Chủ Nhật, 28 tháng 9, 2014

Thành tựu kinh tế 39 năm sau ngày thống nhất

39 năm đã qua kể từ ngày 30/4/1975 đất nước thống nhất, giang sơn thu về một mối, tăng trưởng kinh tế đã đạt được nhiều thành tựu, nhưng cũng đặt ra không ít vấn đề cần giải quyết.
Những thành tựu về tăng trưởng kinh tế từ năm 1976 đến nay được nhận diện trên một số điểm chủ yếu.

Thứ nhất, quy mô kinh tế năm 2013 đã cao gấp gần 7,8 lần năm 1976, trong đó nông nghiệp cao gấp gần 5,6 lần, công nghiệp cao gấp trên 32,4 lần, xuất khẩu cao gấp 593,3 lần, nhập khẩu gấp 129 lần… Bình quân 1 năm GDP đã tăng 5,71%, trong đó thời kỳ 1991-2005 đã tăng khá cao (7,17%/năm).
Tốc độ tăng GDP từ 1976 đến nay (%)
Nguồn: Từ 1976-2013: Tổng cục Thống kê; KH 2014: Nghị quyết của Quốc hội
Thứ hai, tăng trưởng kinh tế Việt Nam đã tăng liên tục trong thời gian khá dài. Tính từ năm 1981 đến nay, kinh tế Việt Nam đã tăng trưởng liên tục 33 năm, phải chăng chỉ thấp thu kỷ lục thế giới 36 năm liên tục mà Trung Quốc hiện đang nắm giữ.
Thứ ba, do quy mô GDP tăng cao hơn nhiều so với của quy mô dân số (cao gấp 7,79 lần so với 1,82 lần), nên GDP bình quân đầu người năm 2013 tính theo giá so sánh đã cao gấp gần 4,3 lần năm 1976, bình quân 1 năm tăng khoảng 4%, trong đó thời kỳ 1991-2005 đã tăng 5,6%/năm, một tốc độ tăng khá cao không phải thời kỳ nào và nước nào cũng có thể đạt được.
Thứ tư, cũng do quy mô GDP tăng cao gấp nhiều lần hơn so với quy mô lao động đang làm việc tăng (7,79 lần so với 2,9 lần), nên năng suất lao động đã tăng gần 2,71 lần, trong đó của thời kỳ 1991-2005 đã đạt 4,54%/năm, là tốc độ tăng khá cao.
Thứ năm, nhờ tăng trưởng kinh tế khá, dân số tăng chậm lại, giá USD tăng chậm hơn nhiều so với giá tiêu dùng và giá vàng, nên GDP bình quân đầu người tính bằng USD theo tỷ giá hối đoái đã tăng khá cao qua các năm. 
Nếu vào năm 1988 đỉnh điểm của cuộc khủng hoảng kinh tế-xã hội tiềm ẩn từ những năm 70, bùng phát trong những năm 80 của thế kỷ trước, GDP bình quân đầu người của Việt Nam chỉ đạt 86 USD, nằm trong vài chục nước có mức thu nhập thấp nhất thế giới, thì đến năm 2010 đã đạt 1.273 USD, gia nhập nhóm nước có thu nhập trung bình và năm 2013 đã đạt 1.899 USD. Đây là sự chuyển đổi vị thế có tầm quan trọng hàng đầu của Việt Nam.
Thứ sáu, cùng với việc chuyển đổi cơ chế ở trong nước (từ kế hoạch hóa tập trung bao cấp với hai loại hình quốc doanh và tập thể là chủ yếu sang cơ chế thị trường với nhiều loại hình kinh tế) là sự mở cửa, hội nhập ngày một sâu rộng với thế giới. 
Từ chỗ bị bao vây cấm vận, đến nay đã có khoảng 90 nước và vùng lãnh thổ đầu tư trực tiếp (FDI) vào Việt Nam với lượng vốn đăng ký lên đến khoảng 270 tỷ USD, lượng vốn thực hiện đạt khoảng 114 tỷ USD; khu vực FDI đã chiếm khoảng 45% giá trị sản xuất công nghiệp, 20% GDP, gần 2/3 kim ngạch xuất khẩu, gần 1/4 tổng lượng vốn đầu tư phát triển toàn xã hội. Tổng lượng vốn hỗ trợ phát triển chính thức (ODA) theo cam kết đạt khoảng 81 tỷ USD, giải ngân gần 41 tỷ USD…
Hiện có trên dưới 200 nước và vùng lãnh thổ trên thế giới có quan hệ buôn bán với Việt Nam, trong đó có hầu hết những nền kinh tế phát triển, với tổng kim ngạch xuất khẩu lên đến trên 264 tỷ USD, trong đó xuất khẩu đạt trên 132 tỷ USD; tỷ lệ xuất, nhập khẩu/GDP đạt 155,1%. 
Việt Nam là nước có độ mở khá rộng, nằm trong tốp 5 nước trên thế giới có tỷ lệ trên cao như vậy.  Trong quan hệ với nước ngoài, Việt Nam đã chuyển từ nước nhập siêu lớn sang nước xuất siêu nhẹ trong vài ba năm nay.
Bên cạnh những kết quả tích cực như trên, về tăng trưởng kinh tế hiện nay cũng có những hạn chế, bất cập và đứng trước những thách thức không nhỏ.
Tốc độ tăng trưởng mấy năm nay đã chậm lại, vừa thấp hơn tiềm năng, vừa thấp hơn mục tiêu, làm xuất hiện nguy cơ tụt hậu xa hơn về quy mô tuyệt đối GDP và GDP bình quân đầu người tính bằng USD. Chất lượng tăng trưởng nhìn chung còn thấp, nhất là về hiệu quả đầu tư, năng suất lao động.
Theo chinhphu.vn

Thành tựu phát triển ấn tượng của Việt Nam

(HNM) - Hòa chung trong không khí cả nước chào mừng kỷ niệm 39 năm Giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước, nhiều người nước ngoài đang sống và làm việc tại Hà Nội bày tỏ sự lạc quan trước những thành tựu phát triển kinh tế - xã hội của Việt Nam. Phóng viên Báo Hànộimới đã ghi lại một số cảm nhận này.
Ông Tomoyuki Kimura, Giám đốc Quốc gia Ngân hàng Phát triển Châu Á (ADB) tại Việt Nam: 
ADB luôn sát cánh bên Chính phủ và nhân dân Việt Nam

 

Là đối tác tin cậy và người bạn thân thiết của Chính phủ và nhân dân Việt Nam, chúng tôi khâm phục những thành tựu to lớn của Việt Nam trong hai thập kỷ qua, với mức GDP theo đầu người đã tăng gấp gần bốn lần trong khi tỷ lệ nghèo đã giảm từ mức gần 50% xuống còn hơn 10%. Sự chuyển đổi về kinh tế và xã hội đầy ấn tượng này là kết quả thực hiện những quyết định chính sách quan trọng và định hướng chính xác của Chính phủ cho sự chuyển đổi từ nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung sang nền kinh tế thị trường, tạo tiền đề để Việt Nam hội nhập ngày càng sâu rộng với các nền kinh tế trong khu vực và kinh tế toàn cầu.

