH, gắn liền với những nguyên lý cơ bản của CNXH khoa học và của CNM-LN, vẫn bao quát, phản ánh được chính xác, đầy đủ quá trình lịch sử và thực tế xã hội trên thế giới suốt 100 năm qua cho đến ngày nay, do đó vẫn đang và sẽ còn là đúng đắn. Tất nhiên, lý luận, học thuyết này có giá trị to lớn, vững bền trước hết ở nội dung những nguyên lý cơ bản và phương pháp luận của mình. Chúng đòi hỏi phải được tiếp tục vận dụng sáng tạo và phát triển, chứ không phải là giáo điều hóa một cách bảo thủ, trì trệ, ngưng đọng, trong điều kiện mới của CNTB, của QĐ lên CNXH và của thế giới ngày nay.

     * Tham khảo: i) Mác, Ăng-ghen // Hệ tư tưởng Đức; Những người cộng sản và ông Các Hai-nơ-txen; Những nguyên lý của CNCS; Lao động làm thuê và tư bản; Lời nói đầu viết cho tác phẩm “Đấu tranh giai cấp ở Pháp từ 1848 đến 1850”của C.Mác; Phê phán Cương lĩnh Gô-ta; Nguồn gốc của gia đình, của chế độ tư hữu và của nhà nước; Về sự suy tàn của chế độ phong kiến và sự ra đời của giai cấp tư sản; Thư và các bản thảo thư Mác gửi V.V. Daxulích;… ii) Lê-nin // Bút ký triết học; Những nhiệm vụ chủ yếu của thời đại chúng ta; Bản sơ thảo lần đầu bài “Những nhiệm vụ trước mắt của chính quyền Xô-viết”; Những nhiệm vụ trước mắt của chính quyền Xô-viết; Về bệnh ấu trĩ “tả khuynh” và tính tiểu tư sản; Bàn về chế độ hợp tác xã; Về cuộc cách mạng của chúng ta; Thà ít mà tốt;…


 











    

Sự thật Công thư 1958 của cố Thủ tướng Phạm Văn Đồng


24/05/2014 18:26 GMT+7
TTO - Tuổi Trẻ Online xin giới thiệu nội dung phỏng vấn thạc sĩ Hoàng Việt - một nhà nghiên cứu lâu năm về biển Đông - để bạn đọc hiểu rõ các vấn đề về công thư của cố Thủ tướng Phạm Văn Đồng gửi Thủ tướng Chu Ân Lai ngày 14-9-1958.
iiyDx8Ah.jpgPhóng to
Hình ảnh tàu Trung Quốc phun vòi rồng vào tàu Việt Nam - Ảnh: Cảnh sát biển Việt Nam
* Xin ông cho biết về bối cảnh ra đời cũng như mục đích của công thư ngày 14-9-1958 mà cố Thủ tướng Phạm Văn Đồng gửi cho Tổng lý Quốc vụ viện Chu Ân Lai?
- Trong thời gian từ năm 1956 đến năm 1965, lúc này sự can thiệp của Hoa Kỳ vào chiến tranh Việt Nam ngày càng lên cao, Việt Nam Dân chủ cộng hòa (VNDCCH) phải tận dụng tất cả mọi nỗ lực để giành chiến thắng trên chiến trường.
Với sức mạnh hạn chế của mình, VNDCCH đã phải tranh thủ sự giúp đỡ của các quốc gia khác, đặc biệt là từ Trung Quốc, một quốc gia vốn nằm cạnh Việt Nam, và cũng là một trong các “anh cả” của chủ nghĩa cộng sản. Đã có nhiều sự phối hợp từ quân đội VNDCCH và Giải phóng quân Trung Quốc.
Năm 1949, lực lượng quân sự của VNDCCH đã giải phóng Trúc Sơn (thuộc lãnh thổ của Trung Quốc) từ tay của Quốc dân đảng và sau đó trao lại cho Giải phóng quân Trung Quốc.
Rồi năm 1957, Hồng quân Trung Quốc đã chiếm đảo Bạch Long Vĩ rồi sau đó trao trả lại cho phía VNDCCH.
Phía Trung Quốc còn nhắc là Việt Nam chiến đấu không chỉ bảo vệ lãnh thổ của Việt Nam, mà còn đối với cả lãnh thổ Trung Quốc trước sự đe dọa của Hoa Kỳ.
Lúc này trật tự thế giới được chia thành hai phe: tư bản chủ nghĩa do Hoa Kỳ đứng đầu và xã hội chủ nghĩa do Liên Xô, Trung Quốc đứng đầu.
