Thứ Sáu, 10 tháng 7, 2015

TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH SỰ VẬN DỤNG VÀ PHÁT TRIỂN SÁNG TẠO CHỦ NGHĨA MÁC – LÊNIN VÀO ĐIỀU KIỆN VIỆT NAM



                                                            
Nguyễn Hòa

CN M-L là một học thuyết khoa học và cách mạng; bởi thế, từ khi ra đời đến nay, nó luôn bị các thế lực thù địch, phản động không ngừng công kích, xuyên tạc và phủ nhận. Đặc biệt, sau khi CNXH hiện thực ở Liên Xô và các nước Đông Âu sụp đổ, sự chống phá của các thế lực thù địch, phản động ngày càng gia tăng cả về quy mô lẫn tính chất. Ở VN, các thế lực thù địch và phản động không chỉ phủ nhận CN M-L, mà còn mưu toan phủ nhận cả tư tưởng Hồ Chí Minh bằng mọi thủ đoạn tinh vi. Họ tuyên truyền quan điểm hết sức sai trái cho rằng, tư tưởng Hồ Chí Minh không phải là kết quả của sự vận dụng sáng tạo và phát triển CN M-L vào VN. Vậy tư tưởng Hồ Chí Minh là gì, đó có phải là sự vận dụng sáng tạo và phát triển CN M-L vào hoàn cảnh, điều kiện lịch sử cụ thể của VN hay không?
Như chúng ta đã biết, Nguyễn Ái Quốc – Hồ Chí Minh từ khi ra đi tìm đường cứu nước cho đến trước lúc từ biệt thế giới này đã luôn đấu tranh không mệt mỏi vì độc lập dân tộc, vì hạnh phúc của nhân dân. Cả cuộc đời Người chỉ có một ham muốn, ham muốn tột bậc, đó là làm sao cho nước ta được hoàn toàn độc lập, đồng bào ta ai cũng có cơm ăn áo mặc, ai cũng được học hành. Từ sự nghiên cứu lý luận cũng như hoạt động thực tiễn phong phú của mình, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đúc kết và để lại một di sản tinh thần vô giá, không những trực tiếp góp phần to lớn và quyết định vào thắng lợi của dân tộc trong những năm qua mà còn tiếp tục mang giá trị, ý nghĩa chỉ đạo, định hướng cho sự nghiệp cách mạng của Đảng ta, nhân dân ta.
Tôn vinh tư tưởng và những cống hiến to lớn của Người, tại Đại hội lần thứ IX, ĐCSVN đã khẳng định: "Tư tưởng Hồ Chí Minh là một hệ thống quan điểm toàn diện và sâu sắc về những vấn đề cơ bản của cách mạng VN, là kết quả của sự vận dụng và phát triển sáng tạo CN M-L vào điều kiện cụ thể của nước ta, kế thừa và phát triển các giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn hoá nhân loại. Đó là tư tưởng về giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng con người; về độc lập dân tộc gắn liền với CNXH, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại; về sức mạnh của nhân dân, của khối đại đoàn kết dân tộc; về quyền làm chủ của nhân dân, xây dựng Nhà nước thật sự của dân, do dân, vì dân; về quốc phòng toàn dân, xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân; về phát triển kinh tế và văn hoá, không ngừng nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân; về đạo đức cách mạng, cần, kiệm, liêm, chính, chí công, vô tư; về chăm lo bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho đời sau; về xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh, cán bộ, đảng viên vừa là người lãnh đạo, vừa là người đầy tớ thật trung thành của nhân dân… Tư tưởng Hồ Chí Minh soi đường cho cuộc đấu tranh của nhân dân ta giành thắng lợi, là tài sản tinh thần to lớn của Đảng và dân tộc ta".
Luận điểm mang tính khái quát của ĐCS VN về tư tưởng Hồ Chí Minh nêu trên thể hiện bốn nội dung hết sức quan trọng. Đó là, thứ nhất, tư tưởng Hồ Chí Minh là một hệ thống quan điểm toàn diện và sâu sắc về những vấn đề cơ bản của cách mạng VN, từ cách mạng dân tộc dân chủ đến cách mạng xã hội chủ nghĩa; thứ hai, tư tưởng Hồ Chí Minh là kết quả của sự vận dụng và phát triển sáng tạo CN M-L vào điều kiện cụ thể của VN; thứ ba, tư tưởng Hồ Chí Minh là sự kế thừa và phát huy giá trị truyền thống của dân tộc VN và tinh hoa văn hoá nhân loại; thứ tư, những nội dung căn bản trong tư tưởng Hồ Chí Minh đã và tiếp tục soi sáng con đường cách mạng VN trong thời gian tới.
Trước hết, cần khẳng định rằng, tư tưởng Hồ Chí Minh có quan hệ gắn bó, mật thiết với CN M-L. Thực tế cho thấy, CN M-L có vai trò đặc biệt quan trọng đối với sự hình thành, phát triển tư tưởng Hồ Chí Minh. Nếu không có CN M-L thì cũng không có tư tưởng Hồ Chí Minh. Chỉ trong quá trình tìm đường cứu nước, khi tiếp nhận được CN M-L thông qua đọc Sơ thảo luận cương của V.I.Lênin về các vấn đề dân tộc và thuộc địa, tư tưởng Hồ Chí Minh mới thực sự được xác lập và phát triển. Có thể nói, CN M-L là nguồn gốc, cơ sở hình thành thế giới quan và phương pháp luận khoa học của Hồ Chí Minh, nhờ đó mà Người đã có bước phát triển về chất từ một người yêu nước trở thành một chiến sĩ cộng sản lỗi lạc, tìm ra con đường cứu nước đúng đắn. CN M-L đã cung cấp phương pháp luận khoa học – phép biện chứng duy vật; đồng thời, xác lập những vấn đề có tính nguyên tắc về lập trường quan điểm, về phương pháp chỉ đạo cách mạng... Những phạm trù cơ bản của tư tưởng Hồ Chí Minh nằm trong hệ thống những phạm trù cơ bản của CN M-L. Mặt khác, dựa trên cơ sở lý luận của CN M-L, Hồ Chí Minh đã tiếp thu và chuyển hoá những nhân tố tích cực, những giá trị và tinh hoa văn hoá của dân tộc và của nhân loại để tạo nên tư tưởng của mình phù hợp với xu thế vận động của lịch sử.
Hồ Chí Minh đã nhận thức một cách đúng đắn rằng, CN M-L là cái “cẩm nang thần kỳ”, là mặt trời soi sáng con đường cách mạng và đưa chúng ta đi đến thắng lợi cuối cùng; rằng, chỉ có CN M-L là chân chính nhất, cách mạng nhất, triệt để nhất. Từ đó, Người đặt niềm tin vào CN M-L, quyết định lựa chọn và đi theo CN M-L, lấy lý luận đó làm ngọn đèn pha soi đường, làm kim chỉ nam cho cách mạng VN. Hồ Chí Minh đã nhiều lần khẳng định chỉ có CNXH và CNCS mới có thể giải quyết triệt để vấn đề độc lập dân tộc, mới xóa bỏ vĩnh viễn ách áp bức, bóc lột và nô dịch, mới giải quyết tận gốc vấn đề giải phóng xã hội, giải phóng con người. Hồ Chí Minh viết: “Lúc đầu, chính là chủ nghĩa yêu nước, chứ chưa phải CNCS đã đưa tôi tin theo Lênin, tin theo Quốc tế thứ ba. Từng bước một, trong cuộc đấu tranh, vừa nghiên cứu lý luận Mác - Lênin, vừa làm công tác thực tế, dần dần tôi hiểu được rằng chỉ có CNXH, CNCS mới giải phóng được các dân tộc bị áp bức và những người lao động trên thế giới khỏi ách nô lệ”[1].
Một trong những điểm đặc sắc ở Hồ Chí Minh là Người tin chủ nghĩa  Mác - Lênin và luôn vận dụng lý luận đó một cách sáng tạo xuất phát từ đặc điểm, hoàn cảnh cụ thể của đất nước chứ không giáo điều. Hồ Chí Minh xem CN M-L là một trong những giá trị tinh hoa tư tưởng của thời đại, và luôn đặt trong dòng chảy văn hóa nhân loại. Người luôn chống lại mọi biểu hiện biệt phái, xơ cứng, máy móc, chật hẹp hoặc cực đoan khi vận dụng CN M-L. Bản thân Hồ Chí Minh đã nêu một tấm gương mẫu mực khi Người nghiên cứu, tiếp thu, vận dụng CN M-L không phải theo lối giáo điều, kinh viện, mà có sự phát triển, làm phong phú thêm CN M-L trong điều kiện lịch sử mới. Người không bao giờ coi CN M-L là “cái gì đã xong xuôi hẳn” hoặc là những câu trả lời có sẵn cho mọi vẫn đề ; trái lại, như Người đã từng chỉ rõ: “Dù sao thì cũng không thể cấm bổ sung “cơ sở lịch sử” của chủ nghĩa Mác bằng cách đưa thêm vào đó những tư liệu mà Mác ở thời mình không thể có được. Mác đã xây dựng học thuyết của mình trên một triết lý nhất định của lịch sử, nhưng lịch sử nào? Lịch sử châu Âu. Mà châu Âu là gì? Đó chưa phải là toàn thể nhân loại”[2]. Nói đến quan hệ giữa cách mạng VN với CN M-L, Hồ Chí Minh khẳng định: “Thắng lợi của cách mạng VN là một thắng lợi của CN M-L ở một nước trước đây là thuộc địa. Những kinh nghiệm thành công của cách mạng VN cũng góp phần ít nhiều vào kho tàng lý luận của CN M-L”[3]. Với Người, cách mạng VN muốn thắng lợi cần phải vận dụng sáng tạo lý luận của CN M-L. Trả lời phỏng vấn nhà báo Pháp Sáclơ Phuốcniô, ngày 15-7-1969, Hồ Chí Minh khẳng định: “…chính là do cố gắng vận dụng những lời dạy của Lê-nin, nhưng vận dụng một cách sáng tạo, phù hợp với thực tế VN ngày nay, mà chúng tôi đã chiến đấu và giành được những thắng lợi to lớn như đồng chí đã biết. Chúng tôi giành được thắng lợi là do nhiều nhân tố, nhưng cần phải nhấn mạnh rằng… chúng tôi giành được những thắng lợi đó trước hết là nhờ cái vũ khí không gì thay thế được là CN M-L”[4]. Người đòi hỏi cán bộ, đảng viên trong quá trình nhận thức và hoạt động thực tiễn phải nắm vững những nguyên lý cơ bản của CN M-L, đặc biệt phải nắm vững tinh thần và phương pháp biện chứng duy vật của CN M-L, yêu cầu phải vận dụng một cách linh hoạt, sáng tạo CN M-L chứ không sao chép, máy móc. Những yêu cầu đó vừa thể hiện tính khoa học và cách mạng, vừa thể hiện văn hóa, giá trị nhân văn chủ nghĩa ở tầm thời đại.
Một trong những cống hiến lịch sử quan trọng của Hồ Chí Minh là sự nhận thức và vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lê-nin vào sự nghiệp cách mạng giải phóng dân tộc và xây dựng CNXH ở VN. Để thấy sự vận dụng sáng tạo của Hồ Chí Minh, chúng ta hãy đọc lại Chánh cương vắn tắtSách lược vắn tắt, trong đó đề ra mục tiêu và phương hướng chiến lược của cách mạng là hoàn thành sự nghiệp giải phóng dân tộc, làm cho nước ta hoàn toàn độc lập và tiến tới xã hội cộng sản: “Làm tư sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách mạng để đi tới xã hội cộng sản”[5].