Được tham gia một phần trong câu chuyện phát triển thành công này là vinh dự đặc biệt đối với ADB. Từ khi bắt đầu các hoạt động vào năm 1993, ADB đã cung cấp trên 12 tỷ USD hỗ trợ phát triển cho Việt Nam, chủ yếu để tài trợ cho các cơ sở hạ tầng vật chất và hạ tầng xã hội. Các chương trình, dự án hạ tầng được ADB tài trợ đang phát huy hiệu quả và đóng góp to lớn trong việc cải thiện đời sống của nhân dân cũng như cho tăng trưởng vì mọi người. Tôi muốn chúc mừng những thành tựu của nhân dân Việt Nam và bày tỏ lời cảm ơn chân thành của chúng tôi về cơ hội đã cho ADB đóng góp một phần vào tiến trình phát triển của đất nước các bạn. ADB sẽ tiếp tục phát huy quan hệ đối tác này và sẽ vẫn là một đối tác đáng tin cậy của Chính phủ và nhân dân Việt Nam trong những năm tới.

Ông Mori Mutsuya, Trưởng đại diện Cơ quan Hợp tác quốc tế Nhật Bản (JICA) tại Việt Nam: 
Nhật Bản tự hào khi được đóng góp vào sự phát triển của Việt Nam

Nhật Bản và Việt Nam chính thức thiết lập quan hệ ngoại giao năm 1973. Vì thế, Nhật Bản đã chứng kiến những bước phát triển của Việt Nam kể từ khi thống nhất đất nước (năm 1975) đến nay. Chúng tôi vui mừng khi được chứng kiến những thành tựu đáng kể trong phát triển kinh tế - xã hội của Việt Nam. Với chính sách Đổi mới được thực hiện từ năm 1986 đến nay, hợp tác quốc tế và đầu tư nước ngoài tại Việt Nam đã tăng lên nhanh chóng. Kể từ khi nối lại Viện trợ phát triển chính thức (ODA) cho Việt Nam (cuối năm 1992), Nhật Bản luôn là một trong những đối tác phát triển lớn nhất của Việt Nam. Là cơ quan thực hiện chính các dự án ODA của Nhật Bản tại Việt Nam, JICA được sát cánh với nhân dân Việt Nam trong hơn 20 năm qua. Đến nay tổng số vốn vay ODA của Nhật Bản dành cho Việt Nam đã lên tới 2.200 tỷ yên, chiếm 30% tổng vốn ODA tại Việt Nam. Trong liên tiếp hai năm 2012 và 2013, Nhật Bản đứng đầu danh sách các nhà đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam. Chúng tôi tự hào vì đã góp phần vào sự phát triển kinh tế - xã hội cũng như cải thiện đời sống của người dân Việt Nam.

Ông Kim In, Trưởng đại diện Cơ quan Hợp tác quốc tế Hàn Quốc (KOICA) tại Việt Nam: 
Thành tựu phát triển của Việt Nam thật ấn tượng

Mặc dù từ giữa những năm 80 của thế kỷ trước, Việt Nam vẫn phải đối mặt với nhiều thách thức do hậu quả của chiến tranh và cấm vận kinh tế. Thế nhưng sau khi thực hiện chính sách Đổi mới năm 1986, kinh tế Việt Nam đã có những bước phát triển thật ấn tượng. Đến năm 2010, tốc độ tăng trưởng GDP bình quân của Việt Nam đã đạt 7,2%/năm, kim ngạch xuất khẩu tăng 3 lần so với năm 1990 và được đánh giá là quốc gia có nhiều tiềm năng phát triển kinh tế. Sau khi thiết lập quan hệ ngoại giao năm 1992, hợp tác giữa Hàn Quốc và Việt Nam không ngừng phát triển, từ quan hệ "Đối tác hợp tác toàn diện" được nâng lên thành "Đối tác hợp tác chiến lược". Quy mô viện trợ ODA không hoàn lại của Chính phủ Hàn Quốc thông qua KOICA dành cho Việt Nam cũng ngày càng được mở rộng.

Văn phòng KOICA sau khi được thành lập ở Việt Nam năm 1994, đến nay đã thực hiện nhiều dự án đóng góp vào sự phát triển kinh tế - xã hội của Việt Nam và mối quan hệ hợp tác giữa hai nước. Các lĩnh vực hỗ trợ trọng điểm của KOICA với Việt Nam gồm môi trường và tăng trưởng xanh; phát triển nguồn nhân lực (kỹ thuật, dạy nghề); hạ tầng kinh tế…

