Thứ Ba, 10 tháng 10, 2017

XUNG QUANH NHỮNG BỨC ẢNH PHẠM THÁNH


Xin gọi tạm đây là những bức ảnh phạm thánh, xúc phạm người theo đạo Công giáo. 
Theo JB Nguyễn Hữu Vinh, những hình ảnh trên đây nằm trong một sự kiện diễn ra "tối hôm 8/10/2017 Câu lạc bộ Fame Club tại số 25 Ngô Văn Sở, Hoàn Kiếm, Hà Nội đã tổ chức cho đám đĩ bợm mang đang nghệ sĩ ăn mặc hở hàng khiêu dâm nhưng mang biểu tượng Thánh giá rất lớn, các biểu tượng tu phục của các linh mục và nữ tu nhảy nhót khiêu khích dâm đãng trên sân khấu. Đây là sự khiêu khích và nhục mạ trắng trợn đến những người tin Chúa". 
Tuy nhiên, việc cho rằng: "Bất cứ hoạt động nghệ thuật hay văn học nào đều nằm dưới sự lãnh đạo tuyệt đối của đảng Cs. Vì vậy nếu như người ta thường xuyên thấy báo nọ bị phạt, đài kia bị cắt chương trình, tác phẩm nọ bị thu hồi, tác phẩm kia bị xảy thành bột giấy... vì động chạm xa dần đến đảng hoặc Hồ Chí Minh. Đảng Cs coi đó như một trọng tội" - Theo JB Nguyễn Hữu Vinh thì hết sức khiên cưỡng và thiếu hiểu biết. 
Qua tìm hiểu Fame Bar 25 Ngô Văn Sở là một quán bar đứng chân trên địa bàn TP Hà Nội. Quán bar này do tư nhân làm chủ và được cấp giấy phép hoạt động. Cho nên việc cho rằng đó là hoạt động của chính quyền, của đảng cộng sản là hoàn toàn sai lầm! 

Cơ quan quản lý nhà nước chịu trách nhiệm quản lý và có chế tài khi những cơ sở kinh doanh như thế này vi phạm các quy định của pháp luật. Chứ không hoàn toàn điều chỉnh chính cơ sở đó! 

Trong trường hợp này, việc quán bar này có hành vi xúc phạm đạo Công giáo thì những người liên quan, bất cứ người Công giáo nào cũng đều có thể đứng ra kiến nghị, yêu cầu xử lý đối tượng theo đúng quy định pháp luật! Việc quy kết và cho đó là sản phẩm của chế độ đối trọng lại tôn giáo (trong đó có đạo Công giáo) chỉ là suy nghĩ của những kẻ đục nước béo cò, nhân tiện để lên án, đả kích chính quyền mà thôi! 

An Chiến (BLOG VIETNAM MỚI)

Thứ Hai, 9 tháng 10, 2017

BÁC BỎ Ý KIẾN “NGÀY NAY TRÊN THẾ GIỚI VÀ Ở VIỆT NAM KHÔNG THỂ CÓ CHỦ NGHĨA XÃ HỘI”