Hồ Chí Minh đã từng chỉ ra rằng, một trong những ưu điểm lớn nhất của CN M-L là phép biện chứng. Đó là phép biện chứng của phát triển xã hội, là khoa học và cách mạng của sự phát triển, xóa bỏ trật tự xã hội cũ bất công và tàn bạo, hướng tới xây dựng trật tự xã hội mới, dân chủ, công bằng và nhân đạo, vì sự phát triển toàn diện của con người. Ðó là CNCS. Hồ Chí Minh đã nhìn nhận CN M-L, CNCS một cách khoa học và thấm nhuần quan điểm thực tiễn, quan điểm lịch sử - cụ thể. Người nhận rõ, chủ nghĩa Mác -  Lênin là kết tinh tinh hoa trí tuệ và tư tưởng của thời đại, của văn hóa nhân loại. Song, theo Hồ Chí Minh, cần xem lại cơ sở của chủ nghĩa Mác và bổ sung nó bằng dân tộc học phương Đông.
Hồ Chí Minh đặt vấn đề về sự cần thiết phải vận dụng quan điểm và phương pháp duy vật biện chứng của chủ nghĩa Mác để xem xét sự khác nhau cơ bản giữa kết cấu kinh tế và kết cấu xã hội - giai cấp giữa phương Tây với phương Ðông. Người cho rằng, nếu ở phương Tây trong nền sản xuất tư bản chủ nghĩa, sự phân hóa giai cấp đã trở nên rõ rệt và đối kháng giai cấp (tư sản và vô sản) do sự phân hóa ấy là sâu sắc và gay gắt thì ở phương Ðông và VN tình hình lại không hẳn là như vậy. Ở VN trong những năm đầu thế kỷ XX, nổi bật lên mâu thuẫn giữa dân tộc VN với chủ nghĩa tư bản, chủ nghĩa thực dân xâm lược và bè lũ tay sai bán nước và đó là mâu thuẫn chủ yếu. Do đó, khác với phương Tây, ở phương Ðông, trong đó có VN đặc điểm nổi bật và nhu cầu cấp thiết đặt ra là giải phóng dân tộc, là giải quyết mâu thuẫn giữa dân tộc với chủ nghĩa tư bản, chủ nghĩa thực dân xâm lược để giành độc lập, xóa bỏ tình trạng thuộc địa và phụ thuộc dưới ách đô hộ, thống trị của thực dân. Rõ ràng, Hồ Chí Minh đã vận dụng sáng tạo CN M-L trong việc nhận thức, giải quyết mối quan hệ giữa dân tộc và giai cấp, giữa đấu tranh dân tộc và đấu tranh giai cấp. Trong khi Quốc tế ba quá nhấn mạnh đấu tranh giai cấp, thì ngược lại, Hồ Chí Minh cho rằng, ở VN nếu không giải quyết được vấn đề giải phóng dân tộc, không đòi được độc lập tự do cho dân tộc thì chẳng những toàn thể quốc gia dân tộc còn chịu mãi kiếp ngựa trâu, mà quyền lợi của bộ phận giai cấp đến vạn năm cũng không đòi lại được. Trong tác phẩm “Sửa đổi lề lối làm việc”, Hồ Chí Minh viết: “… phải biết khéo lợi dụng kinh nghiệm (…). Nếu thấy người ta (…) nói giai cấp đấu tranh, mình cũng ra khẩu hiệu giai cấp đấu tranh, mà không xét hoàn cảnh nước mình như thế nào để làm cho đúng”[6].
Người coi chủ nghĩa dân tộc chân chính là một động lực lớn của đất nước[7]. Khác với chủ nghĩa dân tộc hẹp hòi, chủ nghĩa dân tộc của Hồ Chí Minh luôn được đặt trong tinh thần quốc tế vô sản: Cách mạng ở các nước thuộc địa trước hết phải đấu tranh giành lại độc lập cho dân tộc và từ thắng lợi của cuộc cách mạng giải phóng dân tộc tiến lên làm cách mạng xã hội chủ nghĩa, đóng góp thiết thực vào sự nghiệp cách mạng của giai cấp vô sản toàn thế giới.
So sánh với đấu tranh giai cấp mà Stalin đã tiến hành ở Liên Xô (cũ) và Mao Trạch Đông đã tiến hành ở Trung Quốc, chúng ta thấy bằng thiên tài và sự nhạy bén chính trị Hồ Chí Minh đã vượt qua những sai lầm trong cách hiểu tả khuynh cực đoan về đấu tranh giai cấp. Thấm nhuần quan điểm của V.I.Lênin, Hồ Chí Minh khẳng định, muốn cứu nước và giải phóng dân tộc không còn con đường nào khác ngoài con đường cách mạng vô sản. Song, cách mạng vô sản ở đây không phải chỉ là cuộc đấu tranh giai cấp mà còn bao hàm trong đó cuộc cách mạng giải phóng dân tộc. Nói cách khác, cách mạng dân tộc, dân chủ nhân dân một phạm trù của cách mạng vô sản. Bởi vì, theo Hồ Chí Minh, mâu thuẫn chủ yếu của VN lúc bấy giờ là mâu thuẩn giữa dân tộc VN với chủ nghĩa thực dân Pháp. Đây chính là một trong những biểu hiện sự vận dụng một cách tài tình, sáng tạo CN M-L của Hồ Chí Minh vào hoàn cảnh cách mạng VN.
Dưới ánh sáng của CN M-L và xuất phát từ đặc điểm lịch sử cụ thể của VN nửa đầu thế kỷ XX, Người đã vạch ra rằng giải phóng dân tộc phải là nhiệm vụ ưu tiên, hàng đầu của cách mạng VN, chứ không phải là vấn đề đấu tranh giai cấp. Ðó cũng là lý do giải thích tại sao Hồ Chí Minh chủ trương thực hiện đoàn kết tất cả các giai cấp trong xã hội VN để tạo ra sức mạnh giải phóng dân tộc.
Có thể nói, tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết dân tộc có ý nghĩa đặc biệt sâu sắc và được thực tiễn cách mạng VN chứng minh là hoàn toàn đúng đắn. Với chiến lược đại đoàn kết, Người đã tập hợp, quy tụ được các dân tộc, các giai cấp, tầng lớp, đảng phái, tôn giáo, nhân sĩ trí thức yêu nước, đồng bào trong nước và kiều bào ở nước ngoài, xây dựng khối đại đoàn kết dân tộc. Tư tưởng đại đoàn kết dân tộc và việc xây dựng khối đại đoàn kết dân tộc của Hồ Chí Minh là một sáng tạo đặc sắc trong việc phát triển CN M-L.
Mặt khác, theo quan điểm của CN M-L, quần chúng nhân dân là những người sáng tạo nên lịch sử; là lực lượng sản xuất vật chất, sản xuất các giá trị tinh thần, là lực lượng hùng hậu của các cuộc cách mạng xã hội. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã vận dụng một cách sáng tạo quan điểm của CN M-L về vai trò quần chúng nhân dân vào tình hình cách mạng giải phóng dân tộc ở VN, khẳng định quần chúng là những người sáng tạo, công nông là những người sáng tạo; quần chúng nhân dân không chỉ sáng tạo ra của cải vật chất mà còn sáng tạo ra những giá trị tinh thần. Vì thế, chủ trương thực hiện đoàn kết rộng rãi cũng như tư tưởng về thực hành dân chủ của Hồ Chí Minh chính là nhằm tập hợp quần chúng, động viên họ tham gia vào sự nghiệp cách mạng, phát huy cao nhất sự sáng tạo của các tầng lớp nhân dân
Với sự nhạy cảm chính trị, nhãn quan khoa học và tầm nhìn tuyệt vời,  Hồ Chí Minh còn dự đoán rằng CNCS thâm nhập vào châu Á dễ dàng hơn là ở châu Âu[8]. Một trong những cơ sở luận chứng cho nhận định đó là sức mạnh đoàn kết dân tộc, truyền thống cộng đồng đã tỏ ra rất gần gũi với bản chất của CNCS.
Hồ Chí Minh đặt niềm tin sâu sắc vào lý tưởng và con đường cách mạng mà C.Mác, Ph.Ăngghen và V.I.Lênin đã vạch ra, đồng thời cũng kế thừa những tinh hoa tư tưởng khác của nhân loại cũng như giá trị văn hóa truyền thống của dân tộc. Thực tế cho thấy, Hồ Chí Minh hết sức trân trọng tư tưởng từ bi, bác ái của đạo Phật, sự khoan dung văn hóa cao cả của chúa Jêsu, tinh thần thực tiễn trong chủ nghĩa tam dân của Tôn Trung Sơn. Điều đó cho thấy, Hồ Chí Minh không chỉ đến với CN M-L, mà còn tìm hiểu những giá trị tư tưởng của một số nhà tư tưởng lỗi lạc khác và nâng lên tầm cao mới, phù hợp với thực tế của VN.
Sự vận dụng và phát triển sáng tạo CN M-L của Hồ Chí minh vào thực tiễn cụ thể của đất nước còn thể hiện trên nhiều khía cạnh, phương diện khác. Chúng ta có thể nói đến sự vận dụng sáng tạo và phát triển CN M-L của Hồ Chí Minh đối với nhiều vấn đề, như xây dựng Đảng, xây dựng Nhà nước, về quân sự, về ngoại giao, về văn hóa, đạo đức, v.v.. Chẳng hạn, Hồ Chí Minh coi ĐCS VN không những là đảng của giai cấp công nhân, mà còn là đảng của toàn thể dân tộc VN.
Trong suốt cuộc đời và sự nghiệp hoạt động cách mạng của mình, CN M-L đối với Hồ Chí Minh không chỉ là một học thuyết khoa học và cách mạng mà còn là đạo đức và văn hóa. Người đã từng chỉ rõ rằng, nếu đã đọc hàng trăm, hàng nghìn quyển sách Mác - Lênin mà ăn ở với nhau không có tình có nghĩa thì không thể nói là hiểu CN M-L được. Bởi lẽ, với Hồ Chí Minh, giá trị cao cả và tối thượng của CN M-L là tinh thần nhân văn sâu sắc – vì con người, cho con người, là sự tự do và phát triển toàn diện của con người. Không chỉ có vậy, Hồ Chí Minh còn là nhà mácxít vĩ đại khi tiếp cận CNXH, chính trị của giai cấp công nhân và bản chất của Ðảng Cộng sản từ góc độ đạo đức học và văn hóa đạo đức. Người đã từng khẳng định rằng, CNXH đối lập với chủ nghĩa cá nhân, tư tưởng xã hội chủ nghĩa đối lập với tư tưởng cá nhân chủ nghĩa, chính trị cốt ở đoàn kết, sự thanh khiết và trong sạch, Ðảng là đạo đức, là văn minh. Với Hồ Chí Minh, vận dụng sáng tạo CN M-L không phải là cái gì đó trừu tượng, xa vời; trái lại, rất cụ thể và thiết thực, là điều gì có lợi cho dân thì phải hết sức làm và điều gì có hại cho dân thì phải hết sức tránh. Theo quan niệm của Người, phục vụ nhân dân, làm công bộc trung thành và tận tụy của dân là phục tùng chân lý cao nhất, là lựa chọn một lẽ sống cao thượng nhất.