Thành tựu nhân quyền Việt Nam là một thực tế khách quan

Dân tộc Việt Nam có một bề dầy về lịch sử và một nền văn hiến lâu đời. Trong hơn 4000 năm dựng nước và giữ nước, mặc dù có hàng ngàn năm bị đô hộ của ngoại bang nhưng vẫn quyết đứng lên giành lại độc lập, đó là cách thể hiện nhân quyền cao nhất của một dân tộc. Và sau này cả dân tộc Việt Nam tuyên bố với thế giới bằng bản tuyên ngôn độc lập mà Chủ tịch Hồ Chí Minh đã soạn thảo. Đó là một tuyệt tác, nó nhắc lại một lần nữa bản tuyên ngôn độc lập của cường quốc Hoa Kỳ năm 1776. Bản tuyên ngôn độc lập khai sinh ra nước Việt Nam dân chủ cộng hoà cũng là bản tuyên ngôn về nhân quyền cho dân tộc Việt Nam, về ý nghĩa nó bao trùm tất cả những điều mà loài người tiến bộ trên toàn thế giới theo đuổi. Thành tựu nhân quyền Việt Nam là một thực tế khách quan, được đông đảo các nước trên thế giới công nhận và điển hình là việc Hội đồng Nhân quyền Liên hợp quốc tín nhiệm bầu Việt Nam là thành viên của hội đồng này, tại phiên họp diễn ra năm ngoái. Thế nhưng, việc bản ghi nhận về nhân quyền Việt Nam được khẳng định từ chính kiến trong Hạ viện Mỹ đã khiến dư luận chú ý bởi nhiều lẽ. Lâu nay, Việt Nam rất thiện chí trong việc tạo điều kiện để cá nhân, tổ chức nước ngoài vào tìm hiểu tình hình nhân quyền, từ đó có cách nhìn khách quan, đúng đắn hơn, đồng thời sẵn sàng đối thoại để làm rõ những vấn đề còn khác biệt.
Một nguyên tắc cơ bản nhất bảo vệ quyền con người đó là các nước nhỏ chống lại tham vọng tước đoạt độc lập, chủ quyền của các nước lớn, chống lại áp bức, chống lại kiếp làm nô lệ, chống lại bạo quyền, chống độc tài. Bất cứ một sự can thiệp nào của nước lớn vào công việc nội bộ của một nước mà chính phủ đó do dân bầu ra , chính phủ đó vì dân thì sự can thiệp chỉ là một cái cớ áp đặt hòng thao túng theo ý đồ nước lớn. Dân tộc Việt Nam sẽ phản đối đến cùng sự áp đặt đó, quyền con người được tôn trọng và ngày càng thăng hoa khi chủ quyền quốc gia được giữ vững, đó là điều kiện tiên quyết.Vừa qua, Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ lại công bố Bản “Phúc trình thường niên về tình hình nhân quyền thế giới” trong đó có Việt Nam mà các thông tin đó hoàn toàn phiến diện không như thực tế. Vẫn như hằng năm, văn bản này nói chung không có gì mới về quan điểm, về thông tin, nhất là cách tiếp cận có tính chất cường quyền mà nhiều quốc gia đã lập tức phản hồi kịch liệt.
Quyền con người là giá trị chung của các dân tộc, không phân biệt chế độ chính trị, thể chế quốc gia và bản sắc văn hóa. Đó là giá trị cốt lõi, đặc trưng của nhân loại. Chính vì vậy, các quốc gia không chấp nhận bất cứ hành động nào nhằm chính trị hóa vấn đề nhân quyền. Một dân tộc trải qua hai cuộc chiến tranh thần thánh được cả thế giới ngợi ca về lòng quả cảm , về nhân phẩm con người thì không có một lý do gì lại không bảo vệ thành quả xương máu đó mà đỉnh cao nhất đó là quyền làm chủ một quốc gia độc lập. Vậy mà Dự luật HR 1897 lặp lại điệp khúc tố cáo Việt Nam “vi phạm nhân quyền” và đưa ra khuyến nghị nhằm cải thiện tình hình nhân quyền ở Việt Nam thông qua ràng buộc điều kiện nhân quyền và dân chủ vào các khoản viện trợ phi nhân đạo dành cho Chính phủ Việt Nam, đồng thời cổ súy thái độ cứng rắn hơn đối với Việt Nam trong lĩnh vực nhân quyền và tự do tôn giáo. Những bản đánh giá được nêu ra từ Hạ viện Mỹ, trong đó một số Hạ nghị sĩ có những đánh giá mang tính định kiến về nhân quyền Việt Nam. Chẳng hạn, năm 2013, cơ quan này ra dự luật Nhân quyền Việt Nam HR 1897 kêu gọi siết chặt chế tài với Hà Nội, được Hạ viện Hoa Kỳ thông qua trước hạn. Đây là dự luật do hai nghị sỹ Ed Royce, đảng Cộng hòa, bang California và Chris Smith, đảng Cộng hòa, bang New Jersey, khởi xướng. Mặc dù nhiều báo cáo và dự luật thiếu khách quan nói trên của Hạ viện sau đó bị Thượng viện Mỹ bác bỏ, nhưng sự lặp lại có tính thường niên của cơ quan này khiến dư luận đặt câu hỏi về những lý do, ý đồ đằng sau sự đánh giá có tính áp đặt và sai lạc đó. Hai vị dân biểu này không lạ lẫm gì đối với người dân Việt Nam, đã nhiều lần họ đã cố gắng thúc đẩy lưỡng viện Hoa Kỳ thông qua những cái gọi là những “dự luật” để vu khống, áp đặt những điều bịa đặt đến phi lý lên một quốc gia có chủ quyền độc lập, một quốc gia đã ký kết tất cả các văn kiện về quyền con người và nỗ lực thực thi nội dung một cách đầy đủ nhất. Là những người hoạt động chính trị chuyên nghiệp thì các vị dân biểu tại hạ viện Hoa Kỳ phải hiểu rằng, trật tự thế giới này được duy trì trên nguyên tắc tôn trọng độc lập chủ quyền của nhau, không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau, bình đẳng và cùng có lợi cho nhau, cùng chung sống hoà bình.
Mỗi quốc gia có quyền lựa chọn cho mình một định chế xã hội và ý thức hệ, mỗi quốc gia độc lập thì tuỳ theo thực tế mỗi nước mà lựa chọn riêng cho mình. Nội dung quyền về con người là một vấn đề riêng của mỗi nước, nó cũng giống như chủ quyền quốc gia vậy, vấn đề về nhân quyền không thể nào tách riêng ra khỏi lịch sử của đất nước đó hoặc những nét đặc thù riêng của từng quốc gia.Vấn đề nhân quyền cho thấy nó đòi hỏi tất cả các nước phải chấp nhận một thực tế là những chuẩn mực của một nước hoặc là một nhóm các nước không thích hợp và thiếu thực tế để áp đặt những chuẩn mực đó lên một nước khác. Trong một thời gian dài nhiều thông tin về Việt Nam bị một số cá nhân, tổ chức không có thiện cảm cố tình bôi nhọ,bóp méo,nên việc Chắt lọc thông tin,thái độ góp ý xây dựng,sự tìm hiểu khách quan những tiến bộ,những tồn tại sẽ giúp các bên xích lại gần hơn trong vấn đề này. Đây cũng là lý do mà nhiều năm qua, Việt Nam luôn tạo điều kiện để các tổ chức có trách nhiệm của quốc tế và các nước vào tìm hiểu và đối thoại thẳng thắn, nắm bắt thông tin chính xác về nhân quyền. Một quan chức bộ ngoại giao đã nói:“Khi họ vào đây, chúng tôi cũng sẵn sàng tạo điều kiện cho đi tìm hiểu các địa phương. Hôm chia tay đoàn nghị sĩ Nghị viện Châu Âu, khi được hỏi “các ngài thấy thế nào, họ trả lời, quả thực chứng kiến những tiến bộ về quyền con người ở Việt Nam, người ta có câu “trăm nghe không bằng một thấy”, các ngài nói câu ấy, giờ tôi mới hiểu, mới tâm đắc”. Năm 2013, đối thoại Nhân quyền Việt Nam – Hoa Kỳ lần thứ 17 đã diễn ra tại Hà Nội và tại cuộc đối thoại, hai bên đã thẳng thắn trao đổi thông tin về những vấn đề mà hai bên cùng quan tâm, trong đó có các vấn đề liên quan đến nhà nước pháp quyền, tự do ngôn luận, tự do tôn giáo, quyền của người khuyết tật, người đồng tính, việc thực hiện khuyến nghị cơ chế báo cáo UPR, tình hình thực thi và bảo vệ các quyền con người ở Việt Nam và Hoa Kỳ. Trong thời gian ở Việt Nam, đoàn Phó Trợ lý Ngoại trưởng Hoa Kỳ Daniel Baer đã được tạo điều kiện gặp một số cá nhân phía Hoa Kỳ quan tâm và người phát ngôn Bộ Ngoại giao Việt Nam, ông Lê Thanh Nghị nói. “Chúng tôi tin rằng việc Việt Nam và Hoa Kỳ duy trì đối thoại thường xuyên về các vấn đề, trong đó có vấn đề quyền con người, trên tinh thần cởi mở, xây dựng, bình đẳng và tôn trọng lẫn nhau sẽ góp phần tăng cường hiểu biết, thúc đẩy hợp tác, vì lợi ích của nhân dân hai nước”. Bên cạnh đó, một vấn đề cũng hết sức quan trọng là bảo đảm nâng cao khả năng tiếp cận quyền của người dân. Hiến pháp, pháp luật đã ghi nhận các quyền cơ bản của con người, của công dân. Tuy nhiên, khả năng người dân có thể tiếp cận, sử dụng pháp luật để bảo vệ quyền của mình phụ thuộc vào nhiều yếu tố khác nhau cũng như phụ thuộc vào mức độ hiểu biết, cơ chế, thủ tục bảo đảm thực thi các quyền. Vấn đề này đặt ra trách nhiệm đối với các cơ quan nhà nước, từ việc phổ biến, tuyên truyền các nội dung mới của Hiến pháp liên quan đến các quy định mới về quyền con người, quyền công dân, đến việc hoàn thiện pháp luật và thủ tục hành chính, tổ chức bộ máy để bảo đảm thực thi. Trong tuyên bố của mình, Hạ nghị sỹ Faleomavaega hoan nghênh Báo cáo rà soát định kỳ phổ quát (UPR) chu kỳ 2 của Việt Nam vừa được Hội đồng Nhân quyền Liên hợp quốc thông qua ngày 8/2/2014 tại Geneva. Hôm 7/4/2014, Hạ nghị sỹ Eni Faleomavaega, thành viên cao cấp của Ủy ban Đối ngoại Hạ viện Mỹ đã thiện chí trao cho Đại sứ Việt Nam tại Hoa Kỳ Nguyễn Quốc Cường bản ghi nhận của Quốc hội Mỹ, trong đó ghi lại toàn văn tuyên bố của ông Faleomavaega về tình hình nhân quyền tại Việt Nam. Cũng theo Hạ nghị sỹ Faleomavaega, trong các chuyến thăm Việt Nam với tư cách là Chủ tịch và thành viên cao cấp của Tiểu ban châu Á – Thái Bình Dương thuộc Ủy ban Đối ngoại Hạ viện, ông đã có cơ hội tham dự nhiều buổi lễ tôn giáo tại các địa điểm thờ tự khác nhau, qua đó có thể khẳng định Việt Nam là một quốc gia tạo thuận lợi cho các hoạt động tôn giáo và đang tích cực bảo vệ các tổ chức tôn giáo theo luật pháp. Bản ghi nhận này sẽ được sử dụng làm tài liệu chính thức của Hạ viện.
Hiến pháp nước CHXHCN Việt Nam có nhiều điểm mới cả về nội dung và kỹ thuật lập hiến, thể hiện rõ và đầy đủ hơn bản chất dân chủ, tiến bộ của Nhà nước và chế độ quy định rõ ràng, đúng đắn và đầy đủ về chế độ chính trị, kinh tế, văn hóa, giáo dục, khoa học, công nghệ và môi trường, quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân, bảo vệ Tổ quốc, tổ chức bộ máy nhà nước,đã bao quát hầu hết các quyền cơ bản về chính trị, dân sự, kinh tế, xã hội, văn hóa của con người theo các điều ước quốc tế mà nước ta là thành viên. Hiến pháp đã tiếp tục khẳng định và làm rõ hơn các quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân trong Hiến pháp năm 1992. Đồng thời, Hiến pháp cũng đã bổ sung một số quyền mới. Đó là thành tựu của gần 30 năm đổi mới đất nước, thể hiện rõ hơn trách nhiệm của Nhà nước trong việc bảo đảm thực hiện quyền con người, quyền công dân. Thử hỏi các vị dân biểu không khách quan khi phát biểu về tình hình thực tế những gì đang diễn ra ở Việt Nam là có bao giờ Việt Nam lại đòi hỏi Hoa Kỳ phải như thế này , như thế kia trong các vấn đề thuộc về công việc nội bộ hay không ? câu trả lời là không bao giờ. Chỉ có kẻ mang tư tưởng nước lớn khi muốn áp đặt ý muốn của mình lên các nước nhỏ thì họ luôn khoác trên mình một chiếc áo ý thức hệ phổ quát, dùng chiêu bài này để xoá bỏ những đặc thù riêng của mỗi dân tộc, xoá nhoà văn hoá, biên giới lãnh thổ quốc gia, không thèm đếm xỉa đến quyền tự chủ của dân tộc đó, đem ý thức hệ của mình áp đặt lên dân tộc khác.
Trong một thế giới có sự xáo trộn mạnh như ngày nay thì nguyên tắc tôn trọng độc lập chủ quyền là chìa khoá duy nhất để thực thi trật tự trên nguyên tắc cùng sống chung, chỉ có những quốc gia nào hành xử không theo những nguyên tắc chung mà hiến chương liên hợp quốc đề ra về quyền con người thì nhất định quốc gia đó cần có sự can thiệp một cách hợp lý nhất. Một số vị dân biểu đã cố tình gạt bỏ một nguyên tắc cơ bản nhất đó là chủ quyền quốc gia của một dân tộc hơn 90 triệu con người, một dân tộc có những nét đặc trưng rất thú vị cho các dân tộc khác, một dân tộc trọng tình nghĩa, chia ngọt sẻ bùi với các dân tộc láng giềng, một dân tộc đã lấy máu của mình để cứu cả một dân tộc khác, một dân tộc sẵn có lòng vị tha cho kẻ thù đã giết hại hàng triệu người cùng dòng máu, một dân tộc nén nỗi đau của di hoạ chiến tranh vì không muốn khơi lại hận thù, một dân tộc đi lên từ đống tro tàn đổ nát của cuộc chiến đẫm máu,họ đã nuốt mước mắt vào trong để nở một nụ cười, chìa tay ra với các dân tộc khác để làm bạn bè cho dù đó là kẻ thù của ngày hôm qua. Việt nam đã trải qua tất cả những gì đau thương nhất chỉ một mục tiêu cháy bỏng ” không có gì quý hơn độc lập tự do”, dù có thiêu cháy cả dãy trường sơn thì dân tộc này cũng sẵn lòng để thực thi mục tiêu đó. Có đât nước nào mà suốt chiều dài đi đâu cũng gặp những nghĩa trang của những người con Việt, họ đã nằm xuống ở tuổi thanh xuân vì một lý tưởng cao đẹp là độc lập mà đỉnh cao nhất đó là quyền làm chủ thực sự đất nước mình. Dân tộc Việt Nam đang là chủ nhân thực sự của đất nước mình, họ đang sống, làm việc và vun đắp cho hạnh phúc trường tồn của dân tộc, không một ai có thể tước đoạt hoặc áp đặt một giá trị lạ lẫm lên cuộc sống và văn hoá của dân tộc này, cho dù để bảo vệ phẩm giá thiêng liêng đó phải đối đầu không ít khó khăn, trở ngại nhưng với bản chất kiên trì và tâm hồn trong sáng dân tộc Việt Nam quyết không lùi bước, như cha ông đã dặn dò “chớ thấy sóng cả mà ngả tay chèo ”./.
Tác Giả: AMARI TX – VHN.NET