                   @PGS.TS Phạm Văn Chúc
           
     
     1. Phải chăng chưa có và không thể có CNXH ?
     Gần đây một số người có ý kiến cho rằng: theo Mác, công cụ lao động (CCLĐ) là cái quan trọng nhất, quy định QHSX, PTSX, HTKT-XH. Cây gậy và chiếc cung tên sinh ra xã hội CXNT, cái cuốc sinh ra xã hội CHNL, chiếc cày sinh ra xã hội PK, và máy hơi nước sinh ra xã hội TBCN. Nhưng chính Mác và Lê-nin lại xác định, CNXH cũng dựa trên nền đại công nghiệp giống như CNTB. Tức là, đã có hai HTKT-XH trên cùng một trình độ CCLĐ.
     Như vậy, Mác và Lê-nin đã không nhất quán, tự mâu thuẫn với chính mình. Nếu theo đúng học thuyết HTKT-XH, thì CNXH phải có cơ sở CCLĐ khác, cao hơn đại công nghiệp. Thế mà Liên Xô, Đông Âu thời kỳ 1917 – 1991 trước đây đều có CCLĐ, LLSX, NSLĐ, mức sống, thu nhập bình quân đầu người… không những không hơn, mà thậm chí lại còn kém xa những nước TBCN tiên tiến phương Tây. Do đó, các nước được gọi là XHCN từ trước đến nay, thật ra đều chưa phải là CNXH và cũng không thể đi lên CNXH được.
     Mặt khác, hàng trăm năm đã qua từ Mác, Lê-nin và trong một thời hạn chắc chắn là không ngắn nữa, các nước phương Tây đã, đang và vẫn sẽ là TBCN. Không những thế, chúng còn tiếp tục phát triển ngày càng cao, mà không hề “giãy chết” (hay cho dù chỉ là “đang chết dần đi”) như Lê-nin nhận định. CNTB thế giới nói chung vẫn không ngừng đi lên, mà chưa hề bước vào giai đoạn tột cùng của nó. Một loại CCLĐ mới cao hơn đại công nghiệp cơ khí, cũng chưa xuất hiện.
     Cho nên, trong bối cảnh ấy của CNTB tất cả những nước còn lại, nhất là các nước kém hoặc đang phát triển, tất yếu đều phải đi theo con đường TBCN, hội nhập vào quỹ đạo của CNTB do phương Tây dẫn đầu. Mục tiêu CNXH không hề tồn tại, và là hoàn toàn không thực tế, không cần thiết đối với bất kỳ nước nào. Con đường XHCN là vô vọng, vô ích, bất khả thi. Từ trước đến nay không những chưa có CNXH thực sự ở bất kỳ đâu. Mà ngay cả trong tương lai xa cũng không xuất hiện khả năng, điều kiện cho nó ra đời, tức là không thể có CNXH. Bởi vậy, cần từ bỏ mục tiêu, con đường đi lên HTKT-XH XHCN, CSCN xa xôi, mơ hồ, vô căn cứ, để hướng tới mục tiêu thiết thực, chắc chắn về “sự phát triển” ở các mức độ cao, hay thấp cụ thể khác nhau, thích hợp với từng quốc gia, dân tộc. Mà điều này thực chất chính là hướng tới mục tiêu, con đường CNTB, một chế độ xã hội có cơ sở kinh tế - kỹ thuật đầy đủ, tương ứng và còn giàu tiềm năng cách tân, sáng tạo, tăng trưởng, phát triển mạnh mẽ (!).
     Dưới đây sẽ xem xét kỹ hơn, để chỉ rõ sai lầm của những ý kiến trên cả về học thuật lẫn về thực tế.
     2. Công cụ lao động trong PTSX
     CCLĐ chỉ là sản phẩm hoạt động của chủ thể người lao động (NLĐ). Mác nói đến CCLĐ của NLĐ nhất định, không phải CCLĐ bất kỳ, tự thân, chung chung. CCLĐ tách khỏi NLĐ, thì chưa phải là thành tố của sản xuất. Bản thân CCLĐ không quy định cái gì khác, càng không quy định NLĐ. Tính độc lập của nó đối với NLĐ chỉ là tương đối. Nó chỉ trở thành CCLĐ đúng nghĩa, khi gắn với NLĐ nhất định cụ thể tương ứng.
     Mối quan hệ giữa NLĐ với giới tự nhiên được thực hiện thông qua CCLĐ và bằng CCLĐ. CCLĐ đó gắn liền với chủ thể NLĐ, là năng lực chinh phục, cải tạo giới tự nhiên vốn tiềm ẩn bên trong họ, đã vật thể hóa ra bên ngoài. Khi được NLĐ tạo ra, CCLĐ trở thành “khí quan” của họ trong quá trình lao động sản xuất, được họ sử dụng, phù hợp và tương thích với họ. CCLĐ trong trạng thái tĩnh tại, bất động, tách rời NLĐ, chỉ còn là khối vật thể thuần túy.
     Nhưng ngay cả khi gắn với NLĐ, CCLĐ cũng chỉ có thể góp phần cùng với họ tạo nên một trình độ kinh tế - kỹ thuật cụ thể nhất định của LLSX, mà không trực tiếp quy định bản chất kinh tế - xã hội của QHSX. Toàn bộ LLSX nói chung, như một hệ thống các nhân tố hợp thành, bao gồm CCLĐ, đối tượng lao động, phương tiện lao động, và trước nhất là NLĐ, mới chính là cái trực tiếp quy định bản chất kinh tế - xã hội của QHSX, PTSX. Trong hệ thống chung của LLSX, chính NLĐ với tất cả các thế hệ hiện tại và trước đó kế tiếp nhau là chủ thể chân chính đích thực tạo ra, quyết định CCLĐ. Ngay cả những CCLĐ có sẵn và có trước NLĐ, thì cũng không chi phối họ hoàn toàn. Bởi vì, chúng vẫn chỉ là kết quả của các thế hệ NLĐ đi trước.
     CCLĐ và NLĐ được nói đến ở đây không phải là CCLĐ và NLĐ lắp ghép tùy tiện, gò ép, ngẫu nhiên với nhau. Đó là một tổng thể hoàn chỉnh kết hợp, tổng hợp thống nhất, đồng bộ, chặt chẽ giữa NLĐ với CCLĐ. NLĐ nào thì có CCLĐ ấy tương ứng, và ngược lại. CCLĐ của người công nhân công nghiệp thế kỷ XXI đương nhiên không thể là cái rìu đá. Một dây chuyền máy tự động không phải là CCLĐ cho người tiền sử. NLĐ của một nền sản xuất lạc hậu có thể có được CCLĐ tiên tiến nhờ sự giúp đỡ, viện trợ từ bên ngoài (như Mông Cổ trong giai đoạn 1921 – 1991). Hoặc ngược lại, NLĐ của nền sản xuất phát triển cao có thể phải sử dụng CCLĐ lạc hậu, khi bị mất cơ sở kinh tế - kỹ thuật tiên tiến vì thiên tai, chiến tranh (như Đức, Nhật sau 1945). Nhưng đây chỉ là trường hợp ngoại lệ, không có ý nghĩa phổ biến.
     QHSX giữa những NLĐ với nhau phù hợp tất yếu với mối quan hệ giữa họ với tự nhiên, do mối quan hệ này quy định. Nhưng không phải là chỉ riêng CCLĐ tự thân, tự động “quy định” QHSX. Trên thực tế, chính là NLĐ tự mình chủ động xác lập quan hệ kinh tế - xã hội của mình, nhưng tất nhiên không tùy tiện mà căn cứ vào điều kiện kinh tế - kỹ thuật hiện thực khách quan của họ. Mác đã từng viết: “sở hữu là hậu quả tất yếu của những công cụ sản xuất hiện có”, “công nghiệp lớn xóa bỏ sở hữu tư nhân” (1). Nhưng thật ra đây chỉ là một cách diễn đạt vắn tắt, ngắn gọn của ông về LLSX nói chung bao gồm cả CCLĐ lẫn NLĐ. Bất cứ CCLĐ nào, theo đúng nghĩa là CCLĐ thực sự chứ không phải chỉ là những trang thiết bị, vật tư đơn thuần, cũng đều luôn luôn gắn liền với/ và thuộc về NLĐ nhất định, chứ không thể là “vô chủ”.
    Nếu coi “CCLĐ quy định QHSX”, thì đó là sự lẫn lộn về nguyên tắc. Cái quy định QHSX ở đây vẫn là NLĐ với CCLĐ, tức là những bộ phận hợp thành chính của LLSX. Đó là, thứ nhất, NLĐ có sử dụng CCLĐ, chứ không phải chỉ có hai bàn tay trắng và khối tri thức, thông tin trong đầu óc dù to lớn sâu sắc đến bao nhiêu. Và thứ hai, CCLĐ có mối liên hệ gắn kết, tương hợp với NLĐ, được họ vận hành trong lao động sản xuất, chứ không phải chỉ là khối vật thể, vật chất – kỹ thuật riêng biệt dù tiên tiến, hiện đại đến đâu.
     3. CCLĐ trong HTKT-XH  
     Các CCLĐ được nêu trên đã thật sự tiêu biểu, đặc trưng cho những HTKT-XH tương ứng chưa? Chẳng hạn, ở phương Tây thời phong kiến trung cổ, CCLĐ điển hình là chiếc cối xay gió, chứ không phải là cái cày. Nhưng ngay trong thời đại của mình những chiếc cối xay ấy, mà nay cgawngr hạn vẫn còn lại như một di tích lịch sử đặc sắc ở miền đồng quê Hà Lan, cũng mang đậm ý nghĩa biểu tượng hơn là vai trò thực tế. Vậy thì tiêu chí của các CCLĐ đặc thù, phân biệt những HTKT-XH ấy là gì? Có phải là trình độ, chất lượng, hàm lượng kỹ thuật - công nghệ trực tiếp, đơn thuần của các CCLĐ này? Hay là quy mô, mức độ, hiệu quả xã hội hóa đối với nền sản xuất mà chúng tạo ra, từ đó làm thay đổi bản chất kinh tế - xã hội của QHSX?