Trong việc vận dụng CN M-L, Hồ Chí Minh đặc biệt chú trọng yêu cầu sáng tạo, không máy móc, rập khuôn; để có thể làm được như vậy, nhất thiết phải hiểu rõ hoàn cảnh, những điều kiện lịch sử cụ thể và đặc điểm của đất nước. Người căn dặn chúng ta phải chú ý học tập kinh nghiệm của Liên Xô, Trung Quốc và các nước anh em nhưng không được sao chép mà phải có tinh thần độc lập tự chủ. Trong quá trình lãnh đạo thực hiện cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc trước đây, Hồ Chí Minh đã từng nhấn mạnh rằng, ta và Liên Xô rất khác nhau về trình độ phát triển, về lịch sử và văn hóa; rằng, trong công cuộc xây dựng CNXH, làm khác với Liên Xô cũng là người mácxít.
Có thể nói, Hồ Chí Minh đã nêu một tấm gương sáng, một sự mẫu mực trong việc nhận thức đúng đắn, vận dụng sáng tạo và phát triển CN M-L vào hoàn cảnh, điều kiện lịch sử đặc thù của VN. Quán triệt nguyên tắc đó luôn là điểm xuất phát cả trong tư tưởng lẫn hành động thực tiễn của Hồ Chí Minh. Tựu trung lại, Hồ Chí Minh đã có những đóng góp to lớn trong việc vận dụng sáng tạo và phát triển CN M-L vào điều kiện lịch sử cụ thể của đất nước.
Hiện nay, khi mà CNXH hiện thực ở Liên Xô và Đông Âu tan vỡ, hơn bao giờ hết, các thế lực thù địch và phản động đang ráo riết đẩy mạnh thực hiện chiến lược “diễn biến hòa bình”, tấn công trên mặt trận tư tưởng, văn hóa hòng làm suy giảm niềm tin, gây hỗn loạn về lý luận và tư tưởng. Một trong những vấn đề chúng tập trung chống phá là tách rời mối quan hệ biện chứng giữa tư tưởng Hồ Chí Minh và CN M-L, từ đó tiến tới phủ nhận sự lãnh đạo của ĐCS VN. Những kẻ phụ họa với các thế lực thù địch và phản động đã, đang tuyên truyền nhiều quan điểm sai trái, như  cho rằng tư tưởng Hồ Chí Minh không phải là sự vận dụng sáng tạo CN M-L vào điều kiện cụ thể của VN; rằng, ở VN hiện nay học thuyết Mác - Lênin đã lỗi thời, chỉ cần nói tư tưởng Hồ Chí Minh là đủ, không cần nói CN M-L...
Có thể khẳng định, về thực chất, quan điểm cho rằng tư tưởng Hồ Chí Minh không phải là sự vận dụng sáng tạo CN M-L vào điều kiện cụ thể của VN hoàn toàn không phải là sự ca ngợi, đề cao tư tưởng Hồ Chí Minh; trái lại, điều đó nằm trong mưu toan phủ nhận CN M-L, tách rời tư tưởng Hồ Chí Minh khỏi nguồn gốc lý luận chủ yếu là CN M-L, đồng thời từ đó làm suy yếu và tiến tới phủ định chính tư tưởng Hồ Chí Minh. Quan điểm sai trái đó nhằm ba mục tiêu: Một là, phủ nhận CN M-L; hai là, phủ nhận tư tưởng Hồ Chí Minh; ba là, phủ nhận nền tảng tư tưởng, cương lĩnh, đường lối của Đảng, làm suy yếu và đi đến xóa bỏ sự lãnh đạo của ĐCS VN. Đó là điều mà các thế lực thù địch, phản động mong muốn và đang tìm đủ mọi cách để thực hiện, kể cả những cách xấu xa nhất. Vì vậy, chúng ta phải luôn đề cao tinh thần cảnh giác, vạch rõ thủ đoạn của chúng và kiên quyết đấu tranh chống lại những luận điệu sai trái đó nhằm bảo vệ CN M-L, tư tưởng Hồ Chí Minh và đường lối, quan điểm của ĐCS VN.


[1] Hồ Chí Minh. Toàn tập, t.12. Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2011, tr.563.
[2] Hồ Chí Minh. Toàn tập, t.1. Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2011, tr.509-510
[3] Hồ Chí Minh. Toàn tập, t.13. Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2011, tr.381.
[4] Hồ Chí Minh. Toàn tập, t.12. Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2011, tr.589-590.
[5] Hồ Chí Minh. Toàn tập, t.3. Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2011, tr.1.
[6] Hồ Chí Minh. Toàn tập, t.5. Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2011, tr.312.
[7] Hồ Chí Minh. Toàn tập, t.1. Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2011, tr.511.
[8] Hồ Chí Minh. Toàn tập, t.1. Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2011, tr.47.

CON ĐƯỜNG XHCN - SỰ LỰA CHỌN ĐÚNG ĐẮN, PHÙ HỢP VỚI QUY LUẬT TIẾN HÓA CỦA LỊCH SỬ



Nguyễn Phúc
Nghiên cứu, tổng kết sự phát triển của lịch sử loài người, C.Mác đã chứng minh về sự thay thế tất yếu của các chế độ từ chế độ cộng sản nguyên thủy đến chế độ chiếm hữu nô lệ, chế độ phong kiến, chế độ tư bản và chế độ XHCN. Đó là lý luận về hình thái KT-XH mà cho đến nay, giá trị khoa học và hiện thực của nó ngày càng được khẳng định và làm sáng tỏ. Với những phát minh vĩ đại, Mác được thế giới suy tôn là một trong số những nhà khoa học hàng đầu không chỉ của thế kỷ XIX mà của cả thiên niên kỷ.
Khi phát kiến học thuyết CNXH khoa học, C.Mác và Ph.Ăngghen  đã phát triển những ý tưởng tốt đẹp về CNXH trước đó. Điều quan trọng không phải dừng lại ý tưởng hay mong muốn thành tâm trong sự nghiệp giải phóng giai cấp lao khổ, giải phóng con người mà phải là tính hiện thực. Ăngghen từng nhấn mạnh, từ khi CNXH trở thành một khoa học, đòi hỏi phải đối xử với nó như một khoa học, nghĩa là phải được nghiên cứu. Ăngghen cho rằng: “Muốn làm cho CNXH thành một khoa học thì trước hết phải đặt CNXH trên một cơ sở hiện thực”[1]. Giá trị khoa học chính là ở cơ sở hiện thực, ở khả năng hiện thực hóa học thuyết ấy. Mác cũng nhấn mạnh giữa xã hội tư bản chủ nghĩa và xã hội cộng sản chủ nghĩa là một thời kỳ cải biến cách mạng từ xã hội nọ sang xã hội kia. Đó là lý luận về thời kỳ quá độ lên CNXH cần được kiểm chứng từ thực tiễn. Nhận thức của Mác và Ăngghen về CNXH và quá độ lên CNXH đã được xác định trên những vấn đề cơ bản về kinh tế, chính trị, xã hội. Các ông không coi học thuyết mà các ông nêu ra là giáo điều, là công thức có sẵn hay cái gì đó đã hoàn tất, mà cần được bổ sung, phát triển từ hiện thực lịch sử.
Phát triển tư tưởng của Mác và Ăngghen, Lênin và Đảng Bonsevich Nga đã bắt đầu hiện thực hóa lý luận CNXH khoa học từ thắng lợi của cuộc Cách mạng Tháng Mười năm 1917. Trước đó, Lênin đã nêu rõ: “Người ta không thể coi cách mạng XHCN là một công cuộc làm một lần thì xong, mà phải coi đó là một thời đại”[2]. Sau Cách mạng Tháng Mười, trong nhiều tác phẩm quan trọng và từ thực tiễn của cách mạng XHCN, Lênin đã nêu rõ những nội dung, hay những đặc trưng của thời kỳ quá độ lên CNXH. Chính sách kinh tế mới (NEP) do Lênin khởi xướng đã làm sáng tỏ hơn những quy luật xây dựng CNXH.
Công cuộc xây dựng CNXH được đẩy mạnh ở Liên Xô mặc dù chính sách kinh tế mới không được tiếp tục thực hiện triệt để. Trước Cách mạng Tháng Mười, nước Nga có trình độ phát triển tư bản trung bình. Ngày 30-12-1922 thành lập Liên bang Xô viết (Liên Xô), các nước thành viên còn ở trình độ rất lạc hậu cả về kinh tế và xã hội. Phát triển theo con đường XHCN, Liên Xô đã có bước phát triển mạnh mẽ về kinh tế, nhất là công nghiệp hóa, tăng cường sức mạnh của lực lượng xã hội và chế độ chính trị. Nếu không có sức mạnh đó, thì Liên Xô không thể chiến thắng trong cuộc chiến tranh giữ nước vĩ đại và đánh bại chủ nghĩa phát xít hùng mạnh và tàn bạo, góp phần cùng các lực lượng Đồng minh tiêu diệt chủ nghĩa phát xít, quân phiệt, cứu loài người khỏi thảm họa. Đó là hiện thực lịch sử không ai có thê phủ nhận. Chính con đường xây dựng CNXH ở Liên Xô đã có ý nghĩa khai phá và cổ vũ các dân tộc tiến lên theo mục tiêu cao cả của CNXH là xây dựng một xã hội không còn áp bức, bất công, một xã hội thật sự vì nhân dân, vì con người.
Sau chiến tranh thế giới thứ II, Liên Xô tiếp tục đẩy mạnh xây dựng CNXH. Nhiều nước ở Đông Âu và Châu Á từng bước hoàn thành cuộc cách mạng dân tộc dân chủ và chuyển lên cách mạng XHCN và xây dựng CNXH. Thế giới hình thành hai phe đối lập trong chiến tranh lạnh: phe tư bản chủ nghĩa và phe XHCN. Liên Xô trở thành một siêu cường quốc trong cục diện tồn tại 2 siêu cường là Mỹ và Liên Xô. Cuộc đấu tranh giữa hai phe, 2 siêu cường không chỉ là đấu tranh đơn thuần về ý thức hệ, mà là giữa chế độ XHCN hiện thực và chủ nghĩa tư bản, đế quốc. CNXH hiện thực đã tự khẳng định sức mạnh và những ưu việt không thể phủ nhận.
Một chế độ xã hội mới ra đời là một quá trình lịch sử. Đó là quá trình tự hoàn thiện và loại bỏ những gì không đúng, không thích hợp. Các nước tư bản đạt tới trình độ phát triển cao cũng phải trải qua mấy thế kỷ để thực hiện nội dung cách mạng tư sản, loại bỏ những tàn tích phong kiến. Liên Xô, các nước Đông Âu và các nước khác trải qua mấy chục năm xây dựng CNXH có được những thành tựu to lớn, nhưng cũng bộc lộ những khuyết điểm, yếu kém cần phải sửa chữa thông qua cải cách, cải tổ, đổi mới. Những yếu kém, khuyết điểm dễ thấy ở các nước XHCN là lực lượng sản xuất, khoa học công nghệ còn kém phát triển so với các nước tư bản, do đó năng suất lao động, hiệu quả kinh tế thấp. Quan hệ sản xuất có những yếu tố cản trở sự phát triển lực lượng sản xuất, hạn chế những động lực phát triển kinh tế. Những vấn đề xã hội, chính sách xã hội để nâng cao đời sống nhân dân còn hạn chế. Chế độ chính trị có những khuyết tật về chủ nghĩa quan liêu, đặc quyền, đặc lợi, tham nhũng, vi phạm dân chủ và quyền làm chủ của nhân dân. Những khuyết tật, khuyết điểm đó trong thời kỳ quá độ lên CNXH, nghĩa là chưa có CNXH đầy đủ, là điều khó tránh. Khuyết tật, khuyết điểm đó cũng do nhận thức chưa rõ, chưa đúng với quy luật, đặc trưng của thời kỳ quá độ theo quan điểm của Mác, Lênin, và hoàn toàn có thể sửa chữa được. Sự đổ vỡ của mô hình CNXH ở Liên Xô và các nước Đông Âu không phải do những khuyết tậ, khuyết điểm đó mà do cách thức và động cơ sửa chữa. Chủ nghĩa cơ hội, những phần tử chống CNXH đã cố tình làm cho những khuyết điểm thêm trầm trọng và lấy đó làm cái cớ để xóa bỏ chế độ XHCN.