Nghị sỹ Mỹ ghi nhận thành tích nhân quyền của Việt Nam

Hạ nghị sỹ Mỹ Eni Falemavaega. (Nguồn: AP)
Hạ nghị sỹ Eni Falemavaega, thành viên cao cấp của Ủy ban Đối ngoại Hạ viện Mỹ, vừa ra tuyên bố hoan nghênh báo cáo rà soát định kỳ phổ quát (UPR) chu kỳ hai của Việt Nam đã được Hội đồng Nhân quyền Liên hợp quốc thông qua ngày 8/2 vừa qua tại Geneva, Thụy Sĩ.
Trong tuyên bố, Hạ nghị sỹ Falemavaega ca ngợi những thành tựu được nêu trong báo cáo UPR của Việt Nam như tự do báo chí, tự do ngôn luận, tự do lập hội, bảo đảm quyền của tù nhân, tự do tôn giáo. 
Hạ nghị sỹ Faleomavaega đánh giá cao nỗ lực của Việt Nam trong hợp tác quốc tế về nhân quyền, trong đó có việc Việt Nam có các cuộc đối thoại nhân quyền hàng năm với các đối tác như Mỹ và Liên minh châu Âu (EU).
Tuyên bố của Hạ nghị sỹ Falemavaega nêu bật việc thực hiện quyền tự do ngôn luận, báo chí và thông tin ở Việt Nam thể hiện qua số lượng đầu báo, ấn phẩm, các kênh phát thanh truyền hình, và nhấn mạnh quyền tự do lập hội đã được ghi nhận trong Hiến pháp và được luật pháp bảo vệ.
Hạ nghị sỹ Falemavaega cũng nhắc lại các chuyến thăm Việt Nam của ông với tư cách là Chủ tịch và thành viên cao cấp của Tiểu ban châu Á-Thái Bình Dương thuộc Ủy ban Đối ngoại Hạ viện, trong đó đã tham dự nhiều sự kiện tôn giáo tại các địa điểm thờ tự khác nhau. 
Ông cho biết Việt Nam là một quốc gia tạo thuận lợi cho các hoạt động tôn giáo và đánh giá cao việc Việt Nam đang tích cực bảo vệ các tổ chức tôn giáo theo luật pháp.
Ngoài ra, Hạ nghị sỹ Falemavaega cũng khẳng định Việt Nam còn đạt được nhiều thành tựu tích cực về kinh tế, y tế, giáo dục, bình đẳng giới và những lĩnh vực quan trọng khác.
Cùng ngày, Hạ viện Mỹ đã ra Bản ghi nhận của Quốc hội đưa toàn văn tuyên bố nêu trên của Hạ nghị sĩ Falemavaega thành tài liệu chính thức của Hạ viện Mỹ.
Ngày 7/4, tại Hạ viện Mỹ, Hạ nghị sỹ Falemavaega đã trân trọng trao Bản ghi nhận của Quốc hội cho Đại sứ Việt Nam tại Mỹ Nguyễn Quốc Cường. 