     Theo Mác, tuy LLSX, mà trong đó thành tố quan trọng hơn không phải là CCLĐ mà là NLĐ, trực tiếp quy định QHSX. Song cái trực tiếp quy định bản chất kinh tế - xã hội của PTSX, HTKT-XH lại không phải là LLSX, mà chính là QHSX. LLSX chỉ trực tiếp quy định bản chất kinh tế - kỹ thuật của PTSX, HTKT-XH mà thôi (2). Bởi vậy, ở đây rất cần trở lại với thực chất tư tưởng, văn cảnh cụ thể của những luận điểm của Mác, Ăng-ghen, Lê-nin một cách đầy đủ, nghiêm túc, thay vì chỉ dẫn ra một số câu trích từ những tác phẩm đồ sộ, rộng lớn của các ông (3).
     Hơn nữa, cái gậy, chiếc cung tên, cái cuốc, cái cày, hoặc kể cả cối xay gió đều chỉ là những CCLĐ thủ công. Điểm khác biệt của cái cày dùng sức kéo đại gia súc, hay chiếc cối xay gió lợi dụng sức gió với cái cuốc, cái gậy, chiếc cung đều không đáng kể về chất. Những nguồn động lực cung cấp cho thao tác lao động sản xuất này, dù nhỏ hay lớn, thậm chí còn là rất lớn, vẫn có nhiều hạn chế (4). Vậy mà theo ý kiến trên, các CCLĐ cùng một trình độ thủ công ấy lại tạo ra đến ba HTKT-XH khác biệt nhau. Còn máy hơi nước là CCLĐ cơ khí hoàn toàn khác về chất, thì lại chỉ tạo ra được duy nhất CNTB. Còn HTKT-XH mới XHCN, cũng theo họ, thì lại phải dựa trên cơ sở một CCLĐ khác cao hơn đại công nghiệp! Thử hỏi, nếu CCLĐ thủ công đã có thể làm cơ sở chung cho ba HTKT-XH, thì tại sao CCLĐ cơ khí lại không thể tạo ra hơn một HTKT-XH? 
     Cho nên, cơ sở của CNXH không phải là một nền kinh tế - kỹ thuật, CCLĐ mơ hồ, trừu tượng, mà vẫn là một nền sản xuất vật chất phát triển cao. Nó bao gồm một số ngành, lĩnh vực công nghiệp, hoặc kể cả ngoài công nghiệp mới nào đó. Nhưng chúng vẫn gắn với công nghiệp và không thay thế công nghiệp. Một nền công nghiệp mới trong tương lai với trình độ cao hơn hiện nay, sẽ tạo nên CCLĐ, cơ sở kinh tế - kỹ thuật đặc thù, tiêu biểu cho CNXH, CNCS. Về mặt nguyên tắc, có thể nói như vậy và cũng chỉ có thể nói thế thôi. Ngay từ bây giờ đòi hỏi đã phải chỉ ra được cụ thể CCLĐ ấy là gì, thì chính là điều phi lịch sử, phi thực tế. Điều đó sẽ khó tránh khỏi hoặc rơi vào quan điểm tư biện, chủ quan, không luận chủ nghĩa, hoặc chuyển sang tư duy khoa học viễn tưởng kiểu Giuyn-lơ Véc-nơ.
     Khi nói về xã hội tương lai, Mác tránh đi vào sự mô tả chi tiết mà chỉ khẳng định rõ: CNCS nảy sinh không phải từ hư vô mà từ CNTB. CNTB tiêu biến cũng không phải vào hư vô mà để lại “những dấu vết” trong CNCS. Do đó, giữa chúng tất yếu có một “thời kỳ quá độ chính trị” (TKQĐCT, TKQĐ như lâu nay thường được gọi tắt) với nhà nước là “nền chuyên chính cách mạng của giai cấp vô sản” (5).
     Một CCLĐ cụ thể đặc trưng theo một ý nghĩa tương đối cho CNXH, CNCS có thể đến trình độ phát triển cao của HTKT-XH này mới xuất hiện. Nhưng khi ấy nó cũng vẫn chỉ là kết quả, chứ không phải là nguyên nhân của HT đó. Mác – Ăng-ghen đã luận giải sâu sắc rằng, ngay từ nửa sau thế kỷ XIX, nền đại công nghiệp đã bắt đầu vượt qua chế độ tư hữu và cơ chế cạnh tranh tự do TBCN. Khi ấy, với CCLĐ này đã bắt đầu có thể xác lập chế độ sở hữu và sự quản lý chung của toàn xã hội đối với nền sản xuất, tức là QHSX CSCN (6).
     Như vậy, cách tiếp cận mối quan hệ CCLĐ (quy định)/ HTKT-XH trong ý kiến đã nêu ở trên, là vừa thiếu chính xác, thiếu chặt chẽ vừa không hợp lý, nhất quán. Các CCLĐ đã nêu đều không đặc trưng, theo nghĩa là nguyên nhân quyết định cuối cùng, cho những HTKT-XH. Nhiều lắm chúng cũng chỉ biểu đạt các kiểu loại, dạng thức xã hội nào đó nhất định. Nhưng đó không phải là những xã hội được nhìn nhận, nắm bắt, tiếp cận theo tiêu chí HTKT-XH mang tính tổng hợp, đồng bộ, hệ thống, cân đối của CNM-LN. Tức là, đó hoàn toàn không phải là những HTKT-XH.
     Tóm lại: 1) CCLĐ không trực tiếp và hoàn toàn quy định NLĐ, QHSX, PTSX, HTKT-XH; 2) LLSX cũng không trực tiếp và hoàn toàn quy định PTSX, HTKT-XH; 3) Nền đại công nghiệp giữa thế kỷ XIX đã có thể trở thành cơ sở kinh tế - kỹ thuật ban đầu cho CNXH, mặc dù bản thân CCLĐ hùng mạnh này kể từ đó đến nay vẫn tiếp tục phát triển lên những trình độ mới ngày càng cao hơn trong CNTB; 4) Chính vì vậy, một kết luận lô-gíc hoàn toàn phù hợp với lịch sử được rút ra ở đây là, xét trong cả tiến trình đi từ CNTB lên CNXH ở một số nước nhất định, thì giai đoạn đầu tiên của tiến trình này có thể thấp hơn về CCLĐ, LLSX, cơ sở kinh tế - kỹ thuật,… so với các nước phương Tây và kể cả một số nước TBCN khác phát triển cao hơn cùng thời.
     4. CNTB, CNXH, TKQĐ lên CNXH
     CNXH đương nhiên là cao hơn về mọi mặt, trước hết là về kinh tế kể cả so với CNTB phát triển tới đỉnh điểm. Nhưng TKQĐ “lâu dài, khó khăn” từ CNTB nói chung trực tiếp lên CNXH, nhất là chặng đầu của TKQĐ đó, có thể không cao hơn mà thậm chí còn thấp hơn CNTB đỉnh cao. Đặc biệt, đối với TKQĐ từ điểm xuất phát tiền TBCN nửa trực tiếp, hoặc gián tiếp lên CNXH, thì chặng đầu thấp hơn CNTB sẽ còn lâu dài, khó khăn gấp bội, và đây là điều tất yếu.
     TKQĐ từ CNTB trực tiếp lên CNCS nhìn chung cao hơn CNTB đã đạt đến đỉnh điểm. Tuy nhiên, đỉnh điểm về lô-gíc và về lịch sử trên thực tế không trùng nhau về thời gian, không gian. Quy luật kinh tế cơ bản của CNTB bắt đầu phát huy tác động đầy đủ và chi phối, thống trị tuyệt đối sớm hơn rất nhiều so với thời điểm xã hội TBCN kết thúc. Cái lịch sử kéo dài sự tồn tại quá thời rất lâu, sau khi cái lô-gíc đã hoàn tất. CNTB có thể phát triển cao sớm nhất ở một quốc gia, dân tộc này, nhưng lại bị thay thế trước tiên ở một quốc gia, dân tộc khác. Trên thực tế, CNTB xuất hiện mầm mống kinh tế đầu tiên ở I-ta-li-a thế kỷ XIV; xác lập chế độ nhà nước hoàn chỉnh sớm nhất ở Hà-lan thế kỷ XVI, ở Anh thế kỷ XVII; thực hiện các cuộc cách mạng tư sản điển hình triệt để ở Pháp năm 1789, ở Mỹ năm 1776.
     Cho nên, tại một số nước TBCN đạt đến đỉnh điểm lô-gíc, tuy không phát triển cao nhất nhưng đã bắt đầu TKQĐ, thì CNTB ở đây cũng kết thúc cả về mặt lịch sử. Trong khi đó, tại một số nước TBCN khác, tuy phát triển cao nhất nhưng chưa đi vào TKQĐ, thì sự phát triển lịch sử của CNTB vẫn tiếp diễn. Lúc này, so với những nước thứ hai, thì những nước thứ nhất vẫn sẽ thấp hơn về mặt kinh tế, nhất là trong giai đoạn đầu của TKQĐ. Chỉ đến giai đoạn cuối của TKQĐ, thì về mọi mặt chúng mới hoàn toàn vượt qua CNTB.
     Mác – Ăng-ghen cũng đã lần đầu tiên đề cập tới khả năng về TKQĐ từ xã hội tiền TBCN không hoàn toàn trực tiếp, mà nửa trực tiếp đi lên CNCS bỏ qua giai đoạn phát triển TBCN. Ở đây nước lạc hậu được nước TBCN tiên tiến phương Tây giúp đỡ về cơ sở kinh tế - kỹ thuật. Chúng tác động qua lại lẫn nhau và cùng đi vào TKQĐ (7). Trong trường hợp này, giai đoạn đầu của TKQĐ ở nước lạc hậu thấp hơn CNTB rõ rệt về CCLĐ, kinh tế.
     Khả năng về TKQĐ nửa trực tiếp được Mác – Ăng-ghen khái quát từ thực tế nước Nga Sa hoàng đương thời và liên hệ với một tiền lệ lịch sử có ý nghĩa tham chiếu gợi mở lớn. Tiền lệ ấy được hai ông quan tâm ngay từ giữa những năm 1840, đề cập nhiều lần trong suốt thời gian về sau. Đó là trường hợp người Giéc-manh thời cổ đại ở Tây Âu, đã từ xã hội CXNT quá độ nửa trực tiếp lên xã hội PK bỏ qua giai đoạn phát triển CHNL (8). Cùng tham gia vào bước quá độ này là người La Mã đã đạt tới trình độ cao của xã hội CHNL.
     Kế thừa và phát triển Mác – Ăng-ghen, trong thời đại mình Lê-nin nêu lên và hiện thực hóa ở nước Nga lý luận về TKQĐ từ các quốc gia dân tộc lạc hậu tiền TBCN riêng biệt, gián tiếp lên CNXH bỏ qua chế độ TBCN. Nội dung cơ bản  cốt lõi của lý luận này là sử dụng kinh tế TBCN để xây dựng, phát triển LLSX cho CNXH, tức là chính sách kinh tế mới (NEP). Tuy nhiên, khi gặp tình thế chiến tranh quân sự khẩn cấp, khó khăn, có thù trong giặc ngoài, sự phản loạn phục thù của tư sản, quý tộc, địa chủ bên trong hoặc sự can thiệp xâm lược bên ngoài của CNTB, CNĐQ thế giới, thì chuyển sang chính sách cộng sản thời chiến. Trong TKQĐ gián tiếp này, hiển nhiên là CCLĐ, nền kinh tế không thể cao hơn, mà một thời gian đầu rất dài vẫn sẽ thấp hơn hẳn so với CNTB. Vì thế Lê-nin nêu rõ, sau Cách mạng Tháng Mười ở nước Nga Xô-viết nói CNXH chỉ là với ý nghĩa quyết tâm xây dựng CNXH, chứ không phải đã có nền kinh tế XHCN thực sự (9).