Chế độ XHCN ở Liên Xô và Đông Âu sụp đổ là tổn thất lớn đối với phong trào cách mạng thế giới. Không một người cách mạng chân chính nào lại không thấy đau buồn về tổn thất đó. Sự thật đó đặt ra yêu cầu khách quan phải nhận thức lại để tiến hành cách mạng XHCN và xây dựng CNXH phù hợp với quy luật và thực tiễn. Cần phải nhấn mạnh một thực tiễn sinh động là, từ đầu thập niên 90 của thế kỷ XX đến nay, một số nước theo con đường XHCN vẫn kiên định mục tiêu, lý tưởng, tiến hành cải cách, đổi mới, giành được những thành tựu to lớn và tiếp tục phát triển. Xu hướng xã hội XHCN phát triển mới ở một số nước lực lượng cánh tả cầm quyền. Thế giới hiện nay đang tồn tại các nước có chế độ chính trị khác nhau, trong đó có các nước theo con đường XHCN. Dù còn phải trải qua khó khăn, thách thức, song theo quy luật tiến hóa của lịch sử, loài người nhất định sẽ tiến tới CNXH.
Ở VN, nhận thức về CNXH bắt đầu từ những năm 20 của thế kỷ XX, khi Nguyễn Ái Quốc tiếp thụ chủ nghĩa Mác-Lênin và xác định con đường đấu tranh giải phóng dân tộc VN. Độc lập dân tộc là điều Nguyễn Ái Quốc khẳng định trên hết, trước hết. Giành độc lập rồi hoàn toàn có thể phát triển theo con đường XHCN. CNXH là chế độ xã hội tốt đẹp, là sự bảo đảm vững chắc cho độc lập dân tộc. Năm 1921, Nguyễn Ái Quốc cho rằng, do điều kiện về văn hóa, xã hội và lịch sử “cho phép CNCS thâm nhập vào Châu Á dễ dàng hơn là ở Châu Âu”[3]. Cần phải nhận thức CNCS cho đúng đắn. Không nên nhận thức CNCS là sự phá bỏ tất cả hoặc chỉ là giải phóng khỏi ách thống trị của nước ngoài. Cương lĩnh đầu tiên của ĐCSVN (2-1930) xác định rõ con đường đấu tranh, làm cho nước Nam hoàn toàn độc lập để đi tới xã hội cộng sản. Luận cương chính trị tháng 10-1930 xác định cách mạng VN “bỏ qua thời kỳ tư bản tranh đấu thẳng lên con đường XHCN”[4].
Đó là sự lựa chọn đúng đắn con đường phát triển của cách mạng và dân tộc VN. Sự lựa chọn đó đã dứt khoát từ năm 1930, khi ĐCSVN ra đời trong lúc các phong trào yêu nước từ lập trường Cần Vương đến lập trường tư sản, tiểu tư sản, qua khảo nghiệm của lịch sử đều lần lượt thất bại. Con đường cách mạng do người cộng sản cũng là người yêu nước Nguyễn Ái Quốc khởi xướng được những nhà yêu nước nổi tiếng khi đó ủng hộ và đặt niềm tin. Phan Châu Trinh trong thư gửi Nguyễn Ái Quốc ở Paris ngày 18-2-1922 đã khuyên Nguyễn Ái Quốc trở về nước “hô hào quốc dân đồng bào đồng tâm hiệp lực đánh đổ cường quyền áp chế”. Phan Châu Trinh thấy Nguyễn Ái Quốc như “cây đương lộc”, “nghị lực có thừa, dày công học hỏi, lý thuyết tinh thông”[5]. Còn Phan Bội Châu trong thư gửi Nguyễn Ái Quốc ở Quảng Châu (Trung Quốc) ngày 14-2-1925 đã hoàn toàn đặt niềm tin vào Nguyễn Ái Quốc. “Bây giờ đem kẻ già này so với cháu, Bác thấy rất xấu hổ. Nhận được liên tiếp hai lá thư của cháu, bác cảm thấy vừa buồn vừa mừng. Buồn là buồn cho thân bác, mà mừng là mừng cho đất nước ta. Việc thừa kế nay đã có người… Việc gây dựng lại giang sơn, ngoài cháu có ai để nhờ ủy thác, gánh vác trách nhiệm thay mình”[6].
Từ năm 1930 đến nay, ĐCSVN do lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc-Hồ Chí Minh sáng lập đã lãnh đạo toàn dân tộc VN thực hiện mục tiêu, con đường đã lựa chọn và đã đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác. Thắng lợi của cuộc Cách mạng Tháng Tám năm 1945 chấm dứt chế độ phong kiến, thuộc địa, mở ra thời đại độc lập vẻ vang của dân tộc. Thắng lợi của các cuộc kháng chiến oanh liệt chống thực dân, đế quốc, giải phóng và bảo vệ Tổ quốc, giành độc lập, thống nhất hoàn toàn. Thắng lợi của công cuộc đổi mới đưa đất nước quá độ lên CNXH với những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử. Đó là những thắng lợi vĩ đại của toàn dân tộc VN do ĐCS lãnh đạo, được toàn dân và cả thế giới khẳng định và không một thế lực thù địch nào có thể xuyên tạc hoặc phủ nhận.
Trong xây dựng CNXH ở VN đã có được những thành quả quan trọng. Đó là sức mạnh của chế độ chính trị vì nhân dân, vì lợi ích của quốc gia, dân tộc với chế độ dân chủ nhân dân và từng bước phát triển nền dân chủ XHCN gắn liền với pháp chế XHCN. Từng bước xác lập nền kinh tế XHCN với sự phát triển lực lượng sản xuất, cơ sở vật chất-kỹ thuật của CNXH thông qua quá trình công nghiệp hóa và nhận thức ý nghĩa then chốt của cách mạng khoa học-kỹ thuật và xóa bỏ chế độ người bóc lột người. Thực hiện các chính sách xã hội để từng bước bảo đảm đời sống nhân dân và sự công bằng xã hội. Xây dựng văn hóa và con người với sự kết hợp chủ nghĩa yêu nước và lý tưởng XHCN. Tăng cường quốc phòng, an ninh, đối ngoại. Chính sức mạnh của chế độ XHCN đã bảo đảm cho miền Bắc đứng vững và hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ của hậu phương lớn đối với tiền tuyến lớn miền Nam trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước. Cũng chính sức mạnh của chế độ XHCN đã bảo đảm cho cả nước sau năm 1975 vượt qua những khó khăn, thử thách nặng nề, bảo vệ vững chắc Tổ quốc trong các cuộc chiến tranh ở biên giới Tây-Nam và biên giới phía Bắc, tiếp tục có những bước phát triển mới.
Với tinh thần nhìn thẳng vào sự thật, đánh giá đúng sự thật, nói rõ sự thật, Đại hội VI ĐCSVN (12-1986) trong khi khẳng định những thành quả cũng đã thẳng thắn chỉ ra những khuyết điểm, yếu kém dẫn tới khó khăn, trì trệ kéo dài trong xây dựng CNXH và khủng hoảng KT-XH. Nguyên nhân của tình trạng đó là bệnh chủ quan, duy ý chí, nóng vội trong cải tạo XHCN và đề ra các chủ trương, chính sách; chưa tôn trọng và vận dụng đúng đắn các quy luật khách quan, nhất là các quy luật và đặc trưng của thời kỳ quá độ phù hợp với đặc điểm thực tiễn VN. Thẳng thắn nhìn nhận sự không thành công trong thực hiện quy luật quan hệ sản xuất phải phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất. “Kinh nghiệm thực tế chỉ rõ: lực lượng sản xuất bị kìm hãm không chỉ trong trường hợp quan hệ sản xuất lạc hậu mà cả khi quan hệ sản xuất phát triển không đồng bộ, có những yếu tố đi quá xa so với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất. Tình hình thực tế của nước ta đòi hỏi phải coi trọng những hình thức kinh tế trung gian, quá độ từ thấp lên cao, từ quy mô nhỏ lên quy mô lớn”[7].
Đường lối đổi mới toàn diện do Đại hội VI ĐCSVN (12-1986) khởi xướng là kết tinh của tư duy lý luận mới, nhận thức đúng đắn về CNXH và quá độ lên CNXH phù hợp với thực tiễn VN, khắc phục tư duy chủ quan, giản đơn, nóng vội, giáo điều. Chủ tịch Hồ Chí Minh nhấn mạnh sự cần thiết phải nắm bắt sâu sắc đặc điểm riêng của VN để tìm ra hình thức, bước đi và quy luật riêng của VN, không thể làm giống như nước khác. Hồ Chí Minh nêu rõ:
“Cuộc cách mạng XHCN là một cuộc biến đổi khó khăn nhất và sâu sắc nhất. Chúng ta phải xây dựng một xã hội hoàn toàn mới xưa nay chưa từng có trong lịch sử dân tộc ta… Chúng ta lại phải tiến hành những nhiệm vụ đó trong những điều kiện đặc biệt của nước ta, nghĩa là trên cơ sở của một xã hội vừa mới thoát khỏi ách thực dân, phong kiến, hết sức lạc hậu”[8].
“Trong những điều kiện như thế, chúng ta phải dùng những phương pháp gì, hình thức gì, đi theo tốc độ nào để tiến dần lên CNXH?... Chúng ta phải nâng cao sự tu dưỡng về chủ nghĩa Mác - Lênin để dùng lập trường, quan điểm, phương pháp chủ nghĩa Mác - Lênin mà tổng kết những kinh nghiệm của Đảng ta, phân tích một cách đúng đắn những đặc điểm của nước ta. Có như thế, chúng ta mới có thể dần dần hiểu được quy luật phát triển của cách mạng VN, định ra được những đường lối, phương châm, bước đi cụ thể của cách mạng XHCN thích hợp với tình hình nước ta”[9].
Từ đường lối cách mạng XHCN của Đại hội III (9-1960), Đại hội IV (12-1976) đến đường lối đổi mới của Đại hội VI (12-1986) là bước phát triển rất quan trọng về tư duy lý luận của ĐCSVN về CNXH và về thời kỳ quá độ lên CNXH. Đó cũng là kết quả của sự tổng kết và khảo nghiệm thực tiễn rất phong phú và sinh động. Trên cơ sở đổi mới tư duy lý luận và trả lời những vấn đề do thực tiễn đặt ra mà Đại hội VII của Đảng (6-1991) thông qua Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH và Cương lĩnh được bổ sung, phát triển tại Đại hội XI của Đảng (1-2011).