Sau khi CHND Trung Hoa chiến thắng Quốc dân đảng, Quốc dân đảng phải chạy sang Đài Loan, CHND Trung Hoa muốn giải phóng Đài Loan bằng vũ lực, nhưng Hoa Kỳ đã trợ giúp cho Đài Loan, từ đó đã dẫn đến cuộc chiến giành các đảo Kim Môn, Mã Tổ.
Năm 1958 cũng là năm đầu tiên của Hội nghị công ước luật biển lần thứ nhất nhóm họp, các quốc gia tranh cãi các quan điểm pháp lý về các vùng biển khác nhau.
Phía Hoa Kỳ cho rằng lãnh hải chỉ bao gồm 3 hải lý, còn Trung Quốc và một số quốc gia khác ủng hộ quan điểm lãnh hải có chiều rộng 12 hải lý.
Chính vì vậy, Thủ tướng Trung Quốc Chu Ân Lai đã đưa ra một công hàm để khẳng định chiều rộng lãnh hải của Trung Quốc là 12 hải lý mà ta thấy Thủ tướng Phạm Văn Đồng có nhắc đến trong công thư ngày 14-9-1958 của mình.
Trong tinh thần ủng hộ Trung Quốc, Thủ tướng Phạm Văn Đồng đã có thư phúc đáp cho việc đồng ý công nhận “hải phận” - tức lãnh hải của Trung Quốc là 12 hải lý.
Như vậy, công thư này cho thấy nó mang một sự cam kết về mặt chính trị hơn là về pháp lý, đây cũng là một hình thức mà các nước xã hội chủ nghĩa thường hay sử dụng để thể hiện tình đoàn kết trong tinh thần anh em trong phong trào vô sản quốc tế.
* Vậy tại sao Trung Quốc lại có lập luận khác về giá trị pháp lý của công thư này?
- Sau này, phía Trung Quốc hay sử dụng công thư này để biện minh rằng Việt Nam đã chính thức công nhận chủ quyền của Trung Quốc đối với hai quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa. Họ cũng biện minh rằng khi CHXHCN Việt Nam bác bỏ điều này và cho rằng Việt Nam có đầy đủ chủ quyền một cách hợp pháp đối với Hoàng Sa, Trường Sa tức là Việt Nam đã vi phạm tới nguyên tắc estopel (tức là Việt Nam không thể đã thừa nhận lúc năm 1958 rồi sau này lại không thừa nhận, như vậy là mâu thuẫn trong lập luận của mình).
Để phân tích về giá trị pháp lý của công thư, ta thấy như sau:
Thứ nhất, công thư này nhằm trả lời cho một công hàm của Chính phủ Trung Quốc do Thủ tướng Chu Ân Lai ký về việc “công nhận hải phận 12 hải lý” là một tuyên bố đơn phương. Yếu tố chủ yếu trong tuyên bố đơn phương là việc thể hiện sự mong muốn. Sự thể hiện mong muốn này cần phải được giải thích bằng cách phân tích đối tượng và mục tiêu của tuyên bố đơn phương này trong các diễn biến lịch sử.
Việc giải thích ý chí của một quốc gia trong một tuyên bố đơn phương như vậy cần phải được diễn giải một cách thận trọng, và đối tượng của sự cam kết trong tuyên bố đơn phương đó phải được xác định chính xác. Lịch sử hình thành và ra đời của công thư như đã được trình bày ở trên.
Vậy công thư này có thể được hiểu là một tuyên bố từ bỏ chủ quyền của phía VNDCCH không? Đối với các yêu sách về lãnh thổ trong luật quốc tế, cũng như sự từ bỏ các yêu sách đó phải được trình bày một cách rõ ràng và không có suy diễn. Tuy nhiên, công thư do Thủ tướng Phạm Văn Đồng ký này không chứa đựng bất kỳ sự từ bỏ rõ ràng nào về chủ quyền đối với Hoàng Sa, Trường Sa. Nội dung công thư không thể hiện một sự bắt buộc từ bỏ chủ quyền.
Và thêm nữa, đối với các sự chuyển nhượng lãnh thổ, thì Thủ tướng VNDCCH không có thẩm quyền quyết định việc ấy, mà phải là cơ quan quyền lực tối thượng ở Việt Nam là Quốc hội. Và cuối cùng, VNDCCH không thể quyết định hoặc chuyển giao một thứ mà VNDCCH không có thẩm quyền quản lý theo công pháp quốc tế, và cũng không kiểm soát nó trong thực tế.