Đại sứ Nguyễn Quốc Cường đã cảm ơn và đánh giá cao việc làm của Hạ nghị sỹ Falemavaega. Đại sứ khẳng định chính sách nhất quán của nhà nước Việt Nam trong việc bảo vệ và phát huy quyền con người cũng như những nỗ lực của Việt Nam trong lĩnh vực này./.

“Phật giáo góp phần thực hiện thành tựu các mục tiêu phát triển thiên niên kỷ của Liên hợp quốc”



“Phật giáo góp phần thực hiện thành tựu các mục tiêu phát triển thiên niên kỷ của Liên hợp quốc”



Đại lễ Vesak Liên hợp quốc là một trong các hoạt động văn hóa mang tính quốc tế nhằm tôn vinh giá trị nhân văn, hòa bình của nhân loại. Năm 2014, Giáo hội Phật giáo Việt Nam phối hợp với Ủy ban Tổ chức Quốc tế (ICDV), đăng cai chủ trì Đại lễ Vesak Liên hợp quốc lần thứ 11 và Hội thảo Phật giáo quốc tế tại chùa Bái Đính (Ninh Bình), từ ngày 7 – 11/5/2014. Đại lễ dự kiến sẽ tiếp đón khoảng 1.500 lãnh đạo các giáo hội, hệ phái Phật giáo, các giáo sư, tiến sỹ, học giả, nhà nghiên cứu Phật học cũng như các Phật tử hành trì thuộc nhiều truyền thống Phật giáo đến từ 95 quốc gia, vùng lãnh thổ trên khắp thế giới và 10.000 đồng bào Phật tử và nhân dân Việt Nam.
Chủ đề chính của Đại lễ Vesak năm nay là “Phật giáo góp phần thực hiện thành tựu các mục tiêu phát triển thiên niên kỷ của Liên hợp quốc”. Trong Đại lễ, sẽ diễn hội thảo khoa học với các chủ đề: Hồi ứng của Phật giáo về phát triển bền vững và thay đổi xã hội; Hồi ứng của Phật giáo đối với hâm nóng toàn cầu và bảo vệ mội trường; Đóng góp của Phật giáo về lối sống lành mạnh; Xây dựng hòa bình và sự bình phục hậu mâu thuẫn; Giáo dục Phật giáo và các chương trình cấp ĐH.
Bên cạnh đó, Đại lễ Vesak sẽ tổ chức những lễ hội tâm linh văn hóa nhằm chuyển hóa tâm thức của mỗi người với phương châm: “Tâm bình – Thế giới bình”, đem đến năng lượng của tâm và vũ trụ trong một thế giới hài hòa vì sự phát triển bền vững và hòa bình vĩnh cửu cho nhân loại. Hiện thức hóa các giá trị tư tưởng vào đời sống thực tại, Đại lễ sẽ có tổ chức chương trình trồng cây hưởng ứng bảo vệ môi trường và phát quà từ thiện cho quỹ khuyến học nằm trong nội dung Đại lễ.
Hội chợ Phật giáo sẽ được tổ chức, tái hiện lại những nét văn hóa truyền thống của dân tộc Việt Nam với những di sản vật thể và phi vật thể được UNESCO công nhận là di sản đại diện của nhân loại được giới thiệu với bạn bè thế giới.
Đại lễ Vesak được Liên hợp quốc đánh giá là sự kiện trọng đại và có ý nghĩa, là cơ hội quý báu để truyền bá thông điệp từ bi, hòa bình, bất bạo động của Đức Phật trên khắp thế giới. Với chủ đề năm 2014 “Phật giáo góp phần thực hiện thành tựu các mục tiêu phát triển thiên niên kỷ của Liên hợp quốc” do Việt Nam đề xuất và được Ủy ban tổ chức Quốc tế thông qua là một khẳng định của Phật giáo đồ trên toàn thế giới xây dựng một thế giới hòa bình, đời sống an lạc hạnh phúc cho tất cả mọi người vì một xã hội công bằng, dân chủ và văn minh. Việt Nam tự hào là một trong số những quốc gia đã sớm thành tựu được nhiều các mục tiêu thiên niên kỷ đề ra. Và tăng ni, Phật tử Giáo hội Phật giáo Việt Nam với hơn 30 năm trưởng thành, tiếp nối truyền thống đồng hành cùng dân tộc đã đóng góp một phần không nhỏ vào việc thực hiện các mục tiêu vì mục tiêu ích đời, lợi đạo, phục vụ chúng sinh.
Đây là lần thứ 2, Đại lễ Vesak Liên hợp quốc được tổ chức tại Việt Nam. Có thể khẳng định, Đại lễ là sự kiện đối ngoại quan trọng góp phần nâng cao vai trò của Phật giáo Việt Nam trong hội nhập quốc tế, để bạn bè quốc tế có thể hiểu biết về đời sống tự do tôn giáo ở Việt Nam. Đồng thời, thông qua Đại lễ, khẳng định vị thế và trách nhiệm của Việt Nam đối với Liên hợp quốc, khẳng định sự quan tâm của Đảng, Nhà nước Việt Nam tới tự do tôn giáo và sự đề cao giá trị nhân bản của Phật giáo, một tôn giáo hòa bình, hữu nghị, hợp tác cùng phát triển; giới thiệu hình ảnh đất nước, con người Việt Nam, văn hóa truyền thống và lịch sử, văn hóa Phật giáo ở Việt Nam đến với bạn bè quốc tế. Từ đó, phát triển tiềm năng du lịch tâm linh góp phần vào sự phát triển hợp tác toàn diện của Việt Nam đối với các quốc gia trên thế giới. Đây cũng là cơ hội để vận động UNESCO công nhận quần thể danh thắng Tràng An là di sản thiên nhiên thế giới.
 Ngày 15/12/1999 tại Đại hội đồng Liên hợp quốc khóa 54, mục 174 của chương trình nghị sự Liên hợp quốc đã chính thức công nhận Đại lễ Tam hợp (kỷ niệm Đức Phật Đản sinh, Thành đạo và Niết bàn, thời gian tương đương với tháng 5 dương lịch) tức là Đại lễ Phật đản là Đại lễ Vesak LHQ. Hàng năm, Đại lễ Vesak được tổ chức trọng thể tại trụ sở chính Liên hợp quốc tại New York, cũng như là các văn phòng Liên hợp quốc tại các khu vực. Giáo hội Phật giáo Việt Nam và Hội đồng Tăng vương Thái Lan cũng như nhiều nước châu Á đã tổ chức nhiều hoạt động nhằm kỷ niệm sự kiện trọng đại này hàng năm, ở cấp quốc gia và quốc tế.
Bảo Long