Quá trình đổi mới theo con đường XHCN đxa tạo ra những chuyển biến căn bản và sâu sắc diện mạo của đất nước, xã hội và đời sống của nhân dân. Một là, đã chuyển đổi từ nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung, khép kín, kinh tế hiện vật, công hữu, bao cấp sang nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, đa sở hữu, vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước, nền kinh tế thị trường định hướng XHCN. Hai là, về chính trị, từ thực hiện những chức năng, nhiệm vụ của chuyên chính vô sản sang xây dựng, hoàn thiện hệ thống chính trị, xây dựng Nhà nước pháp quyền, không ngừng hoàn thiện hệ thống pháp luật, phát huy dân chủ XHCN, bảo đảm quyền công dân, quyền con người; đổi mới và nâng cao năng lực lãnh đạo, năng lực cầm quyền của Đảng Cộng sản. Ba là, thực hiện tốt hơn những vấn đề xã hội và chính sách xã hội, củng cố đoàn kết và đồng thuận xã hội, bảo đảm an sinh xã hội, không ngừng cải thiện đời sống vật chất và văn hóa, tinh thần của nhân dân, từng bước thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội. Bốn là, tích cực và chủ động hội nhập quốc tế, thực hiện đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, đa phương hóa, đa dạng hóa các quan hệ, VN là bạn, là đối tác tin cậy, thành viên có trách nhiệm của cộng đồng quốc tế, khẳng định vị thế của VN trên trường quốc tế; tăng cường quốc phòng, an ninh, bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ, biển, đảo của Tổ quốc, bảo vệ lợi ích quốc gia, dân tộc.
Nghiên cứu lý luận và tổng kết thực tiễn luôn luôn được ĐCSVN coi trọng để có được những luận cứ khoa học vững chắc cho việc hoạch định Cương lĩnh, đường lối, chiến lược phát triển và chính sách. Từ những chuyển biến của thực tiễn đất nước dựa trên nền tảng tư tưởng là chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, nhận thức về CNXH và con đường đi lên CNXH ở VN đã ngày càng sáng tỏ hơn. Sáng tỏ về mục tiêu và mô hình xã hội XHCN mà VN phấn đấu xây dựng với 8 đặc trưng, trong đó nội dung hàng đầu là xây dựng xã hội dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh. Sáng tỏ hơn những vấn đề kinh tế, chính trị, xã hội, văn hóa, con người của thời kỳ quá độ, nhất là những hình thức tổ chức kinh tế, xã hội quá độ, chặng đường, bước đi của thời kỳ quá độ. Sáng tỏ hơn khả năng bỏ qua chủ nghĩa tư bản, bỏ qua quan hệ sản xuất và kiến trúc thượng tầng tư bản chủ nghĩa, nhưng có thể kế thừa những thành tựu loài người đạt được dưới chế độ tư bản, nhất là thành tựu về khoa học-công nghệ. Sáng tỏ hơn trong những định hướng lớn trong xây dựng phát triển đất nước và xử lý đúng đắn các mối quan hệ lớn đã được Đại hội XI của Đảng xác định, bảo đảm cho đất nước phát triển nhanh và bền vững.
CNXH trên thế giới mới trải qua lịch sử xây dựng gần một trăm năm, có thành công, khuyết điểm và cả sự đổ vỡ. Sự ra đời đầy khó khăn của một xã họi hoàn toàn mới là điều dễ hiểu. Con đường phát triển chẳng bao giờ thẳng tắp, dễ dàng. Cách mạng tư sản trước đây, có nước đã phải làm lại nhiều lần và trải qua mấy thế kỷ mới trở thành nước tư bản phát triển. Sự đổ vỡ, thất bại của mô hình CNXH từ những sai lầm chủ quan của Đảng cầm quyền vẫn cần được tiếp tục nghiên cứu và có được những lý giải khoa học. Từ bài học Liên Xô, Đông Âu, các nước đang kiên định con đường XHCN vẫn tiếp tục phát triển với nhận thức phù hợp với đặc điểm mỗi nước và đạt được những thành tựu quan trọng. Trên thực tế, quá trình toàn cầu hóa, hội nhập quốc tế đang diễn ra với sự tham gia của tất cả các nước có chế độ chính trị khác nhau, trong đó có các nước đang xây dựng CNXH và hướng tới mục tiêu của CNXH.
VN đang đổi mới thành công và từng bước hiện thực hóa mục tiêu của CNXH. VN công khai con đường XHCN với vai trò lãnh đạo, cầm quyền của Đảng Cộng sản và quản lý điều hành của Nhà nước pháp quyền XHCN, đã và đang giành được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử. VN phát triển theo con đường XHCN và được đông đảo các nước hợp tác để cùng phát triển trong xu thế hội nhập quốc tế. VN đang có quan hệ ngoại giao với 185 nước trong tổng số 193 nước thành viên LHQ, có quan hệ đối tác chiến lược với 13 nước gồm những cường quốc và các nước phát triển hàng đầu, tham gia nhiều diễn đàn thế giới, khu vực và nhiều tổ chức của LHQ. Vị thế quốc tế của VN tự nó khẳng định tính đúng đắn của con đường xây dựng, phát triển đất nước.
Con đường xây dựng CNXH ở VN vẫn còn những khuyết điểm, yếu kém cả về kinh tế, xã hội, văn hóa, đạo đức, hay sự lãnh đạo, quản lý. Đó là khuyết điểm trong quá trình phát triển và không thể vì những khuyết điểm yếu kém đó để phủ nhận những thành tựu cơ bản và lớn lao đang làm biến đổi sâu sắc đất nước. Con đường XHCN để hướng tới một xã hội tốt đẹp, thật sự vì con người, vì lợi ích quốc gia, dân tộc thì tại sao lại phải từ bỏ nó. ĐCSVN lãnh đạo toàn dân xây dựng CNXH là vì mục tiêu đất nước giàu mạnh, người dân được tự do, ấm no, sung sướng, hạnh phúc, vì một xã hội dân chủ, công bằng, văn minh. Để đạt tới mục tiêu đó cần sự nỗ lực đóng góp công sức, trí tuệ của mỗi người, của toàn dân với sức sáng tạo to lớn.
Những người phê phán con đường XHCN đã cố tình phủ nhận lịch sử, quay lưng lại với thực tiễn, thành quả phát triển của đất nước, để thực hiện mưu đồ chính trị xóa bỏ thành quả cách mạng, xóa bỏ chế độ XHCN và vai trò lãnh đạo của ĐCSVN, đưa đất nước đi chệch hướng để thực hiện tham vọng chính trị của họ. Điều dễ thấy là họ lợi dụng những khuyết điểm, yếu kém rồi thổi phồng lên để phê phán, phủ nhận. Những thành tựu và những điều tốt đẹp thì họ lại tìm cách bóp méo, xuyên tạc và phủ nhận. Vì vậy, cần phải tỉnh táo và có đủ trí tuệ, bản lĩnh để nhận diện và bác bỏ quan điểm sai trái đó. Ta quyết tâm sửa chữa những khuyết điểm, yếu kém và vững tin vào con đường đúng đắn. Lịch sử đất nước, dân tộc đang phát triển trên con đường đúng đắn đó và không thế lực nào có thể cản trở , phá hoại, vì đó là con đường phù hợp với quy luật tiến hóa của lịch sử.


[1] C.Mác và Ph.Ăngghen Toàn tập, Nxb CTQG, Hà Nội, 1995, tập 19, trang 293.
[2] Lênin Toàn tập, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva, 1980, tập 26, trang 444.
[3] Hồ Chí Minh Toàn tập, Nxb CTQG, Hà Nội, 2011, tập 1, trang 47.
[4] Hồ Chí Minh Toàn tập, Nxb CTQG, Hà Nội, 2011, tập 1, trang 94.
[5] Đại cương lịch sử Việt Nam, tập II, Nxb Giáo dục, 1999, trang 252.
[6] Hồ Chí Minh Tiểu sử, Nxb Lý luận chính trị, Hà Nội, 2006, trang 161.
[7] ĐCSVN:Văn kiện Đảng Toàn tập, Nxb CTQG, H, 2006, tập 47, trang 390.
[8] Hồ Chí Minh Toàn tập, Nxb CTQG, Hà Nội, 2011, tập 11, trang 91-92.
[9] Hồ Chí Minh Toàn tập, Nxb CTQG, Hà Nội, 2011, tập 11, trang 92.

HỌC THUYẾT MÁC – LÊNIN VỀ CON ĐƯỜNG QUÁ ĐỘ LÊN CNXH VÀ SỰ VẬN DỤNG, PHÁT TRIỂN SÁNG TẠO CỦA ĐCVSVN

Đặng Hữu 
Con đường quá độ lên CNXH theo phương thức “phát triển rút ngắn” – “bỏ qua giai đoạn phát triển TBCN” theo nghĩa không bỏ qua hoàn toàn hình thái KT-XH TBCN, mà là con đường phát triển có chọn lọc, kế thừa và tiếp thu những thành tựu văn hóa, văn minh mà nhân loại đã đạt được dưới chế độ TBCN; có điều chỉnh và định hướng các thành tố, động lực và xu hướng phát triển theo tiến trình của CMVN – đó là quan điểm nhất quán của ĐCSVN kể từ khi Đảng ra đời (3 – 2 – 1930) đến nay.
Trên phương diện lý luận, chúng ta có thể khẳng định, quan điểm đó của ĐCSVN là sự vận dụng đúng đắn và phát triển sáng tạo quan điểm của CN M-L về thời kỳ quá độ, về con đường và phương thức quá độ lên CNXH ở những nước lạc hậu, tiền TBCN.
1. Quan điểm của CN M-L về con đường quá độ lên CNXH theo phương thức “phát triển rút ngắn”
Chúng ta đều biết, các nhà sáng lập CN Mác – C.Mác và Ph.Ăngghen – chưa bao giờ sử dụng khái niệm “thời kỳ quá độ từ CNTB lên CNXH. Chúng ta chỉ biết trong lý luận của các ông về CNXH có quan niệm về thời kỳ quá độ này qua sự thừa nhận của V.I.Lênin rằng, “Mác có nói đến cả một thời kỳ chuyên chính vô sản, thời kỳ quá độ từ CNTB lên CNXH”([1]). Chỉ có V.I.Lênin sử dụng khái niệm thời kỳ quá độ từ CNTB lên CNXH và khái niệm quá độ lên CNXH “không phải trải qua giai đoạn phát triển TBCN”([2]). Song, một điều mà chúng ta không thể phủ nhận là, cả C.Mác, Ph.Ăngghen và V.I.Lênin đều nói đến con đường quá độ lên CNXH theo phương thức “phát triển rút ngắn”, khi các ông luận giải về cách mạng xã hội CN và khả năng thắng lợi của CNXH.
Trước hết, chúng ta nói về quan điểm của C.Mác và Ph.Ăngghen. Khi luận giải về khả năng thắng lợi của cách mạng xã hội CN, về tính tất yếu lịch sử của CNXH, trên cơ sở phân tích vận mệnh lịch sử của CNTB ở giai đoạn phát triển cạnh tranh tự do của nó và trong bối cảnh sục sôi đấu tranh giai cấp và bão táp cách mạng ngay trên mảnh đất đã sản sinh ra CNTB - ở châu Âu thế kỷ XIX, C.Mác và Ph.Ăngghen đã đưa ra dự báo về khả năng thắng lợi đồng thời của cách mạng xã hội CN ở tất cả các nước TBCN phát triển. Song, vốn là những nhà triết học duy vật biện chứng, các ông không bao giờ coi học thuyết, lý luận của mình là hoàn chỉnh và đã xong xuôi hẳn, càng không bao giờ các ông coi đó là những giáo điều, tín niệm. Các ông chỉ coi học thuyết của mình như một sự gợi ý về phương pháp, như một kim chỉ nam cho hành động sáng tạo cách mạng và trong nó tuyệt nhiên không có sẵn và đầy đủ mọi câu trả lời cho tất cả những sự biến đổi sinh động của thực tiễn cuộc sống.