Bởi vì theo các quy định trong Hiệp định Geneve năm 1954 thì lúc này trên lãnh thổ Việt Nam tồn tại song song hai quốc gia, từ vĩ tuyến 17 trở ra phía Bắc là VNDCCH, còn từ vĩ tuyến 17 trở vào phía Nam là lãnh thổ thuộc VNCH. Hoàng Sa, Trường Sa đều nằm ở phía Nam của vĩ tuyến 17, vì thế về mặt pháp lý cũng như trong thực tế, hai quần đảo này là đối tượng quản lý của VNCH, và vì thế, những tuyên bố của phía VNDCCH đối với Hoàng Sa, Trường Sa vào thời điểm này là không có giá trị pháp lý.
Thứ hai, phía Trung Quốc thường đưa ra lập luận là vì Việt Nam đã công nhận chủ quyền của Trung Quốc đối với Hoàng Sa, Trường Sa và nay Việt Nam khước từ không công nhận điều đó thì Việt Nam đã vi phạm nguyên tắc estopel trong luật quốc tế.
Về vấn đề này thì trước hết phải xem xét tính chất pháp lý của việc công nhận xem nó có đáp ứng đầy đủ các yếu tố của một công nhận chính thức của một quốc gia liên quan đến một lãnh thổ hay không. Và như đã phân tích ở trên, công thư do Thủ tướng Phạm Văn Đồng ký này không cấu thành đầy đủ cho một sự công nhận chính thức của quốc gia về yêu sách lãnh thổ, cho nên nếu đã không có sự thừa nhận thì làm gì mà vi phạm estopel.
Và tiếp theo, estopel là một nguyên tắc bắt đầu từ trong nội luật của nước Anh, sau này được phát triển và công nhận trong luật quốc tế liên quan đến lãnh thổ. Tuy nhiên, hiểu về estopel là một điều phức tạp, nó không đơn thuần như các suy luận thông thường là một quốc gia cứ phát biểu một điều gì là bị ràng buộc bởi estopel. Nói đơn giản là có những lời hứa cho gì đó của một ai đó, thì người đưa ra lời hứa đó sẽ bị ràng buộc về mặt pháp lý, tuy nhiên, không phải lời hứa nào cũng bị ràng buộc pháp lý như vậy.
Estopel cũng được hiểu tương tự như vậy, tức là tuyên bố về một lãnh thổ sẽ bị ràng buộc bởi estopel. Nhưng như TS Từ Đặng Minh Thu đã phân tích: Phải đáp ứng được các điều kiện sau thì mới hình thành một estopel:
  1. Lời tuyên bố hoặc hành động phải do một người hoặc cơ quan đại diện cho quốc gia phát biểu, và phải được phát biểu một cách rõ ràng, công khai.
  2. Quốc gia nại “estopel” phải chứng minh rằng mình đã dựa trên những lời tuyên bố hoặc hoạt động của quốc gia kia mà có những hoạt động nào đó, hoặc không hoạt động. Yếu tố này trong luật quốc nội Anh - Mỹ gọi là “reliance”.
  3. Quốc gia nại “estopel” cũng phải chứng minh rằng vì dựa vào lời tuyên bố của quốc gia kia, mình đã bị thiệt hại, hoặc quốc gia kia đã hưởng lợi khi phát biểu lời tuyên bố đó.
  4. Nhiều bản án còn đòi hỏi lời tuyên bố hoặc hoạt động phải được phát biểu một cách liên tục và trường kỳ.
Như vậy, xem xét các điều kiện trên, ta thấy công thư của Thủ tướng Phạm Văn Đồng khó mà đáp ứng được các yêu cầu để trở thành một estopel. Vì thế nó chỉ nên được coi như một lời hứa vô thưởng vô phạt mà thôi.
* Xin cảm ơn ông.
Công thư 1958 không hề đề cập vấn đề chủ quyền lãnh thổ
Trong cuộc họp báo quốc tế chiều 23-5, ông Trần Duy Hải - phó chủ nhiệm UB Biên giới quốc gia - đã lên tiếng về công thư năm 1958 của cố Thủ tướng Phạm Văn Đồng.