Hiến pháp 2013 khẳng định quyền làm chủ của nhân dân

VOV.VN -Quyền làm chủ của nhân dân là tư tưởng thể hiện rõ từ lời nói đầu và xuyên suốt bản Hiến pháp 2013
Đổi mới cách tuyên truyền Hiến pháp
Sáng 5/4, tại Hà Nội Bộ Tư pháp phối hợp với Ban Tuyên giáo Trung ương tổ chức hội nghị trực tuyến toàn quốc giới thiệu, phổ biến nội dung, ý nghĩa của Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội Chủ nghĩa Việt Nam của báo cáo viên, tuyên truyền viên.
Phát biểu tại hội nghị Ủy viên Bộ Chính trị - Phó Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc cho biết, hội nghị do Chính phủ phối hợp với Ban Tuyên giáo Trung ương tổ chức nhằm giới thiệu, phổ biến nội dung, ý nghĩa của Hiến pháp Việt Nam cho báo cáo viên, tuyên tuyền viên.
Theo Phó Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc, thời gian qua, các Bộ, ngành, địa phương đã chủ động tích cực trong phổ biến Hiến pháp, kịp thời chỉ đạo và tạo điều kiện cho các báo cáo viên, tuyên truyền viên trong việc phổ biến sâu rộng nội dung, nhằm đảm bảo việc thi hành Hiến pháp trong cuộc sống một cách hiệu quả.
Phó Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc phát biểu chỉ đạo hội nghị
Để phát huy vai trò của các báo cáo viên, truyên truyền viên trong thực hiện thi hành hiến pháp trong toàn quốc, Phó Thủ tướng nhấn mạnh đến công việc quan trọng cần phải làm ngay, đó là: Các Bộ, ngành, địa phương cần quan tâm chỉ đạo trong việc tuyên truyền, nếu không người dân khó hiểu hết giá trị của Hiến pháp mới.
Đối với các báo cáo viên, tuyên truyền viên, Phó Thủ tướng yêu cầu cần đổi mới phương pháp, cách làm: “Chúng ta có 90 triệu dân, 54 dân tộc anh em, các kiều bào ở nước ngoài… bởi vậy, việc đổi mởi phương pháp giới thiệu rất quan trọng. Chúng ta cần có cách giới thiệu cụ thể cho từng vùng, từng dân tộc, từng đối tượng, có như vậy Hiến pháp mới thực sự đi vào cuộc sống”, Phó Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc nhấn mạnh.
Tại hội nghị, Viện trưởng Nghiên cứu Lập pháp Quốc hội Đinh Xuân Thảo cho biết, hiện nay, việc tuyên truyền Hiến pháp được Ban Tuyên giáo Trung ương chủ trì xây dựng các bộ tài liệu quan trọng để tuyên truyền đến từng đối tượng. Việc tuyên truyền Hiến pháp phải giúp người nghe hiểu được mục đích, yêu cầu, quan điểm việc sử dụng Hiến pháp.
Dân trao quyền và giám sát hoạt động của Nhà nước
Nêu quan điểm, nhìn nhận về Hiến pháp mới, ông Đinh Xuân Thảo cho biết, trước tình hình trong nước có nhiều đổi mới, tình hình thế giới có nhiều chuyển biến sâu sắc, phức tạp, ngay tại Đại hội XI của Đảng đã đặt ra yêu cầu thay đổi Hiến pháp để xây dựng đất nước phát triển ổn định, đổi mới. Đổi mới kinh tế, song song với đổi mới chính trị, phát triển mạnh quốc phòng an ninh, đối ngoài quốc tế.
Toàn cảnh hội nghị
Theo ông Đinh Xuân Thảo, việc sửa đổi Hiến pháp mới đạt 3 yêu cầu, 6 quan điểm, 9 định hướng nội dung nhưng vẫn tiếp tục khẳng định, làm rõ hơn, sâu sắc hơn, những nội dung quan trọng đã được quy định trong Hiến pháp năm 1992, đó là quyền làm chủ của nhân dân, vai trò lãnh đạo của Đảng, xây dựng một Nhà nước pháp quyền, nền kinh tế thị trường theo hướng xã hội chủ nghĩa…
“Sửa đổi không phải là thay thế, làm mới hoàn toàn Hiến pháp mà là duy trì, phát triển Hiến pháp năm 1992”, ông Đinh Xuân Thảo nhấn mạnh.
Nói về điểm mới trong bản Hiến pháp mới, ông Đinh Xuân Thảo cho biết: “Trước đây chúng ta có quan niệm thông qua Hiến pháp, Nhà nước cho dân quyền được làm gì. Tuy nhiên ở Hiến pháp mới, nhân dân là chủ thể quyền lực của Nhà nước, trao cho Nhà nước được làm gì”.
Tại hội nghị, Thứ trưởng Bộ Tư pháp Hoàng Thế Liên cũng khẳng định, chúng ta xây dựng Nhà nước pháp quyền là quản lý Nhà nước bằng pháp luật. “Yêu cầu xuyên suốt trong lập hiến, lập pháp cũng phải có ý kiến của nhân dân”, Thứ trưởng Liên nói.
Theo Thứ trưởng Liên, tư tưởng lớn nhất của Nhà nước pháp quyền là Nhà nước được làm những gì mà pháp luật cho phép và nhân dân giám sát quyền đó.
“Nhân dân, quyền làm chủ của nhân dân là tư tưởng được thể hiện rõ ngay từ lời nói đầu và xuyên suốt bản Hiến pháp mới”, Thứ trưởng Liên khẳng định./.
Việt Đức/VOV online