Về điều này, chính Ph.Ăngghen đã khẳng định rằng, toàn bộ lý luận của C.Mác “không phải là một học thuyết, mà là một phương pháp”; rằng, lý luận đó “không đem lại những giáo điều có sẵn, mà đem lại những điểm xuất phát cho việc tiếp tục nghiên cứu và phương pháp cho sự nghiên cứu đó”([3]). Do vậy, một khi thực tiễn cách mạng vượt qua những kiến giải khoa học đã có và làm cho một số luận điểm nào đó trong học thuyết của các ông trở nên không còn thích hợp, các ông đã kịp thời tự phê phán và đưa ra những giải thích, những luận chứng bổ sung mới.
Với quan niệm duy vật về lịch sử, với học thuyết về hình thái KT-XH, khi tiến hành phân tích hình thái KT-XH TBCN, C.Mác đã khẳng định sự phát triển của những hình thái KT-XH là một quá trình lịch sử - tự nhiên, song không phải quốc gia dân tộc nào cũng nhất thiết phải trải qua tất cả các hình thái KT-XH đã có trong lịch sử, và do những điều kiện khách quan, chủ quan nhất định, một quốc gia dân tộc nào đó có thể bỏ qua một hình thái nhất định nào đó. C.Mác còn lưu ý rằng, một xã hội, ngay cả khi đã phát hiện được quy luật tự nhiên trong sự vận động của nó, cũng không thể nào nhảy qua các giai đoạn phát triển tự nhiên ấy hay dùng sắc lệnh để xóa bỏ, nhưng nó có thể rút ngắn và làm dịu bớt những cơn “đau đẻ” – “những đau khổ của chế độ tư bản”. Trong Thư gửi ban biên tập tờ “Ký sự nước nhà”, khi nói về nước Nga, về khả năng nước Nga có thể “không cần phải trải qua những đau khổ của chế độ tư bản”, C.Mác đã nói đến cơ hội tiến lên CNXH như một khả năng lựa chọn mà lịch sử đã mở ra, đã dành cho nước Nga.
Sau này, C.Mác và Ph.Ăngghen, trong Lời tựa viết cho lần xuất bản Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản bằng tiếng Nga (năm 1882), đã khẳng định nước Nga mới là nước “đang đi tiên phong trong phong trào cách mạng châu Âu”, cách mạng Nga mới là cuộc cách mạng “báo hiệu một cuộc cách mạng vô sản ở phương Tây”; với cuộc cách mạng này và khi được sự ủng hộ, “bổ sung” bởi cuộc cách mạng vô sản ở châu Âu thì nước Nga có thể tiến lên CNXH bỏ qua giai đoạn phát triển TBCN.
Lời khẳng định này còn được Ph.Ăngghen nhắc lại một lần nữa 8 năm sau đó, khi ông viết Lời tựa cho lần xuất bản bằng tiếng Đức (năm 1890) tác phẩm Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản. Và, 4 năm sau, trong Lời bạt viết cho tác phẩm Về vấn đề xã hội ở Nga, Ph.Ăngghen lại thêm một lần nữa khẳng định khả năng nước Nga có thể “rút ngắn một cách đáng kể quá trình phát triển của mình lên xã hội xã hội CN và có thể tránh được phần lớn những đau khổ và những cuộc đấu tranh mà ở Tây Âu… phải trải qua”. Hơn nữa, ông còn khẳng định rằng, “con đường phát triển rút ngắn như vậy… không chỉ đúng với nước Nga, mà với tất cả các nước đang ở trong giai đoạn phát triển tiền TBCN”([4]) (chúng tôi nhấn mạnh – Đ.H.T).
Theo đó, có thể nói, khi vẫn giữ quan niệm về khả năng thắng lợi đồng thời của cách mạng xã hội CN ở các nước TBCN phát triển, C.Mác và Ph.Ăngghen đã đưa ra những dự báo về khả năng thắng lợi của cuộc cách mạng đó không phải ở các nước TBCN phát triển, mà ở các nước kém phát triển, thậm chí ở các nước đang trong giai đoạn phát triển tiền ta bản CN. Với dự báo này, các ông đã nói đến con đường “phát triển rút ngắn” không qua giai đoạn phát triển TBCN của các nước này, mà nước Nga lạc hậu, đang trong giai đoạn phát triển tiền TBCN là một ví dụ cụ thể.
V.I.Lênin, vào cuối thế kỷ XIX – đầu thế kỷ XX, khi phân tích CNTB trong giai đoạn đế quốc CN – giai đoạn phát triển độc quyền của nó, và với việc phát hiện ra quy luật phát triển không đồng đều về kinh tế và chính trị của CNTB, đã đi đến kết luận về khả năng thắng lợi của cách mạng xã hội CN ở một số nước TBCN, thậm chí ở một nước, và hơn nữa, đó có thể là nước TBCN kém phát triển nhất, hay đang trong giai đoạn phát triển tiền TBCN.
Sau thắng lợi của Cách mạng tháng Mười Nga, vào năm 1920, V.I.Lênin đã nói đến con đường phát triển không qua giai đoạn phát triển TBCN và khả năng quá độ lên CNXH “không phải trải qua giai đoạn phát triển TBCN” của các nước lạc hậu, tiểu nông, chậm phát triển([5]). Và, với kinh nghiệm của những năm thực hiện “chính sách kinh tế mới” (NEP), ông đã khẳng định rằng, con đường quá độ lên CNXH có thể có những hình thức khác nhau tùy thuộc vào trình độ phát triển của lực lượng sản xuất. Ông cho rằng, hình thức “quá độ trực tiếp”  là con đường “phát triển tuần tự” từ CNTB lên CNXH, còn hình thức “quá độ gián tiếp” là con đường “phát triển rút ngắn”, bỏ qua giai đoạn phát triển TBCN, là con đường từ tiền TBCN lên CNXH.
Ở đây, cần lưu ý rằng, trong quan niệm của V.I.Lênin, những loại hình khác nhau này của con đường phát triển xã hội, “phát triển tuần tự” hay “phát triển rút ngắn” cũng đều phải tuân theo quy luật khách quan và đều là con đường phát triển lịch sử - tự nhiên. Và, trong sự “phát triển tuần tự” cũng có thể có khả năng “rút ngắn” nào đó, nghĩa là con đường phát triển này không nhất thiết phải trải qua toàn bộ sự phát triển đầy đủ của CNTB rồi mới tiến lên CNXH. Nước Nga với “chính sách kinh tế mới” chính là một trường hợp như vậy và V.I.Lênin coi đó là con đường “phát triển rút ngắn trong tuần tự”. Con đường “quá độ gián tiếp” theo phương thức “phát triển rút ngắn” lại khác. Ở con đường này không diễn ra sự “phát triển tuần tự”, mà diễn ra theo kiểu bỏ qua, “không kinh qua” chế độ TBCN, quá độ đi lên CNXH từ các quan hệ phong kiến hay tiền TBCN.
Như vậy, có thể nói, trên phương diện lý luận, cả C.Mác, Ph.Ăngghen và V.I.Lênin đều đã nói đến con đường quá độ lên CNXH theo phương thức “phát triển rút ngắn” và khẳng định đó là con đường phát triển tất yếu khách quan đối với các nước lạc hậu, đang trong giai đoạn phát triển tiền TBCN, hay chưa phát triển TBCN.
2. Đảng Cộng sản Việt Nam vận dụng và phát triển sáng tạo quan điểm của CN M-L về con đường quá độ lên CNXH theo phương thức “phát triển rút ngắn”
Xác định CN M-L là cơ sở lý luận nền tảng, lấy quan điểm của CN M-L về con đường quá độ lên CNXH theo phương thức “phát triển rút ngắn” làm kim chỉ nam cho CMVN, ngay tại Đại hội thành lập Đảng, trong Chánh cương vắn tắt của Đảng, Đảng ta đã khẳng định chủ trương “làm tư sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách mạng để đi tới xã hội cộng sản”([6]).
Cụ thể hóa đường lối cách mạng đó, tại Đại hội II (tháng 2 năm 1951), trong Chính cương của Đảng đã chỉ rõ nhiệm vụ cơ bản của CMVN và khẳng định: “Cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân Việt Nam nhất định sẽ đưa Việt Nam tiến tới CNXH”([7]) (chúng tôi nhấn mạnh – Đ.H.T).
Tại Đại hội III (tháng 9 năm 1960), Đảng đã xác định đường lối chung của miền Bắc trong thời kỳ quá độ là “đưa miền Bắc tiến nhanh, tiến mạnh, tiến vững chắc lên CNXH”, củng cố miền Bắc thành cơ sở vững mạnh cho cuộc đấu tranh thực hiện hòa bình, thống nhất nước nhà, góp phần tăng cường hệ thống xã hội CN, bảo vệ hòa bình trong phạm vi khu vực và trên thế giới.
Sau Đại thắng mùa Xuân 1975, Tổ quốc Việt Nam đã thống nhất, cả dân tộc Việt Nam cùng bước vào một giai đoạn cách mạng mới – tiến hành công cuộc xây dựng CNXH trên phạm vi cả nước, tại Đại hội IV (tháng 12 năm 1976), Đảng đã xác định: Trong thời đại ngày nay, khi độc lập dân tộc và CNXH không thể tách rời nhau và ở Việt Nam, “khi giai cấp công nhân giữ vai trò lãnh đạo cách mạng thì thắng lợi của cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân cũng là sự bắt đầu của cách mạng xã hội CN, sự bắt đầu của thời kỳ quá độ lên CNXH”([8]).
Với tư tưởng quán xuyến này, Đảng đã quyết định lựa chọn con đường cả nước cùng đi lên CNXH. Sự lựa chọn đó là hoàn toàn phù hợp với thực tiễn phát triển của CMVN, phù hợp với xu thế chung của thời đại. Song, do Việt Nam bước vào xây dựng CNXH trên cơ sở của một nền kinh tế còn rất lạc hậu, cơ sở vật chất – kỹ thuật còn non yếu, phần lớn lao động vẫn là thủ công, sản xuất xã hội chưa bảo đảm được nhu cầu, Đảng đã khẳng định: Dẫu Việt Nam “vẫn đang ở trong quá trình từ một xã hội mà nền kinh tế còn phổ biến là sản xuất nhỏ”, song con đường cách mạng của Việt Nam vẫn là “tiến thẳng lên CNXH, bỏ qua giai đoạn phát triển TBCN”([9]).