      Như vậy, lý luận Mác – Lê-nin về TKQĐ làm sáng tỏ rằng, không phải CNXH, mà giai đoạn đầu của TKQĐ nói chung, TKQĐ gián tiếp nói riêng lên CNXH thường thấp hơn CNTB đã phát triển cao về các mặt kinh tế, LLSX, khoa học - kỹ thuật - công nghệ, NSLĐ, CCLĐ... Điều này không mâu thuẫn, mà được bao hàm chứa chính trong nội dung thống nhất, toàn diện, sâu sắc biện chứng của lý luận đó nói chung, lý luận về TKQĐ gián tiếp nói riêng.
     5. Thực chất của “CNXH hiện thực”
     Trên thực tế, và cũng theo đúng lý luận Mác – Lê-nin về TKQĐ, Liên Xô và các nước XHCN Đông Âu trước đây, những nước XHCN hiện nay đều chưa phải là các xã hội XHCN thật sự. “CNXH hiện thực” thật ra chỉ là các xã hội định hướng XHCN, đang ở TKQĐ lên CNXH với những trình độ phát triển khác nhau. Hơn nữa, TKQĐ đó về thực chất chỉ là gián tiếp. Không phụ thuộc vào những tuyên bố của chính giới, giới học thuật tại một số nước XHCN trước đây và hiện nay, điều này đã được thực tế lịch sử và thực tiễn cách mạng thế giới kiểm chứng, khẳng định. TKQĐ gián tiếp này sẽ chỉ kết thúc, khi nó hoàn toàn vượt qua CNTB trên toàn thế giới về mọi mặt cả tương đối lẫn tuyệt đối, cả đồng đại lẫn lịch đại, trong tất cả các lĩnh vực chính trị, văn hóa, xã hội, tinh thần, đặc biệt là kinh tế. Cho nên, trước khi đạt tới trình độ ấy, trong thời gian đầu khá dài TKQĐ gián tiếp kém xa CNTB về CCLĐ, kinh tế là điều rất bình thường, tự nhiên.
     Trong khi đấy, sau Cách mạng XHCN Tháng Mười Nga đã 100 năm và sau “Tuyên ngôn của ĐCS” đã 170 năm, do sự phát triển “ngoắt nghoéo, dích dắc của lịch sử” (Lê-nin) mà triển vọng về các TKQĐ trực tiếp, nửa trực tiếp có thể vẫn còn xa. Chính bởi thế, trong những vấn đề cơ bản nền tảng của chủ nghĩa Mác – Lê-nin, lý luận về TKQĐ gián tiếp trở thành một nội dung có ý nghĩa quan trọng hàng đầu đối với hệ thống lý luận của Đảng CSVN suốt từ năm 1930 tới nay. Ý nghĩa này càng tăng lên trong thời kỳ đổi mới từ 1986, khi Liên Xô trước đây bắt đầu đi vào cải tổ và cắt giảm đáng kể sự giúp đỡ đối với Việt Nam, đặc biệt là từ năm 1991 đến nay. Đối với tất cả các nước đang và chậm phát triển nói chung sau cơn địa chính trị toàn thế giới năm 1989-1991, lý luận đó cũng có ý nghĩa tương tự. Bởi vì, nếu như từ năm 1917 như Lê-nin chỉ rõ, con đường đi lên CNXH của các quốc gia, dân tộc thuộc địa, phụ thuộc lạc hậu là “liên minh chặt chẽ với nước Nga xô-viết, với các nước cộng hòa xô-viết”, tức thực hiện TKQĐ nửa trực tiếp. Thì từ năm 1991 con đường đó về cơ bản chuyển thành TKQĐ gián tiếp, như Lê-nin từng vạch ra cho chính nước Nga.
     Nhưng dù mới chỉ là TKQĐ gián tiếp, thì cũng chính là đã bắt đầu thực sự tồn tại con đường đi lên CNXH. Ở đây nếu cho rằng đã có CNXH, thì sẽ là không tưởng, “tả khuynh”, giáo điều, bảo thủ, chủ quan. Nhưng nếu coi là hoàn toàn chưa có và sẽ không thể có CNXH, nên phải đi con đường TBCN “phù hợp với quy luật tự nhiên”, thì lại là ngụy biện, hữu khuynh, cơ hội, thực dụng. Cả hai loại ý kiến này đều phi biện chứng, trái với thực tế. Đặc biệt, chúng không thấy được tính đặc thù của TKQĐ gián tiếp là, trong một thời gian đầu khá lâu dài sẽ thấp hơn CNTB về kinh tế - kỹ thuật. Nhưng mặt khác, TKQĐ ấy dù sao cũng là con đường nhanh nhất, chắc chắn nhất để phát triển thực sự và đi lên CNXH.
     Liên quan đến điều này, có thể thấy them rằng, cho đến nay vẫn tồn tại quan điểm đồng nhất TKQĐ trực tiếp với CNXH. Nhưng với TKQĐ gián tiếp thì không thể là CNXH được. Bởi vì, trong giai đoạn đầu nó tất yếu thấp hơn đỉnh điểm lô-gíc, chưa nói đỉnh điểm lịch sử, của CNTB. Nếu TKQĐ gián tiếp chính là CNXH, và “CNXH” này thực tế thấp hơn CNTB, thì đây là điều hoàn toàn phi lý, nghịch lý. Nó sẽ làm đảo lộn toàn bộ hệ thống lý luận Mác – Lê-nin, do thế không thể chấp nhận được. Rõ ràng, tư tưởng của Lê-nin phân biệt TKQĐ với CNXH (10), là hoàn toàn hợp lý, đúng đắn và vô cùng sáng suốt. Nó đã bao quát chính xác, tiên lượng thiên tài về triển vọng mang tính hiện thực cao của TKQĐ gián tiếp trong khả năng tổng quát về TKQĐ nói chung.
     Những ý kiến nêu trên đã áp đặt một “tam đoạn luận” cho rằng: i) Tại Liên Xô, các nước XHCN Đông Âu trước đây và những nước XHCN hiện nay đã có “CNXH đích thực”; ii) Nhưng vì về CCLĐ, kinh tế CNXH ấy rõ ràng thấp hơn hẳn CNTB, là chế độ vẫn đang tiếp tục phát triển ngày càng hiệu quả, mạnh mẽ; iii) Cho nên phải phủ nhận CNXH, khẳng định CNTB. Tư duy và hệ luận này thống nhất với luồng quan điểm sai trái xuất hiện, tồn tại trong nước từ gần 30 năm nay. Chúng tương đồng, tích hợp, tổng hợp những quan điểm của các tư tưởng gia, lý luận gia “cải tổ” nửa cuối những năm 1980 phủ nhận hoàn toàn CNXH Xô-viết và của Phu-ku-y-a-ma học giả Mỹ nổi danh vào năm 1989, khi cho rằng lịch sử xã hội loài người “cáo chung” với đỉnh cao khải hoàn tột bậc là CNTB. Tư duy và hệ luận đó, từ ngộ nhận đã đi đến đối lập với một số nội dung lý luận Mác – Lê-nin quan trọng, có tính thực tiễn vừa trực tiếp cấp thiết, vừa cơ bản lâu dài đối với sự nghiệp cách mạng XHCN nước ta.
     Để góp phần khắc phục sai lầm trên và những hạn chế khác trong nhận thức về mục tiêu, con đường lên CNXH ở Việt Nam ngày nay, từ cơ sở chủ nghĩa Mác – Lê-nin và tư tưởng Hồ Chí Minh, cần tiếp tục làm rõ thêm một số vấn đề cấp bách, thiết thực sau:
     i) Biện chứng của quá trình hình thành, sinh thành, trưởng thành, phát triển, quá độ, chuyển hóa, phủ định của phủ định các HTKT-XH.
     ii) Tính đặc thù của CNXH trong toàn bộ quá trình trên.
     iii) Lý luận về các TKQĐ trực tiếp, nửa trực tiếp lên CNCS của Mác – Ăng-ghen, đặc biệt là TKQĐ gián tiếp lên CNXH của Lê-nin.
     iv) Thực tiễn về TKQĐ gián tiếp lên CNXH: quá trình lịch sử, kinh nghiệm Xô-viết; những điều kiện, khả năng mới trong giai đoạn hiện nay của thời đại ngày nay; nội dung, đặc điểm ở Việt Nam thời gian qua và hiện nay./.
    ----------------------------------------------------------------------------------------------
    Chú thích:
    1. Mác: Hệ tư tưởng Đức (1845 – 1846)//M & Ăg: Toàn tập. NXB CTQG, H., 2002, t.3, tr.94-95.
    2. Mác: Lời tựa Góp phần phê phán khoa kinh tế chính trị (1859)//M & Ăg: Toàn tập. NXB CTQG, H., 2004, t.13, tr.15.  
     3. Liên quan đến vấn đề ở đây, xem thêm: Mác: Hệ tư tưởng Đức//Sđd; Mác: Tư bản. Phê phán khoa kinh tế chính trị (1867)//M & Ăg: Toàn tập. NXB CTQG, H., 1993, t.23, tr. 1056-1060.
     4.  Mác: Tư bản//Sđd, tr.543-545.  
     5. Mác: Phê phán Cương lĩnh Gô-ta (1875)//M & Ăg: Toàn tập. NXB CTQG, H., 2002, t.19, tr.47.
     6. Mác – Ăng-ghen: TNCĐCS (1847 – 1848)//M & Ăg: Toàn tập. NXB CTQG,  H., 2004, t.4, tr.604.
     7. Mác: Những bản dự thảo thư trả lời thư của V.I.Da-xu-lích (1881)//M & Ăg: Toàn tập. NXB CTQG, H. 2002 , t.19, tr.572-603.   
     8. Mác: Hệ tư tưởng Đức//Sđd, tr.106-107.   
     9. Lê-nin: Về bệnh ấu trĩ “tả khuynh”…(1918)//Lê-nin: Toàn tập. NXB Tiến bộ, M., 1978, t.36, tr.362 (tiếng Việt).
     10. Lê-nin: Nhà nước và cách mạng (8 – 9/1917)// Lê-nin: Toàn tập. NXB CTQG, H., 2005, t.33, tr.222-223, 390-391.