Việt Nam trên con đường phát triển bền vững

Các đại biểu tham dự hội thảo.
LTS- Hội thảo quốc tế "Cải cách kinh tế vì tăng trưởng bao trùm và bền vững: Kinh nghiệm quốc tế và bài học đối với Việt Nam" diễn ra tại Hà Nội vừa qua thu hút sự tham gia của hơn 200 đại biểu, trong đó có nhiều chuyên gia, học giả Việt Nam và quốc tế. Những kinh nghiệm và khuyến nghị chính sách tại hội thảo là nguồn thông tin tham khảo quý đối với Việt Nam, nhất là trong bối cảnh nước ta đang trong quá trình triển khai tái cơ cấu kinh tế gắn với chuyển đổi mô hình tăng trưởng theo hướng bền vững.
Tránh sập bẫy "thu nhập trung bình"
Đó là phát biểu của Tổng Giám đốc Chương trình Phát triển LHQ (UNDP) H.Clác tại hội thảo. Bà H.Clác khẳng định, với thế mạnh về lực lượng lao động, nguồn tài nguyên thiên nhiên và vị trí địa lý, việc tiếp tục nỗ lực thực hiện những cải cách phù hợp sẽ giúp Việt Nam phát huy hiệu quả những thành tựu phát triển kinh tế, xã hội ấn tượng đã đạt được.
Tổng Giám đốc UNDP H.Clác đánh giá cao những thành tựu của công cuộc Đổi mới, nhất là phát triển con người tại Việt Nam. Bà Clác nhấn mạnh, với tỷ lệ tăng trưởng GDP bình quân 7,3%, thu nhập bình quân đầu người tăng gấp năm lần trong giai đoạn 1990-2010, Việt Nam là một trong những nền kinh tế tăng trưởng nhanh trên thế giới. Việt Nam cũng có những cam kết và kết quả đáng ghi nhận trong công cuộc xóa đói, giảm nghèo và phát triển con người, đồng thời hoàn thành trước thời hạn đa số Mục tiêu phát triển thiên niên kỷ (MDG). Tuy nhiên, bà H.Clác cũng nhấn mạnh phát biểu của Phó Thủ tướng, Bộ trưởng Ngoại giao Phạm Bình Minh cho rằng, "việc bước vào nhóm nước thu nhập trung bình đang đặt ra những thách thức lớn cho Việt Nam, trong đó nổi lên là thách thức tụt hậu và rơi vào "bẫy thu nhập trung bình".
Tổng Giám đốc UNDP khuyến nghị một số lĩnh vực quan trọng Việt Nam có thể cân nhắc trong quá trình cải cách kinh tế, trong đó nhấn mạnh tầm quan trọng của tái cơ cấu ngành nông nghiệp, nhất là nâng cao giá trị các sản phẩm nông sản. Nhắc lại ấn tượng khi lần đầu đến Việt Nam năm 1998, bà cho biết: "Việt Nam có rất nhiều loại trái cây ngon, nhưng thế giới không biết nhiều về các sản phẩm này. Tôi cho rằng, những trái cây này cần được đầu tư hơn nữa về mặt thương hiệu, năng suất, chất lượng và chiến lược quảng bá để có chỗ đứng xứng đáng trên thị trường quốc tế". Tổng Giám đốc UNDP nhấn mạnh, đột phá trong quản lý nông nghiệp đã đưa Việt Nam từ thiếu lương thực trở thành nước xuất khẩu gạo và nông sản hàng đầu thế giới. Tuy nhiên, việc xây dựng một chiến lược hợp lý cho quảng bá thương hiệu cũng như nâng cao chất lượng sản phẩm là bước đi cần thiết giúp gia tăng giá trị của các mặt hàng nông sản và lợi nhuận cho nông dân. Bên cạnh đó, với thế mạnh trong sản xuất và xuất khẩu lương thực, chú trọng đầu tư giảm nhẹ rủi ro thiên tai và ứng phó biến đổi khí hậu đóng vai trò then chốt bảo đảm tăng trưởng dài hạn của Việt Nam.
Chia sẻ quan điểm với bà H.Clác về vai trò quan trọng của cải cách nông nghiệp, tiến sĩ Th.Pa-la-ni-ven, Kinh tế trưởng Văn phòng châu Á -Thái Bình Dương của UNDP cho rằng, phát triển nông nghiệp hỗ trợ tích cực quá trình công nghiệp hóa. Ngoài ra, theo tiến sĩ Th.Pa-la-ni-ven, những kinh nghiệm của các nước trong khu vực như Hàn Quốc, Nhật Bản, Xin-ga-po...
về đổi mới thể chế kinh tế có thể gợi mở những giải pháp giúp Việt Nam vượt qua "bẫy thu nhập trung bình". Tiến sĩ Pa-la-ni-ven cho rằng, các nền kinh tế này có một số đặc điểm chung như: Cân bằng tốc độ tăng trưởng với phân bổ đồng đều thu nhập, thúc đẩy mạnh mẽ hoạt động xuất khẩu, chú trọng đầu tư cho giáo dục, chuyển đổi cấu trúc nền kinh tế sang sản xuất các sản phẩm có giá trị gia tăng cao...
Tiến sĩ Pa-la-ni-ven nhấn mạnh, theo định nghĩa của Ngân hàng Phát triển châu Á (ADB), khoảng thời gian hợp lý để một nền kinh tế chuyển từ mức thu nhập trung bình lên thu nhập cao là từ 40 đến 42 năm. Việt Nam mới gia nhập nhóm các nước có mức thu nhập trung bình, nên việc sớm đẩy mạnh toàn diện công cuộc đổi mới sẽ giúp Việt Nam tránh được "bẫy thu nhập trung bình". Chia sẻ một số khuyến nghị dựa trên tình hình thực tế tại Việt Nam, tiến sĩ Pa-la-ni-ven cho rằng, bên cạnh nông nghiệp và công nghiệp, thời gian tới, Việt Nam nên chú trọng phát triển các ngành dịch vụ có giá trị gia tăng cao hơn.
Tiếp tục dành ưu tiên cho giáo dục, nhất là giáo dục bậc cao sẽ giúp Việt Nam nâng cao năng lực cạnh tranh của nền kinh tế. Ngoài ra, trong bối cảnh toàn cầu hóa sâu rộng hiện nay, việc xây dựng một nền tảng kinh tế vững chắc là yếu tố cần thiết để Việt Nam sẵn sàng đối phó hiệu quả nguy cơ từ các cuộc khủng hoảng kinh tế tài chính trong khu vực và trên thế giới.
Bên cạnh vấn đề đổi mới nền nông nghiệp và kinh nghiệm vượt qua "bẫy thu nhập trung bình", các đại biểu tham dự hội thảo cũng thảo luận chung quanh các vấn đề cải cách doanh nghiệp nhà nước, xử lý các vấn đề của hệ thống ngân hàng, xây dựng năng lực công nghiệp...
NGỌC HÀ