Cụ thể, ông Hải nói: “Công thư của cố Thủ tướng Phạm Văn Đồng là văn bản ngoại giao, nó có giá trị pháp lý về những vấn đề được nêu trong nội dung, đó là Việt Nam tôn trọng 12 hải lý mà Trung Quốc tuyên bố. Công thư không đề cập chủ quyền lãnh thổ, vấn đề Hoàng Sa, Trường Sa nên đương nhiên nó không có giá trị pháp lý trong vấn đề chủ quyền Trường Sa, Hoàng Sa. Thứ hai, giá trị công thư cũng phải đặt trong bối cảnh cụ thể. Công thư gửi cho Trung Quốc trong bối cảnh Hoàng Sa, Trường Sa đang thuộc quyền quản lý của Việt Nam Cộng hòa theo Hiệp định Genève 1954 mà Trung Quốc có tham gia. Do đó, tôi xin nói logic thông thường là bạn không thể cho người khác cái gì khi bạn chưa có được (cái đó)”.
Thiếu tướng Lê Văn Cương, nguyên viện trưởng Viện Chiến lược - Bộ Công an:
“Công thư không thể có giá trị pháp lý bằng Hiệp định Geneve”
Công thư của cố Thủ tướng Phạm Văn Đồng thật ra là một bức công điện. Mục đích của nó không liên quan đến việc xác định chủ quyền. Nên nhớ vào năm 1958, tiềm lực quốc phòng của Mỹ ở thế áp đảo, gấp 10 lần tiềm lực quốc phòng của Trung Quốc. Tàu chiến của Mỹ suốt ngày hành trình ở bờ biển Phúc Kiến (Đài Loan), thậm chí chĩa pháo vào Trung Quốc. Khi Mỹ ép buộc Trung Quốc thì Việt Nam khi đó là đồng minh của Trung Quốc. Công thư của cố Thủ tướng Phạm Văn Đồng do đó chuyển tải thông điệp là 25 triệu người Việt Nam đứng bên cạnh 650 triệu người Trung Quốc. Đó là tinh thần thực chất.
Thứ hai, điều 4 Hiệp định Geneve 1954 quy định Việt Nam Cộng hòa quản lý vùng biển đảo phía nam vĩ tuyến 17, tức bao gồm hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Đây là văn bản pháp lý quan trọng nhất và duy nhất trong thế kỷ 20 khẳng định Hoàng Sa, Trường Sa là của Việt Nam. Phải đặt một công thư bên cạnh một hiệp định quốc tế thì chúng ta sẽ thấy rõ hiệu lực pháp lý của chúng thế nào. Có thể so sánh thế này: công thư tương đương như một văn bản cấp xã, Hiệp định Geneve thì như một văn bản của Thủ tướng chính phủ. Điều đó có nghĩa là chỉ có Hiệp định Geneve mới có thể phủ định công thư. Do vậy, giá trị pháp lý của công thư ở mức rất thấp so với Hiệp định Geneve.
HƯƠNG GIANG thực hiện

ĐẤU TRANH CHỐNG "DIỄN BIẾN HOÀ BÌNH" TRÊN CÁC PHƯƠNG TIỆN THÔNG TIN ĐẠI CHÚNG




-------
@GS.TS Vũ Văn Hiền*

1. "Diễn biến hoà bình" là một bộ phân trong chiến lược toàn cầu phản cách mạng của các thế lực thù địch với phương thức hành động tổng lực, phức hợp, rộng lớn chống các những xã hội chủ nghĩa và phong trào độc lập dân tộc. Diễn biến hoà bình được tiến hành trên mọi lĩnh chính trị, kinh tế, tư tưởng, văn hoá, xã hội bằng mọi biện pháp, trong đó nổi bật là theo cách từ bên ngoài gây ảnh  hưởng, thúc đẩy, kích thích hoạt động của các nhân tố đối lập, ngược chiều, phản diện ở bên trong; gián tiếp làm cho chúng dần dần lấn át, vượt trội và đè bẹp các nhân tố xã hội chủ nghĩa tại đây; cuối cùng gây nên sự chuyển hoá dường như là "tự thân" của bản chất thể chế và toàn bộ hệ thống xã hội. Chiến lược "diễn biến hoà bình" sử dụng biện pháp chiến lược "phi quân sự" là chủ yếu, nhưng sẽ kết hợp bạo loạn lật đổ, can thiệp vũ trang, kể cả xâm lược khi có điều kiện thời cơ.
Trong toàn bộ hệ thống kế hoạch "diễn biến hoà bình", "diễn biến hoà bình" trên phương tiện thông tin đại chúng là một bộ phần quan trọng trong cuộc chống phá ta về tư tưởng nói chung. Có thể nói đây là vũ khí lợi hại nhất vì nó thẩm thấu từ từ, lặng lẽ, tiến tới triệt tiêu hoàn toàn một chế độ xã hội mà hàng trăm tỷ USD đã không làm được. Trong những năm vừa qua, từ bên ngoài lãnh thổ nước ta đã có hơn 60 đài phát thanh truyền hình có chương trình tiếng Việt, hơn 600 tờ báo, tạp chí, bản tin bằng tiếng Việt xuất bản ở nước ngoài, trong đó có không ít thông tin chống phá nước ta.