Quá độ lên CNXH từ xuất phát điểm thấp, lại bỏ qua giai đoạn phát triển TBCN là con đường hoàn toàn mới mẻ, chưa từng có tiền lệ trong lịch sử nhân loại. Do vậy, việc thực hiện con đường phát triển này đòi hỏi rất nhiều sự nỗ lực của nhân tố chủ quan. Trên cơ sở của đường lối chung, chúng ta cần phải cụ thể hóa cho phù hợp để từ đó, xác định bước đi, cách thức thực hiện trong thực tiễn. Song, trong quá trình thực hiện con đường phát triển đó, trên thực tế, chúng ta đã mắc không ít sai lầm, khuyết điểm, như “chủ quan, nóng vội, bảo thủ, trì trệ”, chưa thực sự nắm chắc quy luật của quá trình tiến từ nền sản xuất nhỏ lên sản xuất lớn xã hội CN, chưa có những hiểu biết đầy đủ về thực tế và còn thiếu, thậm chí rất thiếu kiến thức kinh tế,… Những sau lầm chủ quan đó cùng với hoàn cảnh khách quan của một nền sản xuất nhỏ quá độ lên CNXH, lại bỏ qua giai đoạn phát triển TBCN đã khiến Việt Nam rơi vào tình trạng khủng hoảng KT-XH.
Trong bối cảnh khủng hoảng KT-XH đó, niềm tin vào CNXH đã giảm sút ở không ít người, thậm chí có người còn quy kết sai lầm đó là ở việc lựa chọn con đường xã hội CN. Bác bỏ sự quy kết đó, Đảng Cộng sản Việt Nam đã khẳng định: Không phải sai lầm dẫn đến khủng hoảng KT-XH là ở việc lựa chọn con đường xã hội CN, mà là ở việc chúng ta đã thiết kế một mô hình phát triển kinh tế không phù hợp với thực tiễn đất nước và cách thức tiến hành không thích hợp. Thực tiễn khủng hoảng KT-XH đó đã đặt ra trước chúng ta nhiệm vụ nhận thức lại con đường phát triển, đổi mới nhận thức về CNXH, về mô hình phát triển kinh tế, về cách thức tiến hành. Nhiệm vụ bức thiết này đã được chúng ta giải quyết tại Đại hội VI của Đảng.
Tại Đại hội VI (tháng 12 năm 1986) – Đại hội đổi mới, con đường quá độ lên CNXH theo phương thức “phát triển rút ngắn” của CMVN đã được Đảng chính thức khẳng định với việc sử dụng cụm từ “bỏ qua giai đoạn phát triển TBCN”. Khi đó, với nhận định rằng, ngày nay, chúng ta đã có những điều kiện để hiểu biết đầy đủ hơn về con đường tiến lên CNXH ở Việt Nam, Đảng đã khẳng định: Từ CNTB lên CNXH phải trải qua thời kỳ quá độ là một tất yếu khách quan, và độ dài của thời kỳ đó phụ thuộc vào điều kiện chính trị,  kinh tế, xã hội của mỗi nước. Thời kỳ quá độ ở Việt Nam, do tiến thẳng lên CNXH từ  một nền sản xuất nhỏ, bỏ qua giai đoạn phát triển TBCN, đương nhiên phải lâu dài và rất khó khăn([10]) (chúng tôi nhấn mạnh – Đ.H.T). Đó là cả một thời kỳ cải biến cách mạng sâu sắc, toàn diện và triệt để nhằm xây dựng từ đầu một chế độ xã hội mới cả về lực lượng sản xuất lẫn quan hệ sản xuất và kiến trúc thượng tầng.
Quan điểm đó đã được Đảng ta cụ thể hóa hơn tại Đại hội VII (tháng 6 năm 1991). Và, trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH được thông qua tại Hội nghị đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ khóa VII, khi nhận định Việt Nam quá độ lên CNXH trong hoàn cảnh quốc tế đang có những biến đổi to lớn và sâu sắc, đặc biệt là với sự sụp đổ của Liên Xô và các nước xã hội CN Đông Âu đã khiến cho phong trào cách mạng xã hội CN trên phạm vi toàn thế giới lâm vào thoái trào tạm thời, CNXH đứng trước nhiều khó khăn, thử thách; lịch sử thế giới đang trải qua những bước quanh co, song loài người cuối cùng nhất định sẽ tiến tới CNXH vì đó là quy luật tiến hóa của lịch sử, Đảng đã tiếp tục khẳng định con đường CMVN là quá độ lên CNXH theo phương thức “phát triển rút ngắn”.
Với khẳng định đó, Đảng ta đã chỉ rõ, con đường quá độ lên CNXH theo phương thức “phát triển rút ngắn” đòi hỏi chúng ta “phải tiếp tục nâng cao ý chí tự lực tự cường, phát huy mọi tiềm năng vật chất và trí tuệ của dân tộc đồng thời mở rộng quan hệ hợp tác quốc tế, tìm tòi bước đi, hình thức và biện pháp thích hợp xây dựng thành công CNXH” nhằm mục tiêu tổng quát khi kết thúc thời kỳ quá độ là xây dựng xong về cơ bản những cơ sở kinh tế của CNXH, với kiến trúc thượng tầng về chính trị và tư tưởng, văn hóa phù hợp, làm cho Việt Nam trở thành một nước xã hội CN phồn vinh. Quá độ lên CNXH ở Việt Nam là “quá trình lâu dài, trải qua nhiều chặng đường. Mục tiêu của chặng đường đầu là: thông qua đổi mới toàn diện, xã hội đạt tới trạng thái ổn định vững chắc, tạo thế phát triển nhanh ở chặng sau”([11]).
Con đường quá độ lên CNXH theo phương thức “phát triển rút ngắn” được thể hiện trong Cương lĩnh đó đã được Đảng ta tiếp tục khẳng định tại các đại hội tiếp theo của Đảng. Gần đây nhất, tại Đại hội XI (tháng 1 năm 2011), khi đưa ra đánh giá tổng quát 25 năm đổi mới, 20 năm thực hiện Cương lĩnh xây dựng xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH, Đảng đã khẳng định: Với sự nỗ lực phấn đấu của toàn Đảng, toàn dân và toàn quân, “chúng ta đã giành được những thành tựu to lớn có ý nghĩa lịch sử. Đất nước thực hiện thành công bước đầu công cuộc đổi mới, ra khỏi tình trạng kém phát triển; đời sống nhân dân được cải thiện rõ rệt. Hệ thống chính trị và khối đại đoàn kết dân tộc được củng cố, tăng cường. Độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ và chế độ xã hội CN được giữ vững; vị thế và uy tín của Việt Nam trên trường quốc tế được nâng cao. Sức mạnh tổng hợp của đất nước đã tăng lên rất nhiều, tạo tiền đề để nước ta tiếp tục phát triển mạnh mẽ hơn theo con đường xã hội CN([12]).
Những thành tựu đó chứng tỏ đường lối đổi mới của Đảng là đúng đắn, sáng tạo, phù hợp với thực tiễn Việt Nam. Nhận thức về CNXH và con đường đi lên CNXH ngày càng sáng tỏ hơn; hệ thống quan điểm lý luận về công cuộc đổi mới, về xã hội xã hội CN và con đường đi lên CNXH ở Việt Nam đã hình thành trên những nét cơ bản. Những thành tự đó cho chúng ta càng thấy rõ giá trị định hướng và chỉ đạo của Cương lĩnh mà ở đó, con đường quá độ lên CNXH theo phương thức “phát triển rút ngắn” đã được Đảng xác định là đường lối chiến lược của CMVN.
Như vậy, chúng ta có thể khẳng định, con đường quá độ lên CNXH theo phương thức “phát triển rút ngắn” (“bỏ qua giai đoạn phát triển TBCN”) là đường lối cách mạng nhất quán của Đảng Cộng sản Việt Nam; là sự vận dụng đúng đắn và phát triển sáng tạo CN M-L về cách mạng xã hội CN; là bước phát triển quan trọng trong nhận thức và tư duy lý luận của Đảng thời kỳ đổi mới.
Chúng ta khẳng định đó là đường lối cách mạng nhất quán của Đảng Cộng sản Việt Nam, bởi như trên chúng tôi đã trình bày, quá độ lên CNXH bỏ qua giai đoạn phát triển TBCN ngay từ đầu đã được Đảng xác định là con đường phát triển của CMVN. Từ Chánh cương vắn tắt được thông qua tại Đại hội thành lập Đảng và trong suốt tiến trình phát triển của CMVN từ đó đến nay, chưa bao giờ Đảng ta xa rời đường lối cách mạng này.
3. Quá độ lên CNXH bỏ qua giai đoạn phát triển TBCN ở Việt Nam, về thực chất, là con đường “phát triển rút ngắn” với các biện pháp “quá độ gián tiếp”- bước phát triển quan trọng trong nhận thức và tư duy lý luận của Đảng Cộng sản Việt Nam thời kỳ đổi mới
 Trong quan điểm của Đảng ta, thực hiện con đường này là để tạo ra sự biến đổi về chất của xã hội Việt Nam trên tất cả các lĩnh vực. Song, khi nói quá độ lên CNXH bỏ qua giai đoạn phát triển TBCN là con đường “phát triển rút ngắn”, trước hết Đảng đã chỉ rõ cần phải hiểu “rút ngắn” là thế nào và có thể “rút ngắn” giai đoạn nào trong quá trình phát triển ấy.
Chúng ta đều biết, trong quan niệm của các nhà sáng lập CN M-L, tiến trình phát triển của lịch sử nhân loại được quy định bởi sự phát triển của lực lượng sản xuất. Tương ứng với mỗi giai đoạn phát triển nhất định của lực lượng sản xuất là một quan hệ sản xuất phù hợp. Sự ra đời quan hệ sản xuất mới trên cơ sở phát triển của lực lượng sản xuất là tất yếu, khách quan và toàn các quan hệ sản xuất này hợp thành cơ sở kinh tế của xã hội mà trên đó, dựng lên một thượng tầng kiến trúc pháp lý và chính trị với những hình thái ý thức xã hội tương ứng. Hay nói cách khác, ứng với mỗi giai đoạn phát triển nhất định trong lịch sử nhân loại là một hình thái KT-XH cụ thể. Sự thay thế lẫn nhau của các hình thái KT-XH trong tiến trình phát triển lịch sử nhân loại là một quá trình lịch sử - tự nhiên. Sự vận động đi lên của xã hội loài người được quy định bởi các quy luật khách quan, trong đó quy luật nền tảng là quy luật về sự phù hợp của quan hệ sản xuất với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất. Lực lượng sản xuất xã hội ngày một phát triển khiến cho quan hệ sản xuất từ chỗ phù hợp trở thành xiềng xích cản trở sự phát triển tiếp theo của lực lượng sản xuất và khi đó, bắt đầu thời đại của một cuộc cách mạng xã hội.
Trên phạm vi toàn thế giới, sự thay thế lẫn nhau của các hình thái KT-XH là một quá trình lịch sử - tự nhiên, song ở phạm vi một quốc gia dân tộc, do quy luật phát triển không đồng đều về kinh tế, chính trị, do cách mạng xã hội có thể có những bước phát triển đột biến, nhảy vọt, có thể diễn ra sự “bỏ qua” hay “rút ngắn” một hình thái KT-XH nào đó, kể cả việc “bỏ qua” hay “rút ngắn” một giai đoạn phát triển nào đó trong một hình thái KT-XH. Song, dù là “phát triển tuần tự” hay “phát triển rút ngắn” cũng đều là sự phát triển liên tục của lực lượng sản xuất, nghĩa là không thể “bỏ qua” được sự phát triển của lực lượng sản xuất. Mọi sự “phát triển rút ngắn” đều phải nhằm mục đích cuối cùng là tạo ra sự phát triển vượt bậc, thậm chí là nhảy vọt của lực lượng sản xuất. Và do vậy, về thực chất, “phát triển rút ngắn” chỉ có thể là “rút ngắn” các giai đoạn hay bước đi trong tiến trình phát triển liên tục của lực lượng sản xuất.
