Thứ Hai, 27 tháng 4, 2015

Nhìn lại cuộc chiến tranh Việt Nam

Tròn bốn mươi năm sau khi cuộc kháng chiến chống Mỹ của Việt Nam kết thúc thắng lợi, những người Mỹ tiến bộ thấy điều gì? Nước Mỹ vẫn bị chia rẽ bởi thất bại cay đắng nhất trong lịch sử của họ ở một xứ sở Châu Á nhỏ bé xa xôi ra sao? Xin mời bạn đọc theo dõi bản dịch bài viết "Looking Back at the Vietnam War" của tác giả Andy Piascik.
Nhìn lại cuộc chiến tranh Việt Nam
Mùa xuân năm nay đánh dấu 40 năm ngày kết thúc chiến tranh Việt Nam. Ít nhất thì đó cũng là cái được gọi ở Hoa Kỳ, chiến tranh Việt Nam. Ở Việt Nam, họ gọi là chiến tranh chống Mỹ để phân biệt giai đoạn Hoa Kỳ tham chiến với những giai đoạn mà những kẻ xâm lược và thực dân khác tham chiến – đáng kể nhất là Trung Quốc, Pháp, và Nhật Bản.
Sự kiện này được đánh dấu bởi hàng loạt các bình luận, hồi tưởng và những gì được coi là lịch sử của truyền thông doanh nghiệp. Lầu Năm Góc đã gióng chuông với một câu chuyện kỳ khôi đăng trên website của họ gợi lại sự tuyên truyền mà họ thêu dệt trong thời kỳ chiến tranh: chủ nghĩa đế quốc Hoa Kỳ là tốt, Việt Nam là xấu. Trong ghi nhận tích cực hơn, các nhóm hòa bình và cựu chiến binh khắp đất nước đã tổ chức các sự kiện, những người khác cố gắng thúc đẩy các phân tích về sự khủng khiếp của cuộc xâm lược của Hoa Kỳ, bóng ma đã ám ảnh Việt Nam cho tới tận ngày nay.
Một quan điểm hỗn hợp hợp là cuộc chiến tranh vẫn lơ lửng phía trên đất nước của chúng ta như một đám mây. Nhiều thập kỷ trước đây, các bình luận viên của truyền thông chính thống thường xuyên đề cập tới hội chứng Việt Nam, điều mà cho đến chiến tranh vùng Vịnh năm 1991 vẫn còn khiến chủ nghĩa đế quốc Hoa Kỳ e ngại mở rộng. Các tinh hoa truyền thông đã đề cập tới sự miễn cưỡng của tầng lớp chính trị trong việc tham chiến với nỗi sợ hãi sẽ sa lầy tại “một Việt Nam khác”. Song hội chứng Việt Nam thật sự là vùng vịnh trong ý kiến của giới thượng lưu và công chúng về cuộc xâm lược của Hoa Kỳ, đó mới là điều mà họ không sẵn sàng công khai.
Nói một cách ngắn gọn, Hoa Kỳ đã cực kỳ khó khăn để giành được sự ủng hộ đáng kể của công chúng cho các cuộc chiến tranh của họ kể từ chiến tranh Việt Nam. Ví dụ, suốt thập kỷ 1980 Hoa Kỳ đã vô vọng tìm kiếm cách áp đặt ý chí của họ đối với Nicaragua, El Salvador và Guatemala, chỉ cần kể ba cái tên, tạo điều kiện thuận lợi cho các quân đội tay sai để giúp tầng lớp quý tộc địa chủ chống lại người dân của những quốc gia đó. Nếu không có sự phản đối của công chúng thì quân đội Hoa Kỳ đã tham chiến ở Trung Mỹ vào năm 1980. Do Hoa Kỳ không có khả năng đưa quân đội đến nên kiểu tắm máu mà Hoa Kỳ gây ra ở Lào, Việt Nam và Campuchia đã không xảy ra ở Trung Mỹ. Một trong những kết quả là phong trào nhân dân và các lực lượng cách mạng đã có khả năng tổ chức đấu tranh, tới mức mà người du kích cách mạng thời đó là tổng thống hiện nay ở El Salvado và lãnh đạo lâu dài của Sandinista, Daniel Ortega, lại một lần nữa là tổng thống của Nicaragua.