Do tính chất đặc biệt nguy hại của thủ đoạn "diễn biến hoà bình" trên các phương tiện thông tin đại chúng, chống "diễn biến hoà bình" trên lĩnh vực này là một bộ phận hợp thành quan trọng trong toàn bộ hệ thống công tác chống""diễn biến hoà bình" nói chung và hoạt động chống "diễn biến hoà bình" về tư tưởng nói riêng.
2. Thực hiện nhiệm vụ đấu tranh chống "diễn biến hoà bình", hệ thống thông tin đại chúng của chúng ta thời gian qua đã có những đóng góp tích cực thể hiện trên những mặt sau:
Một là, thường xuyên và kịp thời phản bác lại những luận điệu xuyên tạc bóp méo, vu cáo của kẻ địch, kịp thời vạch trần động cơ, ý đồ đen tối đằng sau các sự kiện. Có nhiều báo, tạp chí mà đặc biệt là báo Nhân dân, Quân đội nhân dân đã duy trì thường xuyên mục: Thế  giới - Vấn đề, sự kiện, là các mục thể hiện rõ tính đấu tranh của báo chí nước ta.
Hai là, cách thể hiện có sự năng động, sáng tạo, lý luận khá sắc bén, cách viết sinh động dễ đi vào lòng người.
Theo chức năng và nhiệm vụ của mình, các cơ quan báo chí đều có những cách làm riêng để chống trả những luận điệu và những việc làm sai trái. Báo Nhân dân, Quân đội nhân dân, Đài Truyền hình Việt Nam, Đài Tiếng nói Việt Nam, Tạp chí Cộng sản là những cơ quan báo chí quan trọng nhất tham gia nhiệm vụ này với nhiều bài chuyên luận sâu sắc giải quyết khá tốt về mặt lý luận của vấn để nhiều bài bình luận đạt được độ sắc bén về cách nhìn và lập luận.
Ba là, bước đầu thể hiện tính chủ động, tích cực.
Tính chiến đấu của báo chí ta chống lại âm mưu, "diễn biến hoà bình" ngày càng rõ hơn, thể hiện ở nhiều mức độ khác nhau từ thụ động phản bác luận điểm, vạch trần âm mưu đằng sau sau các sự kiện vừa xảy ra, đến chủ động tấn công chính ngay các khuyết tật của xã hội tư sản; từ thụ động đối phó với từng chỉ trích từ bên ngoài đến chủ động trình bày chính diện quan điểm của Đảng, Nhà nước  ta một cách có hệ thống trên những vấn đề lớn như tự do, dân chủ, nhân quyền, sở hữu, kinh tế thị trường và định hướng xã hội chủ nghĩa...
Bốn là, thực hiện tốt phương châm kết hợp "chống" và "xây", chống quyết liệt và xây tích cực.
Đấu tranh chống "diễn biến hoà bình" không chỉ là thụ động phản bác những luận điệu xuyên tạc, bóp méo, vu cáo bịa đặt của địch, mà điều quan trọng là khẳng định tính đúng đắn của đường lối, chính  sách của Đảng và Nhà nước  ta; là xây dựng cách nhìn, quan điểm đúng đắn cho đông đảo quần chúng, đặc biệt là cho đội ngũ cán bộ, đảng viên, bởi đây là đối tượng quan trọng hàng đầu của âm mưu "diễn biến hoà bình".
Mặc dù đã có sự chuẩn bị nghiêm túc, có sự nhất quán và quyết tâm cao, đã đạt được những kết quả đáng ghi nhận trong việc đấu tranh chống "diễn biến hoà bình" trên các phương tiện thông tin đại chúng, nhưng hoạt động này của chúng ta còn nhiều mặt hạn chế, còn bộc lộ những khuyết nhược điểm. Đó là:
- Thứ nhất, để chống "diễn biến hoà bình" có hiệu quả trên báo chí nói riêng cũng như trên mặt trận tư tưởng - văn hoá nói chung, còn nhiều vấn đề lý luận, quan điểm cơ bản chúng ta chưa nghiên cứu thật sâu, chưa làm sáng tỏ, nhất là những nhận thức đúng đắn về chủ nghĩa Mác - Lênin trong thời đại ngày nay, lý luận về chủ nghĩa xã hội, về con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Báo chí cũng chưa tạo ta được một cách chắc chắn để "miễn dịch" đối với các thông tin trái chiều về những vấn đề trên.