                                      

Nguyễn Thanh Tú họp báo ở Houston tố cáo Việt Tân - Phần 3

Nguyễn Thanh Tú họp báo ở Houston tố cáo Việt Tân - Phần 2

Nguyễn Thanh Tú họp báo ở Houston tố cáo Việt Tân - Phần 1

HỌ ĐANG BÓP MÉO LỊCH SỬ - Bài 1 SỰ LỰA CHỌN CON ĐƯỜNG CỨU NƯỚC VIỆT NAM HỒI ĐẦU THẾ KỶ XX



HỌ ĐANG BÓP MÉO LỊCH SỬ

                     PGS,TS Đàm Đức Vượng
   
      Thời gian gần đây, trên các trang mạng xã hội tung lên nhiều bài viết về những nhà yêu nước Việt Nam hồi đầu thế kỷ XX. Có một số bài viết đúng với lịch sử lúc bấy giờ; bên cạnh đó là một số bài viết bóp méo lịch sử, xuyên tạc và xúc phạm đến vĩ nhân. Họ cho rằng, nếu như hồi đầu thế kỷ XX, nhân dân ta cứu nước bằng con đường cải lương, thì không phải đổ máu suốt 30 năm, mà vẫn giành được độc lập, tự do. Lại có một loạt bài viết vu cáo Chủ tịch Hồ Chí Minh. Ở đây, chúng ta không phủ nhận vai trò cứu nước của cụ Phan Bội Châu và cụ Phan Châu Trinh. Các cụ ấy đều là những nhà yêu nước chân chính, nhưng con đường và phương pháp cứu nước của các cụ ấy khác với con đường cứu nước của cụ Nguyễn Ái Quốc. Vì vậy, những bài viết trên đây là rất ác ý. Họ lợi dụng lịch sử để xuyên tạc lịch sử, bôi nhọ vĩ nhân. Họ không biết rằng, chủ nghĩa cải lương hồi đầu thế kỷ XX ở Việt Nam, không bao giờ mang lại nền độc lập thật sự cho nhân dân Việt Nam và tư tưởng dựa vào đế quốc này để đánh đổ đế quốc kia, đất nước cũng không thể giành lại được độc lập thật sự, nhân dân ta sẽ mãi mãi phải sống trong kiếp đời nô lệ, không bao giờ được ngẩng mặt lên để hít thở bầu không khí độc lập, tự do.
     Để làm rõ, tôi xin lần lượt phân tích ba vấn đề lớn như sau:
     Bài 1: Sự lựa chọn con đường cứu nước Việt Nam hồi đầu thế ký XX.
Bài 2: Chủ nghĩa cải lương ở Việt Nam hồi đầu thế kỷ XX.
Bài 3: Mối quan hệ giữa Nguyễn Ái Quốc với Phan Bội Châu và Phan Châu Trinh.