Những người không có tư cách nói về “tự do báo chí” ở Việt Nam

QĐND - Nhân sự kiện một số nhà hoạt động gọi là "tự do và nhân quyền" của Việt Nam tới Hoa Kỳ, theo lời mời của các dân biểu Hoa Kỳ và một số tổ chức cổ xúy cho cái gọi là "tự do thông tin", Tổng biên tập trang mạng Viethaingoai.net tại Mỹ, ông John Lee, bút danh Amari tx, từ Houston đã dành riêng cho Báo Quân đội nhân dân bài viết, trong đó cho rằng, những nhà hoạt động này không có tư cách để nói về tự do báo chí ở Việt Nam... Báo Quân đội nhân dân xin được trích đăng.
Tưởng việc này chẳng ai quan tâm bởi mấy nhà hoạt động kiểu này sang Hoa Kỳ để làm mấy cái chuyện gây bất lợi cho Việt Nam đâu phải lần đầu tiên. Chuyến đi dù được tổ chức nhân Ngày Tự do báo chí thế giới (3-5) cho có vẻ khách quan nhưng cũng chẳng che giấu được ý đồ bôi nhọ, xuyên tạc Việt Nam của cả người mời lẫn người được mời. Vì đứng ra tổ chức và đài thọ cho các khách mời từ Việt Nam này không ai khác lại là một số cơ quan, tổ chức khét tiếng chống phá Việt Nam như Đài Châu Á tự do, Tổ chức Phóng viên không biên giới hay Đảng Việt Tân… Còn các "nhà hoạt động" có tên Nguyễn Thị Kim Chi, Ngô Nhật Đăng, Nguyễn Đình Hà, Tô Oanh và Lê Thanh Tùng chỉ là những cây viết tự do, không tên tuổi, chưa nói tới vấn đề tư cách hay đạo đức nghề nghiệp vì đã lợi dụng facebook hay blog để tuyên truyền những nội dung đi ngược lại lợi ích của chính quê hương mình.
Đông đảo phóng viên tác nghiệp tại buổi khai mạc Đại lễ Kỷ niệm 1000 năm Thăng Long-Hà Nội. Ảnh: Minh Trường.
Để xem họ làm gì ở Hoa Kỳ? Nghe đâu các khách mời này được tham gia một loạt sinh hoạt như điều trần tại Quốc hội Hoa Kỳ, thảo luận về những thử thách của việc khởi động một nền báo chí độc lập tại Việt Nam. Bên cạnh đó, các “nhà” này còn được mời tiếp xúc với Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ, LHQ, một số dân biểu Mỹ, các tổ chức nhân quyền, công ty tin học, tham gia khóa huấn luyện về truyền thông và an ninh mạng. Tiếp xúc với một loạt cơ quan, tổ chức quan trọng bàn về một vấn đề quan trọng như thế, với bảng “thành tích đen” chống phá Việt Nam cùng trình độ có hạn như vậy, chẳng hiểu các vị khách mời đó lấy tư cách gì mà "đòi" tự do cho nền báo chí Việt Nam - nơi có nền báo chí được đánh giá là đang phát triển nhanh chóng?
Ở đây, cần làm rõ thực chất cái gọi là "tự do báo chí" của phương Tây và thực trạng hoạt động báo chí của Việt Nam hiện nay. Đối với báo chí phương Tây, tuy không can thiệp vào hoạt động báo chí, nhưng luật pháp của các quốc gia đều có những quy định nhằm ngăn chặn sự lạm quyền của báo chí. Chẳng hạn, các chính phủ đều phân biệt những thông tin nào được phép phổ biến cho công chúng và những thông tin nào thuộc loại phổ biến hạn chế hay tuyệt mật, không thể tiết lộ với mục đích bảo vệ lợi ích quốc gia. Hơn nữa, hầu hết các tổ chức làm báo của phương Tây đều tự đưa ra những quy định của tổ chức mình và yêu cầu những người thuộc tổ chức phải tuân thủ, chẳng hạn những tiêu chuẩn của việc hành nghề, hay còn gọi là hệ thống đạo đức báo chí. Mặt khác, các quốc gia Tây Âu và Bắc Mỹ cũng ban hành nhiều luật lệ nhằm ngăn ngừa sự vi phạm của người làm báo trong lúc hành nghề.
Bất chấp tự do tư tưởng, báo chí phương Tây đã bị các chính phủ phương Tây biến thành công cụ để bành trướng, áp đặt quan điểm phương Tây trên quy mô toàn cầu. Nhiều triệu đô-la đã và đang được đổ ra để phát triển một hệ thống báo chí hùng hậu nhằm quấy nhiễu tư tưởng ở tất cả các nước không cùng quan điểm. Diễn biến thế giới gần đây đã phản ánh khá sinh động điều ấy. Bằng cái gọi là “tự do báo chí”, một số cơ quan báo chí phương Tây đã thổi phồng lên các chiêu bài “chống khủng bố”, “săn lùng vũ khí hủy diệt", kiếm cớ “hợp pháp” để can thiệp quân sự một cách thô bạo vào những quốc gia có chủ quyền, ở nơi mệnh danh là mỏ “vàng đen” của thế giới.
Hẳn mọi người chưa thể quên báo chí phương Tây đã nhất loạt thổi phồng và làm rùm beng cái gọi là “nguy cơ I-rắc sở hữu và chế tạo vũ khí giết người hàng loạt”, rồi còn đưa tin I-rắc mua plutoni của một nước châu Phi để chế tạo bom hạt nhân. Tất cả chỉ nhằm phục vụ cho mưu đồ can thiệp bằng quân sự một cách thô bạo, bất chấp luật pháp quốc tế hòng chiếm đoạt và bảo vệ các lợi ích của những thế lực đứng đằng sau điều khiển những “công cụ” tuyên truyền nguy hiểm này. Đến khi cuộc chiến tranh I-rắc nổ ra, nhiều hãng thông tấn, nhiều tờ báo đưa tin không hợp “khẩu vị” của họ thì bị cấm đưa tin, bị kiểm duyệt. Chính quyền Mỹ đã kiểm soát rất chặt chẽ các báo, đài đưa tin chiến sự, họ chỉ đồng ý cho những hãng thông tấn, báo chí nào tuân theo những “Luật” do họ đặt ra. Những nhà báo đưa tin về sự thật tàn bạo của quân đội Mỹ gây ra đối với dân thường đã bị đe dọa.
Như vậy thì làm gì có cái gọi là “tự do báo chí” nằm ngoài sự kiểm soát của chính phủ như một số nước phương Tây vẫn tuyên bố và thúc đẩy. Đó thực chất chỉ là sử dụng báo chí để bảo vệ quyền lợi và sự thống trị của họ. Đó chính là thứ tự do giả dối, lừa gạt dư luận, thủ tiêu vai trò của báo chí chứ đâu phải vì tự do báo chí.
Đối với hoạt động báo chí ở Việt Nam, Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã khẳng định rõ quyền tự do báo chí. Mọi hoạt động báo chí đều phải phục vụ sự tiến bộ, công bằng xã hội, vì độc lập, tự do của Tổ quốc, vì hạnh phúc của nhân dân. Luật Báo chí chỉ cấm các hoạt động báo chí đi ngược lại lợi ích tối cao của đất nước là độc lập, tự do của dân tộc, thành quả kết tinh sự hy sinh của biết bao thế hệ người Việt Nam mới giành được. Luật Báo chí cấm các hành động tuyên truyền chống lại con người. Luật Báo chí Việt Nam khẳng định, báo chí không chỉ là cơ quan của Đảng, Nhà nước, đoàn thể chính trị và tổ chức xã hội, nghề nghiệp,… mà còn là diễn đàn tin cậy của người dân.
Báo chí Việt Nam có quyền đề cập tất cả các vấn đề mà pháp luật không cấm. Pháp luật chỉ cấm báo chí tuyên truyền kích động bạo lực, kích dục, tuyên truyền cho chiến tranh, gây chia rẽ đoàn kết dân tộc. Đây là điều cần thiết với tất cả các nước tiến bộ trên thế giới, mong muốn xây dựng một xã hội hòa bình, ổn định, vì hạnh phúc. Báo chí Việt Nam đã tích cực tham gia đấu tranh chống tiêu cực, tham nhũng, quan liêu, phát hiện những việc làm trái với pháp luật, đi ngược lại lợi ích của nhân dân. Báo chí tham gia xây dựng đời sống mới, đấu tranh với những hủ tục, những tệ nạn xã hội.
Rõ ràng, ở Việt Nam, vai trò của báo chí ngày càng được khẳng định trong mọi lĩnh vực chính trị, kinh tế, xã hội, văn hóa, nên không thể có cái gọi là “báo chí mất tự do” ở Việt Nam. Càng không thể coi sự quản lý báo chí bằng pháp luật ở Việt Nam là cản trở quyền tự do báo chí của người dân cũng như những hoạt động báo chí của các nhà báo. Đó chỉ là luận điệu của các vị chuyên hành nghề “vu khống” dựa trên một mớ những cái gọi là “bằng chứng” của một số người có tư tưởng xuất phát từ mưu đồ cá nhân, mưu toan quyền lực, với não trạng luôn đặt lợi ích cá nhân lên trên lợi ích dân tộc. Âu cũng là vì họ mong nhận được hậu thuẫn của các thế lực từ bên ngoài về tinh thần lẫn vật chất.
Ở Việt Nam có một số người cơ hội chính trị đã kết bè với nhau và liên kết với các tổ chức chống cộng cực đoan, các tổ chức thù địch với Việt Nam để phá hoại sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Họ viết báo, hồi ký phát tán ra ngoài với những lời lẽ hằn học, bêu riếu, vu cáo, nhổ toẹt vào những hy sinh vô cùng to lớn của các thế hệ đi trước, trong đó có cả những người thân của họ trong các cuộc chiến tranh vệ quốc. Họ rên rỉ rằng, ở đất nước này không có “tự do báo chí”, rằng thì phải “viết báo trong vòng kìm kẹp của luật”… Nên dù có khoác lên người chiếc “áo” mỹ miều “tự do báo chí” thì cũng không che giấu được bản chất đen tối, xấu xa thật sự bên trong.
AMARI TX (Houston)