- Thứ hai, trong những năm qua, mặc dù đã có sự chỉ đạo tập trung và có sự phối kết hợp giữa các lực lượng thông tin đại chúng trong việc chống "diễn biến hoà bình", nhưng sự tham gia của các cơ quan báo chí chưa thật mạnh mẽ, chưa đồng đều. Có những cơ quan báo chí thuộc các ngành, đoàn thể, phát hành với số lượng lớn, song còn ít tham gia cuộc đấu tranh này. Ngay ở những cơ quan báo chí lớn, mặc dù vẫn coi việc đấu tranh tư tưởng, đấu tranh chống "diễn biến hoà bình" là công việc thường xuyên, nhưng thực tế là vẫn chưa tập trung một cách đúng mức về sức lực và trí tuệ cho nhiệm vụ đó.
- Thứ ba, các bài báo, tác phẩm báo chí tham gia đấu tranh vẫn thiếu chủ động, chưa thật sắc bén, tính thuyết phục chưa cao; nhiều khi bị động, dấy lên từng đợt rồi lại lắng xuống; đôi khi nặng về khía cạnh chính trị, thời sự trực tiếp, thiếu cơ bản và hệ thống.
- Thứ tư, trong khi sự phản bác còn có phần chưa mạnh mẽ, thì hoạt động báo chí đôi khi lại có sơ hở. Đúng là tệ quan liêu, tham nhũng, buôn lậu, tiêu cực xã hội còn rất nghiêm trọng, chúng ta phải kiên quyết đấu tranh, nhưng do thiếu thận trọng, hoặc do chưa hiểu thấu đáo vấn đề mà đã đưa ra những điều không đúng sự thật, có khi vô tình tiết lộ bí mật, cung cấp chứng cớ để các thế lực bên ngoài chống ta.
- Thứ năm, chưa có sự đầu tư đúng mức cho việc nghiên cứu cơ bản về cả lý luận và nghiệp vụ đối với các nhà báo và các cán bộ quản lý báo chí; chưa có sự quan tâm, tăng cường thích đáng về phương tiện, chính sách chế độ đối với những người trực tiếp tham gia vào công việc này.
3. Đấu tranh chống hoạt động phá hoại tư tưởng thông qua báo chí là một cuộc đấu tranh gay go và không kém phần ác liệt, nhưng nếu chúng ta tổ chức tốt công tác phòng ngừa, giữ vững bên trong, đồng thời tích cực và chủ động giáng trả mọi âm mưu, luận điệu thù địch bất cứ từ đâu đến, thì nhất định sẽ làm thất bại chiến lược "diễn biến hoà bình" của chúng. Trên cơ sở nắm vững phương hướng và chủ trương của Đảng, Nhà nước , chúng ta cần tiến hành những giải pháp đồng bộ, cụ thể cho hoạt động của các phương tiện thông tin đại chúng.
a) Xác định rõ những nội đung cần tập trung đấu tranh.
Có thể nêu một số nội dung cơ bản trên một số lĩnh vực như sau:
- Về chính trị tư tưởng:
Hệ thống thông tin đại chungs của chúng ta phải làm rõ những vấn đề sau: Khẳng định những giá trị bền vững của chủ nghĩa Mác - Lênin. Khẳng định và làm rõ chủ nghĩa Mác - Lê nin, Tư tưởng Hồ Chí Minh là nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho cách mạng Việt Nam ; sự lựa chọn con đường đi lên chủ nghĩa xã hội của nước ta là đúng đắn; khẳng định vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam là điều kiện tiên quyết để cách mạng Việt Nam thành công; làm rõ cơ sở khoa học của các chủ trương đường lối của Đảng, chính  sách của Nhà nước  về đoàn kết dân tộc, về dân chủ, về nhân quyền, về hệ thống chính trị, Nhà nước  của dân, do dân và vì dân; làm rõ những quan điểm cơ bản của Đảng trong sự nghiệp đổi mới, các nghị quyết, văn kiện của Trung ương; những thành tựu và tồn tại cũng như bài học kinh nghiệm của 30 năm đổi mới vừa qua...
- Trên lĩnh vực kinh tế.