Bài 1: SỰ LỰA CHỌN CON ĐƯỜNG CỨU
NƯỚC VIỆT NAM HỒI ĐẦU THẾ KỶ XX

     Bối cảnh chính trị quốc tế hồi đầu thế kỷ XX ảnh hưởng đến phong trào yêu nước và cứu nước của nhân dân Việt Nam
     Để làm rõ đúng sai trong cuộc hành trình đi tìm đường cứu nước Việt Nam hồi đầu thế kỷ XX của các nhà yêu nước, chúng ta hãy tìm hiểu bối cảnh chính trị quốc tế hồi đầu thế kỷ XX.
     Đầu thế kỷ XX, chính trường thế giới xáo động mạnh.
     - Tại nước Nga, từ năm 1905-1907 nổ ra cuộc cách mạng lớn. Nước Nga Nga hoàng hồi đầu thế kỷ XX là điểm nút tập trung mọi mâu thuẫn của chủ nghĩa đế quốc. Chủ nghĩa tư bản lũng đoạn ở đây đã kết hợp chặt chẽ với chế độ Nga hoàng chuyên chế và chế độ chiếm hữu ruộng đất của giai cấp địa chủ. Giai cấp công nhân Nga rên xiết dưới ách bóc lột tư bản; giai cấp nông dân Nga nghẹt thở dưới ách của bọn địa chủ, phú nông vì không có ruộng đất. Nhân dân Nga lại chịu hai tầng áp bức: phong kiến Nga và tư sản Nga. Nhân dân lao động Nga hoàn toàn không có chút quyền lợi gì. Đó là nguyên nhân nổ ra cách mạng 1905-1907 ở nước Nga Nga hoàng. Đây là cuộc cách mạng tư sản dân chủ thứ nhất ở nước Nga, cuộc cách mạng nhân dân đầu tiên trong thời kỳ đế quốc chủ nghĩa. Người đứng đầu cuộc cách mạng này là giai cấp công nhân Nga. Cuộc chiến tranh Nga – Nhật càng thúc đẩy cách mạng tiến lên.
     Ngày 9 (lịch Nga là ngày 22) tháng 1-1905, tại thành phố Pêtécbua ở Nga, Nga hoàng đã ra lệnh cho binh lính bắn vào một cuộc biểu tình hòa bình lớn của nhân dân lao động Nga đòi quyền dân sinh, dân chủ. Giai cấp công nhân Nga đã trả lời tội ác của chế độ Nga hoàng bằng những cuộc bãi công chính trị dưới khẩu hiệu: “Đả đảo chế độ chuyên chế!”. Trong những ngày tháng 1 và tháng 3-1905, trong toàn nước Nga đã có 810 nghìn công nhân bãi công. Từ mùa xuân năm 1905, nông dân Nga cũng đã vùng lên phá trại ấp của địa chủ và chiếm ruộng đất. Trước phong trào đấu tranh của công nhân, nông dân Nga, quân đội Nga hoàng cũng dao động. Họ khởi nghĩa muốn lật đổ chế độ Nga hoàng, làm rung chuyển cả nước Nga Nga hoàng. Nhiệm vụ của cuộc cách mạng là lật đổ chế độ chuyên chế Nga hoàng; tịch thu ruộng đất của địa chủ, thiết lập chế độ ngày làm 8 giờ và các quyền dân chủ cho nhân dân. Tuy cuộc cách mạng đã thất bại, bị Nga hoàng và giai cấp tư sản Nga đàn áp đẫm máu, nhưng tinh thần của nó đã vang lên trong lòng nhân dân Nga, và chính tinh thần này đã dẫn đến thắng lợi của cuộc Cách mạng tháng Mười Nga năm 1917.
     - Tại Trung Quốc, năm 1911, nổ ra cuộc cách mạng Tân Hợi. Đây là cuộc cách mạng dân chủ tư sản, do những người trí thức cấp tiến trong giai cấp tư sản và tiểu tư sản lãnh đạo, đứng đầu là Tôn Dật Tiên (Tôn Trung Sơn, Tôn Văn), lật đổ Triều đình Mãn Thanh, chấm dứt chế độ quân chủ chuyên chế tồn tại rất lâu dài ở Trung Quốc, dọn đường cho chủ nghĩa tư bản ở Trung Quốc phát triển. Cách mạng Tân Hợi (1911) chính thức khởi đầu bằng cuộc khởi nghĩa ở Vũ Xương, đấu tranh để thành lập “Trung Hoa dân quốc” và Chính phủ Nam Kinh. Cuộc cách mạng đã thành công. Triều đình Mãn Thanh sụp đổ. Tôn Dật Tiên được bầu làm Tổng thống lâm thời, lấy ngày 1-1-1912 (Nhâm Tý) làm ngày thành lập Chính phủ “Trung Hoa Dân quốc”, đứng đầu là Tôn Dật Tiên.
     - Trên thế giới, hồi đầu thế ký XX, đã diễn ra cuộc cách mạng đại công nghiệp lần thứ hai (thường gọi là cuộc cách mạng 2.0, nối tiếp của cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ nhất: 1.0). Cuộc cách mạng 2.0 diễn ra khoảng từ năm 1850 đến năm 1914, khi con người phát minh ra động cơ điện, mang lại cuộc sống văn minh, ánh sáng cho loài người. Từ khi có động cơ điện, thì năng suất lao động của động cơ điện tăng gấp nhiều lần so với động cơ hơi nước…
     Những sự kiện trên đã ảnh hưởng đến trào lưu cứu nước của nhân dân ta hồi đầu thế kỷ XX.
     Những ngả đường cứu nước của các nhà yêu nước Việt Nam hồi đầu thế kỷ XX
     Trước hết, phải nói rằng, tinh thần yêu nước của nhân dân ta là tinh thần thượng võ. Chủ nghĩa yêu nước Việt Nam là tình cảm sâu đậm nhất, đã tồn tại trong lòng nhân dân Việt Nam qua hàng nghìn năm dựng nước và giữ nước. Tổ quốc Việt Nam là một môi trường kinh tế, xã hội, chính trị, văn hóa thay đổi theo chiều hướng của lịch sử, cho nên chủ nghĩa yêu nước ở những thời đại khác nhau cũng có những nội dung khác nhau. Nó được quy định bởi những điều kiện kinh tế, xã hội. Nhân dân lao động là những người yêu nước chân chính nhất, những người biểu hiện lợi ích dân tộc thật sự. Chủ nghĩa yêu nước Việt Nam được biểu hiện bởi ý chí thà chịu đói, chịu khát, chứ không bao giờ trao Việt Nam cho người nước ngoài. Khi ngọn lửa cách mạng thổi vào, chủ nghĩa yêu nước Việt Nam trở thành chủ nghĩa anh hùng cách mạng Việt Nam.
     Năm 1858, chiến hạm Pháp và Tây Ban Nha bắt đầu nổ súng tấn công thành phố Đà Nẵng của Việt Nam, mở đầu cuộc xâm lược Việt Nam, và từ Việt Nam, chúng tiến đánh Lào, Campuchia, đặt ách thống trị lên ba nước trên bán đảo Đông Dương. Nhân dân ta, sau khi thoát được nạn thống trị của người phương Bắc, lại bắt đầu rơi vào nạn thống trị của người phương Tây. Ngày 17-10-1887, Tổng thống Cộng hòa Pháp ký sắc lệnh thành lập Liên bang Đông Dương. Liên bang Đông Dương đặt dưới sự thống trị của Toàn quyền Đông Dương do Tổng thống Pháp bổ nhiệm. Dưới ách thống trị của thực dân Pháp, lưỡi lê, máy chém, súng tràn khắp Đông Dương, gây cảnh đau thương, tang tóc, ảm đạm bao trùm lên khắp Đông Dương.
     Trước tình cảnh đó, nhiều nhà yêu nước Việt Nam nổi dậy. Nhiều cuộc khởi nghĩa nổ ra như cuộc khởi nghĩa của Trương Định (1859-1864); khởi nghĩa Nguyễn Trung Trực (1861-1868); khởi nghĩa Ba Đình (1886-1887) do Đinh Công Tráng, Trần Xuân Soạn,… tiến hành; khởi nghĩa Bãi Sậy (1885- 1889) do Nguyễn Thiện Thuật (Tán Thuật) khởi xướng; khởi nghĩa Hùng Lĩnh (1886-1892), do Tống Duy Tân cùng với Cao Điển khởi xướng; khởi nghĩa Hương Khê (1885-1896) do Phan Đình Phùng khởi xướng; khởi nghĩa Yên Thế (1887-1913) do Hoàng Hoa Thám (Đề Thám) khởi xướng; khởi nghĩa Thái Nguyên (1917-1918) do Trịnh Văn Cấn (Đội Cấn) khởi xướng; khởi nghĩa Lạng Sơn (1921) do Đội Cấn (người Tày) tổ chức; khởi nghĩa Yên Bái (1930) do Nguyễn Thái Học và Nguyễn Khắc Nhu chỉ huy...
     Trước sự anh dũng kiên cường của các nghĩa quân chống Pháp, nhưng đều bị thực dân Pháp dìm trong biển máu, làm cho các nhà yêu nước Việt Nam có phần dao động. Họ than thở:
     “Đêm sao đêm mãi tối mò mò
     Đêm đến bao giờ mới sáng cho?
     Con trẻ âm oe đã muốn dậy
     Ông già thúng thắng hãy còn ho.
     Đèn chong tâm sự khêu mờ tỏ
     Chó thích hơi người cắn nhỏ to.
     Nhắn nhủ láng giềng ai dậy đó
     Dậy thì lên tiếng gọi nhà nho”1.
     Trước ngã ba đường của sự cứu nước, mỗi người đi tìm một ngả.
     - Phan Bội Châu (Phan Văn San, Hải Thụ, Sào Nam - 1867-1940) lựa chọn con đường Đông Du để đánh Pháp xâm lược Việt Nam. Ông là một nhà yêu nước chân thành, hoạt động trong thời kỳ Việt Nam thuộc Pháp. Ông căm thù chế độ thực dân Pháp ở Đông Dương đến nỗi phải thốt lên:
     “Hãy múa giáo mà xông lên, đã có trời ở trên và tổ tiên ở bên.
     Dồn sóng lớn để làm trống trận, lấy tiếng sấm làm tiếng súng rền.
     Diệt hết bọn giặc rồi, ta mới ăn sáng, đem lại sự vinh quang cho cha mẹ ta.
     Lòng trung trinh của ta như sắt đá, có kể gì gian khổ”2.
     Phan Bội Châu muốn “đi tìm cái sống trong muôn vàn cái chết”.
     Sau khi đỗ giải nguyên, Phan Bội Châu bôn ba khắp nước Việt Nam, kết giao với nhiều nhà yêu nước Việt Nam như Phan Châu Trinh, Huỳnh Thúc Kháng, Trần Quý Cáp,… Năm 1904, Ông cùng Nguyễn Hàm,… đứng ra thành lập Duy Tân Hội ở Quảng Nam với mục đích đánh đuổi thực dân Pháp ra khỏi bờ cõi Việt Nam; chọn Kỳ ngoại hầu Cường Để (Nguyễn Phúc Đan), một người thuộc dòng dõi Nhà Nguyễn, làm Hội trưởng. Năm 1905, Ông cùng Tăng Bạt Hổ, Đặng Tử Kính sang Trung Quốc, rồi sang Nhật Bản nhằm cầu viện Nhật để đánh đuổi Pháp ra khỏi Việt Nam. Tại Nhật, Ông gặp Lương Khải Siêu, một nhà cách mạng người Trung Quốc và gặp một số nhân vật trong Đảng Tiến bộ ở Nhật Bản lúc bấy giờ, trong đó có Okuma Shigenobu và Thủ tướng Nhật lúc đó là Inukai Tsuyoshi. Họ khuyên Ông nên cổ động thanh niên ra nước ngoài học tập để sau này trở về Việt Nam, giúp nước. Theo lời khuyên đó, tháng 6-1905, Phan Bội Châu mang theo sách của Ông: “Việt Nam vong quốc sử” về nước. Tại Việt Nam, Phan Bội Châu và Nguyễn Hàm quyết định chọn một số thanh niên có tinh thần yêu nước, thông minh, hiếu học để đi học tại Nhật. Từ đấy, phong trào Đông du được dấy lên trong cả nước, nhất là ở Nam Kỳ.
     Trong cuộc vận động Đông du, Phan Bội Châu có gặp Nguyễn Tất Thành (Nguyễn Ái Quốc – Hồ Chí Minh), gợi ý, cử Anh sang Nhật, nhưng Anh không đi. “Anh (Nguyễn Tất Thành) thấy rõ và quyết định con đường nên đi. Cụ Phan Bội Châu vào bậc chú, bác của Anh. Cụ Phan Bội Châu muốn đưa Anh và một số thanh niên sang Nhật. Nhưng Anh không đi”3.
     Tháng 10-1905, Phan Bội Châu trở lại Nhật Bản4. Năm sau, Cường Để cũng qua Nhật. Từ năm 1905 đến năm 1908, nhờ cuộc vận động Đông du mà có khoảng 200 người sang Nhật Bản du học.