Trong thời đại của cuộc cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại, với sự phát triển mạnh mẽ, phát triển với tốc độ vũ bão của khoa học và công nghệ sản xuất, trình độ sản xuất, kỹ năng lao động, trình độ tổ chức và quản lý sản xuất của con người được tăng lên đáng kể và đến lượt mình, nó cho phép con người có thể “rút ngắn” các giai đoạn phát triển hay hình thức công nghệ của sự phát triển lực lượng sản xuất. Song, theo quy luật về sự phù hợp của quan hệ sản xuất với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất thì sự phát triển của lực lượng sản xuất tất dẫn đến sự thay đổi các quan hệ sản xuất. Và do vậy, một khi đã không thể bỏ qua được sự phát triển của lực lượng sản xuất trong tiến trình “phát triển rút ngắn”, thì về nguyên tắc, cũng không thể bỏ qua được các quan hệ sản xuất phù hợp với sự phát triển ấy của lực lượng sản xuất. Thế nhưng, trong tiến trình “phát triển rút ngắn”, nhờ có sự phát triển vượt bậc, nhờ tạo ra được sự phát triển nhảy vọt của lực lượng sản xuất mà người ta có thể làm biến đổi các quan hệ sản xuất, thậm chí còn có khả năng xuất hiện những hình thức quan hệ sản xuất mới, tiên tiến trong mối bước nhảy vọt ấy của lực lượng sản xuất.
Như vậy, có thể nói, trong tiến trình của sự "phát triển rút ngắn", sự phát triển nhảy vọt của lực lượng sản xuất là cái quy định sự ra đời của một hệ thống các quan hệ sản xuất mới, phù hợp với trình độ phát triển ấy của lực lượng sản xuất. Hệ thống các quan hệ sản xuất này, ngoài những quan hệ sản xuất của hình thái KT-XH đang hướng tới - những quan hệ sản xuất đóng vai trò nền tảng, quy định xu hướng vận động và phát triển của xã hội, còn có cả những quan hệ sản xuất thuộc hình thái KT-XH đã qua nhưng vẫn còn tác dụng phối hợp điều tiết các mối quan hệ của con người và qua đó, còn có khả năng thúc đẩy sự phát triển KT-XH. Tương ứng với một cơ sở kinh tế như vậy là một kiến trúc thượng tầng đảm bảo cho sự vận hành và phát triển của xã hội theo hướng hiện thực hoá hình thái KT-XH đang hướng tới.
Theo đó, quá độ lên CNXH bỏ qua giai đoạn phát triển TBCN theo phương thức "phát triển rút ngắn" nhằm mục tiêu cuối cùng là tạo ra sự phát triển nhảy vọt của lực lượng sản xuất trên cơ sở một hệ thống các quan hệ sản xuất mà trong đó, các quan hệ sản xuất xã hội CN dần chiếm vị trí chi phối trong nền kinh tế quốc dân, phải có nghĩa là bỏ qua việc xác lập vị trí thống trị của quan hệ sản xuất TBCN; mà bỏ qua việc xác lập vị trí thống trị của quan hệ sản xuất TBCN lại có nghĩa là ở đó, không còn tồn tại cơ sở kinh tế cho việc xác lập kiến trúc thượng tầng TBCN và do vậy, cũng là bỏ qua việc xác lập vị trí thống trị của kiến trúc thượng tầng TBCN. Tương tự như vậy, do không thể bỏ qua sự phát triển liên tục của lực lượng sản xuất, thì đương nhiên, cũng không thể bỏ qua được những thành tựu văn hoá, văn minh mà nhân loại đã đạt được dưới chế độ TBCN, nhất là những thành tựu khoa học và công nghệ.
Điều đó cho thấy, Đảng Cộng sản Việt Nam đã hoàn toàn đúng khi khẳng định con đường đi lên, con đường phát triển của CMVN là "sự phát triển quá độ lên CNXH, bỏ qua chế độ TBCN, tức là bỏ qua việc xác lập vị trí thống trị của quan hệ sản xuất và kiến trúc thượng tầng TBCN, nhưng tiếp thu, kế thừa những thành tựu mà nhân loại đã đạt được dưới chế độ TBCN, đặc biệt về khoa học và công nghệ, để phát triển nhanh lực lượng sản xuất, xây dựng nền tảng kinh tế hiện đại"([13]) (chúng tôi nhấn mạnh - Đ.H.T.).
Chúng ta đang trong thời kỳ quá độ lên CNXH với phương thức “phát triển rút ngắn” nhằm mục tiêu “phát triển nhanh lực lượng sản xuất, xây dựng nền kinh tế hiện đại”, trong bối cảnh toàn cầu hoá kinh tế đã trở thành xu thế khách quan, khoa học và công nghệ có bước tiến nhảy vọt, kinh tế tri thức có vai trò ngày càng nổi bật trong quá trình phát triển lực lượng sản xuất. Do vậy, để đạt được mục tiêu chiến lược “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh” với “mục tiêu tổng quát khi kết thúc thời kỳ quá độ” là “xây dựng được về cơ bản nền tảng kinh tế của CNXH với kiến trúc thượng tầng về chính trị, tư tưởng, văn hoá phù hợp, tạo cơ sở để trở thành một nước xã hội CN ngày càng phồn vinh, hạnh phúc”, mà “từ nay đến giữa thế kỷ XXI, toàn Đảng, toàn dân ta phải ra sức phấn đấu xây dựng  nước ta trở thành một nước công nghiệp hiện đại, theo định hướng xã hội CN”([14]), chúng ta không thể không đẩy nhanh tiến trình “công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước gắn với phát triển kinh tế tri thức”([15]).
 Theo đó, có thể nói, với Việt Nam hiện nay, quá độ lên CNXH theo phương thức "phát triển rút ngắn", về phương diện kinh tế, chính là quá trình thực hiện con đường “đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước gắn với phát triển kinh tế tri thức” theo cách "rút ngắn thời gian, vừa có những  bước tuần tự, vừa có bước nhảy vọt".
Nhận thức rõ con đường quá độ lên CNXH theo phương thức “phát triển rút ngắn” nhằm tạo ra sự biến đổi về chất của xã hội trên tất cả các lĩnh vực là sự nghiệp rất khó khăn, phức tạp, tại Đại hội XI, khi thông qua Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH (Bổ sung, phát triển năm 2011, Đảng ta đã xác định rõ: “Đây là một quá trình cách mạng sâu sắc, triệt để, đấu tranh phức tạp giữa cái cũ và cái mới nhằm tạo ra sự biến đổi về chất trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội, nhất thiết phải trải qua một thời kỳ quá độ lâu dài với nhiều bước phát triển, nhiều hình thức tổ chức kinh tế, xã hội đan xen”([16]).
Quá độ lên CNXH bỏ qua hay "không trải qua", "không kinh qua" giai đoạn phát triển CNTB đầy đủ - đó là quan điểm nhất quán của ĐCSVN về con đường phát triển của CMVN. Quan điểm đó được hình thành trên cơ sở vận dụng đúng đắn và phát triển sáng tạo quan điểm của CN Mác - Lênin về cách mạng XHCN và công cuộc xây dựng CNXH.
Quá độ lên CNXH bỏ qua giai đoạn phát triển TBCN ở Việt Nam là con đường "quá độ gián tiếp" theo phương thức “phát triển rút ngắn”, là bước phát triển tất yếu, khách quan, hợp quy luật theo tiến trình phát triển lịch sử - tự nhiên, là con đường phát triển phù hợp với nguyện vọng, khát vọng của đông đảo quần chúng nhân dân lao động VN, con đường phát triển nhằm mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.
Phương thức phát triển của con đường quá độ đó là "phát triển rút ngắn". Nội dung cơ bản của con đường quá độ đó là bỏ qua việc xác lập vị trí thống trị của quan hệ sản xuất và kiến trúc thượng tầng TBCN để phát triển nhanh lực lượng sản xuất, xây dựng nền kinh tế hiện đại và do vậy, là con đường quá độ không bỏ qua sự phát triển liên tục của lực lượng sản xuất và trong tiến trình phát triển của nó, có bao hàm cả sự tiếp thu, kế thừa những thành tựu văn hoá, văn minh mà nhân loại đã đạt được dưới chế độ TBCN, đặc biệt là những thành tựu khoa học và công nghệ.
Quá độ lên CNXH bỏ qua giai đoạn phát triển TBCN nhằm tạo ra sự phát triển nhảy vọt về lực lượng sản xuất và nhanh chóng xây dựng nền kinh tế hiện đại trong bối cảnh của thời đại ngày nay chính là con đường đẩy mạnh CNH,HĐH gắn với phát triển kinh tế tri thức theo cách rút ngắn thời gian, vừa có những bước tuần tự, vừa có bước nhảy vọt trong suốt tiến trình phát triển.
Quá độ lên CNXH bỏ qua giai đoạn phát triển TBCN nhằm tạo ra sự biến đổi về chất của xã hội trên tất cả các lĩnh vực không bao giờ là con đường bằng phẳng, dễ dàng và do vậy, việc phải trải qua một thời kỳ quá độ lâu dài với nhiều bước phát triển, nhiều chặng đường, nhiều hình thức tổ chức kinh tế, xã hội đan xen, có tính chất quá độ là một tất yếu khách quan.
Đó chính là bước phát triển quan trọng trong nhận thức và tư duy lý luận của ĐCSVN, khi vận dụng, phát triển sáng tạo quan điểm của CN M-L về con đường quá độ lên CNXH theo phương thức “phát triển rút ngắn” trong thời kỳ đổi toàn diện đất nước theo định hướng xã hội CN.




([1]) V.I.Lênin. Toàn tập, t.38. Nxb Tiến bộ, Mátxcơva, 1977, tr.464. 
([2]) Xem: V.I.Lênin. Sđd.,t.41, tr.295.
([3]) C.Mác và Ph.Ăngghen. Toàn tập, t.39. Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1999, tr.545.
([4]) C.Mác và Ph.Ăngghen. Sđd., t.22, tr.632.
([5]) Xem: V.I.Lênin. Sđd., t.41, tr.295.
([6]) Đảng Cộng sản Việt Nam. Văn kiện Đảng toàn tập, t.2. Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1998, tr.2.
([7]) Đảng Cộng sản Việt Nam. Sđd., t.12, tr.433.
([8]) Đảng Cộng sản Việt Nam. Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Trung ương Đảng tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IV. Nxb Sự thật, Hà Nội, 1977, tr.39.
([9]) Đảng Cộng sản Việt Nam. Sđd., tr.47.
([10]) Đảng Cộng sản Việt Nam. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI. Nxb Sự thật, Hà Nội, 1987, tr.41.
([11]) Đảng Cộng sản Việt Nam. Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH. Nxb Sự thật, Hà Nội, 1991, tr.4, 8, 11.
([12]) Đảng Cộng sản Việt Nam. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI. Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2011, tr.20 – 21.
([13]) Đảng Cộng sản Việt Nam. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX. Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2011, tr.84.
([14]) Đảng Cộng sản Việt Nam. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI. Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2011, tr.71.
([15]) Đảng Cộng sản Việt Nam. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI. Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2011, tr.72.
([16]) Đảng Cộng sản Việt Nam. Sđd., tr.70.