Mục tiêu "diễn biến hoà bình" của các thế lực thù địch là lợi dụng sự đổi mới, mở cửa của chúng ta để tấn công vào định hướng xã hội chủ nghĩa, khuyến khích xu hướng thị trường tự do và tư nhân hoá tràn lan, tách rời sự quản lý của Nhà nước , từng bước làm cho nền kinh tế nước ta lệ thuộc vào nước ngoài.Vì thế, báo chí phải là những kênh thông tin đa dạng, nhiều chiều, với phạm vi thông tin rộng, lượng thông tin lớn và kịp thời, góp phần đắc lực vào việc nâng cao hiệu quả quản lý kinh tế, quản lý xã hội. Một mặt, tuyên truyền đưa đường lối, chính sách của Đảng, Nhà nước  vào cuộc sống;  mặt khác, là kênh thông tin phản ánh các vấn đề thực tiễn sinh động đang diễn ra, tổng kết thực tiễn để bổ sung lý luận, kiểm tra sự đúng đắn của đường lối,chính sách. điều đó cũng tức là đưa cuộc sống vào đường lối, chính sách của Đảng.
- Trên lĩnh vực văn hoá - xã hội.
Văn hoá - xã hội là nền tảng tinh thần của xã hội, là động lực thúc đẩy tiến bộ xã hội, đồng thời là mục tiêu cao cả của chủ nghĩa xã hội. Văn hoá có vai trò đặc biệt quan trọng trong việc bồi dưỡng và phát huy nhân tố con người, xây dựng xã hội mới và con người mới. Đây là một lĩnh vực rộng lớn, phức tạp, nhạy cảm gắn với tư tưởng, tình cảm, tâm tư của con người. Hệ thống báo chí, một mặt kịp thời ngăn chặn các âm mưu, thủ đoạn xuyên tạc, bôi nhọ của kẻ thù; mặt khác quan trọng hơn là phải biết khai thác, giữ gìn và phát huy truyền thống văn hoá dân tộc, làm cho truyền thống ấy được hoà nhập và nâng cao trên cơ sở tiếp thu những tinh hoa văn hoá nhân loại, tạo ra động lực mạnh cho sự phát triển đất nước.
b) Tăng cường sự lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng, nâng cao hiệu quả quản lý của Nhà nước với hệ thống báo chí.
Báo chí phải đặt dưới sự lãnh đoạ của Đảng, sự quản lý của Nhà nước  và hoạt động trong khuôn khổ pháp luật,là tiếng nói của Đảng, của Nhà nước, của các tổ chức chính trị - xã hội và là diễn đàn của nhân dân, luôn đi đầu trong việc bảo vệ chủa nghĩa Mác - Lênin, Tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước...
Đây là định hướng rất cơ bản của Đảng đối với hoạt động báo chí trong cuộc đấu tranh chống "diễn biến hoà bình" trên các phương tiện thông tin đại chúng hiện nay. Quán triệt và thực hiện nghiêm túc vấn đề này cũng chính là một giải pháp cơ bản để nâng cao hiệu quả của cuộc đấu tranh. Báo chí nước ta đòi hỏi phải có sự lãnh đạo của Đảng - một đảng được vũ trang bằng lý luận cách mạng và khoa học, sẽ đưa báo chí đổi mới và phát triển đúng hướng; đưa cuộc đấu tranh chống "diễn biến hoà bình" đi đến thắng lợi.
c) Tăng cường sức chiến đấu trên cơ sở phát triển và hoàn thiện hệ thống các phương tiện thông tin đại chúng.
- Xây dựng môt hệ thống truyền thông đại chúng phong phú, đa dạng. Hệ thống này phải bảo đảm đủ sức mạnh và khả năng để đáp ứng một cách tích cực nhất các nhu cầu được thông tin ngày càng tăng lên của nhân dân. Không những thế, truyền thông đại chúng còn phải có đủ khả năng và sức mạnh tham gia vào hoạt động giao lưu thông tin quốc tế. Nó phải có khả năng tiếp nhận, xử lý và tung vào dòng giao lưu thông tin truyền thông quốc tế một lượng thông tin đủ lớn, đủ mạnh để tạo ra một tiếng nói công bằng, tăng cường hiểu biết lẫn nhau giữa nhân dân các nước, phát huy và bảo vệ những lợi ích kinh tế, định hướng chính trị, những giá trị văn hoá của dân tộc, quốc gia và chế độ.