     Trong lúc Phan Bội Châu và những học trò của Ông đang ở Nhật, thì tại Việt Nam nổi lên phong trào kháng thuế ở Trung Kỳ, rầm rộ ở Quảng Nam và nhiều tỉnh khác. “Năm 1907 (1908), lần đầu tiên, nông dân các tỉnh Trung Kỳ nổi dậy chống thuế. Họ đi tay không, không có khí giới. Họ chỉ yêu cầu giảm thuế. Để tỏ lòng đoàn kết nhất trí, họ đều cắt tóc ngắn và gọi nhau là “đồng bào””5. Nhưng rủi ro thay, phong trào này đã bị thực dân Pháp đàn áp dã man. Nhiều hội viên trong Hội Duy Tân, trong đó có Nguyễn Hàm, một nhân vật trọng yếu của Hội, bị Pháp bắt. Tiếp đó, là những phái viên của phong trào Đông du như Hoàng Quang Thanh và Đặng Bỉnh Thành cũng bị mật thám Pháp đón bắt trước khi từ Nhật về Nam Kỳ nhận tiền quyên góp cho phong trào Đông du. Tháng 9-1908, do có sự mặc cả giữa Nhật và Pháp, Chính phủ Nhật ra lệnh trục xuất các du học sinh người Việt Nam ra khỏi đất Nhật. Tháng 3-1909, Cường Để và Phan Bội Châu cũng bị trục xuất ra khỏi nước Nhật, để rồi trở về với “Pháp – Việt đề huề”. Đến đây, phong trào Đông Du do Phan Bội Châu dày công xây dựng, hoàn toàn sụp đổ. Phan Bội Châu không biết rằng, các nước lớn thường câu kết với nhau để đàn áp các nước nhỏ khi quyền lợi của họ được khẳng định. Ông cũng không tính trước được là nếu cứu nước bằng việc dựa vào đế quốc này để đánh đế quốc kia sẽ không bao giờ giành lại được nước. Đó được xem như một quy luật cứu nước. Vấn đề đặt ra là nhân dân ta phải vùng lên tự cứu lấy nước ta, không thể trông chờ vào nước ngoài để cứu nước nhà. Nguyễn Ái Quốc nhận định về Phan Bội Châu: “Cụ Phan Bội Châu hy vọng Nhật giúp đỡ để đuổi Pháp. Điều đó rất nguy hiểm, chẳng khác gì “đưa hổ cửa trước rước beo cửa sau””6.
     - Phan Châu Trinh (Phan Chu Trinh, Tây Hồ, Tư Mã, Tử Cán – 1872-1926) xác lập tư tưởng cứu nước khác với tư tưởng cứu nước của Phan Bội Châu. Phan Châu Trinh chủ trương phát triển kinh tế, xã hội, cải cách giáo dục, tự lực, tự cường trước khi tính đến chuyện giành độc lập cho dân tộc. Như vậy là Ông muốn cải cách xã hội trong khuôn khổ của chế độ Đông Pháp, chứ không chủ trương mưu cầu ngoại bang dùng bạo lực để giành độc lập như Phan Bội Châu. Bước đầu, Ông muốn dựa vào chế độ Đông Pháp để đánh đổ Triều đình Nguyễn. Sau cuộc hành trình Nam du, Phan Châu Trinh từ quan, cùng với Trần Quý Cáp và Huỳnh Thúc Kháng, ra các tỉnh miền Trung, rồi ra Hà Nội để gặp gỡ các sĩ phu tiến bộ Bắc Hà, lại lặn lội lên căn cứ Đề Thám quan sát phong trào nông dân khởi nghĩa Yên Thế, nhưng Ông thấy phong trào này như ngọn đèn sắp tàn. Năm 1906, Ông bí mật sang Trung Quốc, gặp Phan Bội Châu (lúc bấy giờ đang ở Trung Quốc) để trao đổi về tình hình Việt Nam, rồi sang Nhật để nghiên cứu công cuộc duy tân của nước này. Vào nửa cuối năm 1906, Phan Châu Trinh về nước. Tại Việt Nam, Ông gửi một bức thư tới Toàn quyền Đông Dương P.Bô (Paul Beau), vạch trần chế độ quân chủ chuyên chế thối nát, yêu cầu nhà cầm quyền Đông Pháp phải thay đổi thái độ đối xử với người Việt Nam và sửa đổi chính sách cai trị để giúp người Nam mở mang dân trí. Thư viết: Trong lúc dân tình điêu đứng, thì “các bậc đại thần ăn dầm nằm dìa ở chốn triều đình, chỉ biết qua lệ cho xong việc; quan lại ở các tỉnh thì chỉ lo cho vững thân thế, mà hà hiếp, bóp nặn ở chốn hương thôn; đám sĩ phu thì ganh đua nhau vào con đường luồn cúi, nịnh hót, không còn biết liêm sỉ là gì… Đến bây giờ thì sự thế hư hỏng, nhân dân lìa tan, phong tục suy đồi, lễ nghĩa bại hoại”7. Và Ông chủ trương “Khai dân trí, chấn dân khí, hậu dân sinh”.
     Phong trào chống sưu cao, thuế nặng nổ ra ở Trung Kỳ năm 1908, bị Chính phủ Đông Pháp và Triều Nguyễn đàn áp dữ dội. Phan Châu Trinh bị buộc tội là một trong những người khởi xướng phong trào, cho nên Ông đã bị bắt tại Hà Nội và giải về Huế, rồi đày đi giam tại ngục Côn Đảo vào ngày 4-4-1908 cho đến tháng 8 năm này, Ông được đưa về đất liền, về chịu quản thúc tại Mỹ Tho. Bởi phải nằm im, sinh cảnh buồn chán, Ông viết thư cho Toàn quyền Đông Dương là cho Ông sang Pháp hoặc cho trở lại Côn Đảo, chứ không thể chịu cảnh giam lỏng tại Mỹ Tho. Phía Pháp đồng ý để Ông sang Pháp. Ngày 3-8-1914, Đức tuyên chiến với Pháp trong Chiến tranh thế giới thứ nhất (1914-1918). Nhân cơ hội này, tháng 9-1914, nhà cầm quyền Pháp ở Pari đã gọi Phan Châu Trinh và luật sư Phan Văn Trường lúc ấy cũng đang ở Pháp đến để thẩm vấn, bị buộc tội làm gián điệp cho Đức. Vì không đủ chứng cớ, tháng 7-1915, nhà cầm quyền Pari buộc phải trả tự do cho Phan Châu Trinh và Phan Văn Trường. Tại Pari, Phan Châu Trinh đã gặp Nguyễn Ái Quốc. Năm 1922, Vua Khải Định (Bửu Đảo) sang Pháp dự đấu xảo Marseille. Phan Châu Trinh viết thư (Thất điều trần) buộc tội Khải Định và khuyên Vua về nước gấp, đừng làm nhục quốc thể. Thấy hoạt động ở Pháp không thu được kết quả gì, Phan Châu Trinh đề nghị nhà cầm quyền Pháp cho Ông trở về Việt Nam. Đề nghị này, mãi đến tháng 5-1925, mới được chấp nhận. Hai nhà yêu nước là Phan Châu Trinh và Nguyễn An Ninh về nước vào ngày 29-5-1925.
     Về nước, Phan Châu Trinh tiếp tục hoạt động yêu nước được một thời gian, Ông qua đời vào ngày 24-3-1926.
     Trong tác phẩm “Những mẩu chuyện về đời hoạt động của Hồ Chủ tịch”, tác giả Trần Dân Tiên đã đưa ra nhận định của Nguyễn Ái Quốc về Phan Châu Trinh: “Cụ Phan Chu Trinh chỉ yêu cầu người Pháp thực hiện cải lương. Anh (Nguyễn Ái Quốc) nhận điều đó là sai lầm, chẳng khác gì xin giặc rủ lòng thương”8. Như vậy, việc cứu nước theo con đường cải lương cũng không thể đứng vững được trên trường chính trị Việt Nam hồi đầu thế kỷ XX và trên thực tế nó đã sụp đổ khi nhà cầm quyền Đông Pháp vẫn tiếp tục duy trì chế độ cai trị ở Đông Dương.
     - Nguyễn Ái Quốc (Hồ Chí Minh) đã nhìn ra các con đường cứu nước của các bậc sĩ phu cha chú lớp trước và đã có sự lựa chọn đúng về hướng đi của mình trong cuộc hành trình cứu nước.
     Xã hội Việt Nam hồi đầu thế kỷ XX có thể ví như con chim trúng thương rã cánh, bị bầy diều hâu thi nhau rỉa rói. Nhân dân lao động gày gò, rách rưới, đói khát, đang quằn quại dưới ngọn roi của “ông chủ”. Anbe Xarô (Albert Sarraut), Toàn quyền Đông Dương lúc bấy giờ ngạo mạn tuyên bố: “Người thợ nặn muốn nặn ra hình người, thì cần phải có đất sét, có đất rồi mới nặn thành người được. Xã hội An Nam cũng ví như đất, còn người Pháp ví như người thợ nặn. Cái tay nước Pháp lấy cái đất nước Nam ấy mà nặn ra người có nhân cách để giữ được quyền lợi, vì đã có luật pháp cao hơn mà che chở cho”9. Rõ ràng, chúng xúc phạm nhân dân ta bằng sự khinh miệt.
     Ngày 5-6-1911 (năm Tân Hợi), anh thanh niên 21 tuổi Nguyễn Tất Thành, bằng trái tim, khối óc và đôi bàn tay lao động, muốn đánh đuổi thực dân xâm lược, giải phóng đồng bào, bắt đầu vượt trùng dương sóng gió, đi ra nước ngoài, khảo sát tình hình, tìm tòi một con đường cứu nước cho dân tộc Việt Nam. Anh ra đi còn để trả lời câu hỏi mà dân tộc Việt Nam lúc ấy đang đặt ra: đánh đuổi thực dân bằng con đường nào thì thành công? Sự nghiệp nâng tầm tư tưởng của Anh bắt đầu từ giờ phút thiêng liêng đó. Anh ra đi tìm đường cứu nước, chẳng phải thay mặt cho một một tổ chức, một đoàn thể nào, mà chỉ với tư cách của một người dân mất nước đi tìm con đường đúng giành lại nước. Hành trang của Anh lúc lên đường chẳng có gì ngoài bầu máu nóng yêu nước sục sôi trong Anh, sau này đã đưa Anh tới sự nghiệp vĩ đại: giải phóng Tổ quốc, đồng bào. Anh xuất hiện đúng lúc khi loài người trên hành tinh đang chuẩn bị bước sang một bước ngoặt mới có tính chất thời đại. Và Anh đã tìm thấy con đường giải phóng dân tộc cho nhân dân Việt Nam, từ cách mạng dân tộc, dân chủ tiến lên cách mạng xã hội chủ nghĩa. Con đường này đã đưa Anh tới thành công, đưa sự nghiệp giải phóng của nhân dân Việt Nam tới thắng lợi hoàn toàn. Ngày nay, đất nước đã được độc lập, thống nhất, dân chủ là nhờ có đường đi nước bước này. Anh không sang Đông Kinh vì cửa thành đã đóng từ năm 1908. Anh cũng chẳng hướng về phía Bắc, vì lá cờ cải lương tư sản Trung Hoa hồi đầu thế kỷ XX đã không có sức hấp dẫn đối với Anh. Sau này, Hồ Chí Minh đã nói về thời kỳ đó: “Nhân dân Việt Nam, trong đó có ông cụ thân sinh ra tôi, lúc này, thường tự hỏi nhau rằng, ai là người sẽ giúp mình thoát khỏi ách thống trị của Pháp. Người này nghĩ là Nhật, người khác nghĩ là Anh. Có người khác nữa nghĩ là Mỹ. Tôi thì tôi thấy phải đi ra nước ngoài để xem cho rõ”10.
     Hướng đi của Nguyễn Tất Thành sang phương Tây không phải là để dựa vào phương Tây để đánh phương Tây, mà là để quan sát thế giới xem tình hình ra sao, rồi lựa chọn trào lưu tư tưởng tiến bộ nhất của loài người để kiến trúc lên một đường lối giải phóng dân tộc hiệu quả nhất. Đó là hướng đi đã được lịch sử ghi nhận, và trên thực tế, đất nước của chúng ta đã được giải phóng, con người Việt Nam cũng đã được giải phóng, nhân dân ta đã có cuộc sống độc lập, tự do, hạnh phúc. Tuy cuộc sống thực tại còn nhiều khó khăn, nhưng triển vọng của nó đang mở ra tiền đồ tốt đẹp. Vì vậy, mọi luận điệu xuyên tạc con đường cứu nước đúng đắn, sáng tạo của Hồ Chí Minh là bóp méo lịch sử, cần phải phê phán.     
     ------
     1. Theo Hồi ký của Lê Mạnh Trinh, bản đánh máy, tr. 39.
     2. Thơ, phú, câu đối, chữ Hán của Phan Bội Châu, Nxb Văn học, Hà Nội, 1975, tr. 79.
     3. Trần Dân Tiên: Những mẩu chuyện về đời hoạt động của Hồ Chủ tịch, Nxb Sự thật, Hà Nội, 1975, tr.13.
     4. Trong chuyến đi này của Phan Bội Châu còn có gần 50 thanh niên Việt Nam tình nguyện Đông du.  
     5. Trần Dân Tiên: Những mẩu chuyện về đời hoạt động của Hồ Chủ tịch, Nxb Sự thật, Hà Nội, 1975, tr.13.
     6.  Trần Dân Tiên: Những mẩu chuyện về đời hoạt động của Hồ Chủ tịch, sđd, tr. 13.
     7. “Đầu Pháp Chính phủ thư” của Phan Châu Trinh gửi Toàn quyền Đông Dương P.Bô năm 1906.
     8. Trần Dân Tiên: Những mẩu chuyện về đời hoạt động của Hồ Chủ tịch, sđd, tr. 12.
     9. Tuyên bố của Toàn quyền Đông Dương Anbe Xarô, năm 1919, đăng báo “Lục tỉnh Tân Văn”, từ số 621, 5-5-1919 đến số 623, ngày 9-5-1919.
    10. Hồ Chí Minh: Trả lời phỏng vấn phóng viên Mỹ, báo Nhân Dân, số 4062, ngày 18-5-1965.