- Tăng cường cơ sở vật chất, kỹ thuật, bảo đảm phát huy tính hiệu quả cao của các phương tiện thông tin đại chúng. Đổi mới nhanh trang - thiết bị kỹ thuật thông tin để có thể hoà nhập vào tình độ kỹ thuật thông tin thế giới, phát huy hiệu quả cao của các phương tiện thông tin đại chúng. Vấn đề này đòi hỏi chúng ta phải mạnh dạn đầu tư, đón trước sự phát triển như vũ bão của kỹ thuật điện tử trong thời đại ngày nay.
d) Nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ làm công tác thông tin đại chúng, trong đó đặc biệt chú trọng đến các chiến sĩ xung kích trên mặt trận đấu tranh chống "diễn biến hoà bình".
Giải pháp có ý nghĩa quyết định là xây dựng, tuyển chọn, đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ thông tin đại chúng từ những người lãnh đạo đến các chuyên gia, người làm báo cũng như các nhân viên kỹ thuật nghiệp vụ.  Rút cục lại, cán bộ là yếu tố đầu tiên và cuối cùng chi phối khuynh hướng, chất lượng, khả năng tổ chức thực hiện các nhiệm vụ hoạt động thông tin đại chúng. Xây dựng đội ngũ cán bộ cần được thực hiện trên các mặt sau:
- Nang cao bản lĩnh chính trị, mài sắc ý chí chiến đấu bảo vệ lý tưởng xã hội chủ nghĩa của chúng ta. Không ai có thể phủ nhận rằng, đại đa số những người làm công tác thông tin đại chúng ở nước ta hiện nay là những người tâm huyết với dân tộc, tin theo Đảng, theo cách mạng và chiến đấu để thực hiện lý tưởng cách mạng. Song bên cạnh đó, phải nói rằng tinh thàn đấu tranh của đội ngũ đó chưa đồng đều. Những yếu kém của một số cán bộ báo chí đã hạn chế hiệu quả của cuộc đấu tranh chống "diễn biến hoà bình" qua các phương tiện thông tin đại chúng. Bởi vậy, một mặt chúng ta cần phát huy mạnh mặt ưu điểm, củng cố vững chắc trận địa đấu tranh. Mặt khác, phải gấp rút và kiên quyết sửa chữa những mặt yếu kém.
- Nâng cao trình độ lý luận, chuyên môn, nghiệp vụ của đội ngũ cán bộ làm công tác truyền thông đại chúng. Cùng với ý chí, lòng dũng cảm, hiệu quả của cuộc đấu tranh chống "diễn biến hoà bình" còn phụ thuộc phấn lớn vào tài trí của đội ngũ cán bộ. Tài trí thể hiện  ở chỗ đấu tranh thắng lợi trên mặt trận chính trị, vạch rõ bản chất, thủ đoạn của kẻ thù, nhưng không làm phương hại đến chính sách đối ngoại thêm bạn bớt thù, mở cửa hội nhập. Muốn vậy, đội ngũ cán bộ cần thường xuyên trau dồi kiến thức, nâng cao trình độ lý luận, chuyên môn, nghiệp vụ phục vụ cho cuộc đấu trí này. Trước hết, đội ngũ của chúng ta cần được trang bị một cách đầy đủ, vững chắc lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin và Tư tưởng Hồ Chí Minh cũng như thông suốt đường lối chính sách của Đảng. Chúng ta coi đây là cuộc đấu tranh quan điểm nhằm làm sáng tỏ tính đúng đắn của chủ nghĩa Mác - Lê nin và Tương tưởng Hồ Chí Minh, của con đường xã hội chủ nghĩa mà Bác Hồ, Đảng và nhân dân ta đã lựa chọn. Trau dồi ngoại ngữ và các kiến thức khác cũng là công việc cần thiết để tiếp cận mạng thông tin, nắm bắt và xử lý thông tin một cách nhanh nhạy, chính xác.
- Tổ chức lực lượng chuyên sâu trong nghiên cứu và tuyên truyền. Đấu tranh thông qua các sản phẩm của thông tin đại chúng là công việc thường xuyên. Bởi vậy, phải có lực lượng chuyên sâu tập trung công sức để thực hiện công việc này, tránh tình trạng "ăn đong", bị động. Điều này đặc biệt có ý nghĩa đối với việc phân tích, lý giải có cơ sở khoa học, có sức thuyết phục trong những chiến dịch tập trung phản kích các âm mưu của kẻ thù. Do vậy, đào tạo những nhà báo chuyên sâu và có chính sách khuyến khích học tập, khuyến khích sự tiếp cận với xu hướng đổi mới thông tin của thế giới, là một việc làm cần thiết vừa cho trước mắt vừa cho lâu dài.


* Phó Chủ tịch Hội đồng Lý luận Trung ương