Chủ Nhật, 8 tháng 10, 2017

Sao mà phịa chuyện tài đến vậy?




                                          @     Hoàng Long
            Đã hơn hai chục năm nay được nghỉ hưu nên cũng an nhàn, con cái có “yên bề gia thất”, cháu chắt chăm ngoan và chuyên cần học hành nên thấy cũng mãn nguyện của cuộc sống về già như tôi. Thú thực anh con nào cũng có cơ ngời đàng hoàng, vậy nên với tuổi già xưa nay hiếm ngoài việc xum vầy cùng con cháu, rỗi rãi thường ngồi trò chuyện cùng mấy ông bạn già trong khu phố. Thực tình hôm nào không ngồi được với nhau hàn huyên dăm ba câu chuyện thấy nhơ nhớ. Khi nghe mấy anh “phát thanh viên” này bình luận, cũng nhiều thông tin mới và hay đáo để. Không ai bảo ai nhưng được cái anh nào cũng chịu khó sưu tầm, đua ngầm trong nhóm vậy. Quan tâm nhất có lẽ phải kể đến vấn đề tham nhũng, rồi việc xử lý cán bộ, rôm rả nhất có lẽ tập trung vào việc Hội nghị Trung ương 6 quyết định xử lý kỷ luật đối với Bí thư Đà Nẵng Nguyễn Xuân Anh... có thể nói đa dạng và phong phú, xem ra anh nào không chịu đọc cũng thấy sốt ruột vì kém cạnh. Thú thực với các bạn, tôi cũng bị cuốn theo vòng xoáy đó, có lúc mải mê quên cả ăn làm cho bà lão nhà tôi phải nhắc hoài…Mấy ngày qua trên cộng đồng mạng lại đang bàn tán xôn xao về những phát biểu của nhà văn Nguyên Ngọc  trả lời phỏng vấn đài RFI về bộ phim “The Vietnam War”.
Tôi sinh ra cùng thời Nguyên Ngọc, từng là người lính trải qua thời kỳ chiến tranh ác liệt với bao huy sinh mất mát của dân tộc, tội ác của giặc Mỹ và bè lũ tay sai Ngụy quân, Ngụy quyền gây ra với đồng bào miền Nam và cả miền Bắc, di chứng chiến tranh ở khắp nới trên đất nước Việt Nam... phải nói rằng không chỉ có dân tộc VN, các dân tộc khác trên thế giới không ai mong muốn chiến tranh. Họ chỉ cầm súng khi quan thù xâm lăng biên cương, bờ cõi của Tổ quốc thân yêu, tôi và Nguyên Ngọc đều hiểu rõ: Trong Chiến tranh Việt Nam, quân đội Hoa Kỳ và các lực lượng đồng minh đã gây ra hàng loạt tội ác như giết người, hãm hiếp, đánh đập tù nhân, ném bom vào thường dân, rải chất độc da cam v.v... Tất cả đều có đầy đủ bằng chứng để chứng minh và buộc tội những người đã có hành động gây ra tội ác chiến tranh, chỉ lấy hai sự kiện, vụ thảm sát Mỹ Lai năm 1968 và thảm sát thạch phong cũng đã đủ thấy sự tàn bạo của những tên lính Mỹ và lính đánh thuê đến nhừơng nào. Như vậy không thể như Nguyên Ngọc bây giờ nói “cuộc chiến tranh này đã chia rẽ dân tộc một cách kinh khủng. Chưa bao giờ dân tộc Việt Nam bị chia rẽ như bây giờ. Cái tính chất ý thức hệ của cuộc chiến tranh làm cho xã hội Việt Nam bị xé nát, hậu quả đó đến bây giờ vẫn còn…”.

Đúng là “thức khuya mới biết đêm dài”, lòng người khó đoán định, tôi không nghĩ rằng Nguyên Ngọc một nhà văn được mệnh danh một cây “bút chiến” thời chiến tranh với những tác phẩm để đời như “Đất nước đứng lên” đến “Đường chúng ta đi”, “Đất Quảng”, “Rừng xà Nu”…đã lột tả được cuộc chiến khốc liệt của quân và dân ta với đế quốc Mỹ và Ngụy quyền tay sai thời đó. Đúng là “không ai học được chữ ngờ”, khi cái tôi lên ngôi và cùng với tuổi già nua đã làm ông mất hết lý trí, không còn minh mẫn, tỉnh táo để nhìn nhận đúng - sai. Đã trải qua và chứng kiến nhiều cuộc chiến, bước vào thế kỷ XXI, nhân loại không có khát vọng nào khác hơn là được sống trong hoà bình, hữu nghị, hiểu biết và thông cảm lẫn nhau để cùng hợp tác và phát triển. Vì vậy, "nâng cao hơn nữa lòng khoan dung là nhiệm vụ của toàn nhân loại". Việt Nam là một dân tộc yêu hoà bình, có truyền thống khoan dung, nhân nghĩa, hoà hiếu. Từ trong đống tro tàn của cuộc chiến tranh khốc liệt để quyết tâm gắng dậy đứng lên, chúng ta càng thấu hiểu hòa bình, khoan dung, hòa hiếu quan trọng đến nhường nào. Cho đến bây giờ cũng chưa tính hết được những mất mát đau thương do cuộc chiến này gây ra. Nhưng dân tộc Việt Nam luôn mong muốn “khép lại quá khứ hướng đến tương lai” tốt đẹp hơn. Có thể ai đó gọi câu ấy đã trở nên nhàm nhưng nếu không khép lại những đau thương mất mát ấy thì ai có thể sống tiếp được chăng? Nếu chúng ta cứ nuôi mãi hận thù thì làm sao đất nước ta có được như ngày hôm nay? Cả hai bên đều đã phải mất một thời gian rất dài, trải qua một chặng đường đầy nhọc nhằn mới khép lại được quá khứ để vui vẻ với nhau. Vậy vì sao phải khơi lên nỗi đau ấy vào lúc này?.

Thưa với các bạn độc giả, tôi viết bài này không nhằm khơi lại quá khứ đau thương về mối thù đã qua, mà chỉ nhằm khẳng định một điều: "bạo lực và chiến tranh không phải là phương thức giải quyết các vấn đề của thế giới đương đại, dân tộc Việt Nam mong muốn làm bạn với tất cả các dân tộc trên trái đất này, để một thế giới hòa bình, ổn định và thịnh vượng". Đồng thời chia sẻ về hiện thực cuộc sống để chúng ta nhìn nhận cho đúng, không phải như Nguyên Ngọc đang cố tạo ra những nội dung hư cấu trả lời đài RFI của mình nhằm đánh lừa dư luận thiếu thông tin, nhất là giới trẻ hiện nay không trải qua cuộc chiến đầy cam go của dân tộc VN trước kẻ thù xâm lược và bè lũ tay sai bán nước…Nhân ái, khoan dung, hòa bình là khát vọng chung của nhân loại, nhưng trong thực tế lịch sử mấy nghìn năm tồn tại, loài người chưa bao giờ thực sự có hòa bình, lòng nhân ái và tinh thần khoan dung vẫn chưa ngự trị trong toàn xã hội. Minh chứng ấy không phải ở Việt Nam nữa mà chính là thất bại của chính quyền G.Bush trong việc đem quân vào Afganistan và Iraq trước đây, nhưng di chứng của nó vấn tồn tại khó lường trong thế giới Ả Rập. Đỉnh điểm chính là sự trỗi dậy của Al-Qaeda và IS là hậu quả của sự mất cân bằng trong quan hệ giữa thế giới Hồi giáo với Mỹ và phương Tây, căn nguyên làm cho thế giới bất ổn như hiện nay, đồng thời cũng là hệ quả của việc thiếu các giải pháp hòa bình trong việc cải thiện sự mất cân bằng này. Muốn có hòa bình, thế giới phải tạo dựng được một nền văn hóa hòa bình, muốn thanh toán hận thù và cực đoan, cần phải chung tay xây dựng một nền văn hóa nhân ái, khoan dung trong cộng đồng nhân loại và trách nhiệm của mỗi chúng ta. Vậy nên truyền thống khoan dung, hòa hiếu của dân tộc Việt Nam lại đang được khẳng định trong thế giới ngày nay.

Nhưng hơn hết, một điều tôi muốn chia sẻ ở đây, trong cuộc sống mọi người đều có thể theo đuổi những khuynh hướng và giá trị khác nhau, nhưng điều quan trọng không phương hại đến mục tiêu chung của dân tộc mình… Nhưng thưa các bạn, đâu chỉ đơn thuần như vậy, trong xã hội ta hiện nay đang tồn một nhóm người chỉ vì hiềm khích và lợi ích cá nhân, tự đánh mất lòng “nhân ái, khoan dung” của chính mình, bán rẻ lương tâm để được cái tôi hơn hết, xin đừng lợi dụng cuộc chiến chính nghĩa của dân tộc bảo vệ giang sơn xã tắc để “kiếm chác”, “làm tiền” nhằm xuyên tạc đi ngược lại lợi ích của dân tộc là điều không nên chút nào. Nguyên Ngọc dù có “biến báo”, ngụy tạo thế nào đi chăng nữa cũng không thể đánh lừa được dư luận trong nhân dân bởi tác những phẩm để đời của chính tác giả cũng là những minh chứng hùng hùn để bác đi những lời xằng bậy lá mặt lá trái của Nguyên Ngọc vừa qua.