Đấy là chưa kể tới những con số kinh hoàng về chết chóc và sự tàn phá khôn lường đối với những quốc gia đó; Hoa Kỳ đã quyết định phá hủy các kinh nghiệm cách mạng ở Nicaragua, một nỗ lực hầu như đã thành công. Điềm xấu hơn nữa, sau khi địa ngục của khủng bố quân sự những năm 1980 qua đi, Guatemala vẫn tiếp tục nằm trong tay của tầng lớp thượng lưu giàu có gắn bó chặt chẽ với Hoa Kỳ và là một trong những xã hội phân tầng, áp bức nhất ở Bán cầu.
Nhưng thiệt hại gây ra ở Trung Mỹ không thể so sánh với những gì đã diễn ra ở Đông Dương và đó là do một phần không nhỏ những nỗ lực của hàng triệu người Mỹ hàng ngày. Không giống với Đông Dương, tình đoàn kết với người dân Trung Mỹ đã bắt đầu sớm và tha thiết. Ở Nicaragua, họ đã sớm bắt đầu sau khi Hoa Kỳ chống lại cuộc nổi dậy nhân dân để lật đổ chế độ độc tài khắc nghiệt Somoza vào năm 1979. Ở El Salvado, tình đoàn kết xuất hiện sau vụ ám sát tổng giám mục Oscar Romero của phe khủng bố bán quân sự vào năm 1980 và phát triển lớn hơn trong 10 năm tiếp theo. Sự đoàn kết bao gồm biểu tình, tọa kháng, hội thảo, viện trợ y tế, các dự án thành phố chị em, được các bác sĩ, thợ điện, và các lao động có tay nghề khác hưởng ứng, cũng như tạo ra các nơi ẩn náu, thường là ở nhà thờ, cho người dân tránh khỏi bạo lực của Hoa Kỳ.
Sự phản đối một cách rời rạc cuộc xâm lược ở Đông Dương tại Hoa Kỳ, trái lại, bùng lên vào năm 1963 và 1964 nhưng vẫn rất nhỏ bé và tách biệt. Những gì chúng ta biết là phong trào phản chiến không sâu sắc cho đến năm 1965, hơn một thập kỷ sau khi Hoa Kỳ dựng lên chế độ tay sai khát máu Ngô Đình Diệm ở miền nam của Việt Nam, và tròn bốn năm sau khi tổng thống Kenedy khởi đầu sự leo thang chính yếu.
Gần đây hơn, Hoa Kỳ đã xâm lược Irag và Afghanistan, như đã viết, đang dự tính gửi quân đội đến đâu đó ở Trung Đông. Cũng như ở Đông Dương, nỗ lực ở Iraq và Afghanistan đã thất bại thảm hại. Do sử dụng quy mô lớn lực lượng quân sự áp đảo nên Hoa Kỳ đã trở thành một kẻ hạ đẳng quốc tế - được sợ hãi nhưng cực kỳ bị cô lập. Một lần nữa, tổ chức trong nước đã đóng góp đáng kể vào sự cô lập đó. Không cần phải can đảm nhiều và quan trọng là thừa nhận cả hai bởi vì sử dụng sức mạnh lớn hơn gây ra đau khổ, cũng như những gì mà một cuộc chiến tranh đế quốc tác động tới công chúng. Mặc dù vậy, vẫn còn nhiều việc phải làm, đối với cả bản thân chúng ta cũng như đối với những người phải chịu đựng đau khổ của những trận ném bom dưới danh nghĩa chúng ta, chúng ta cần phải hiểu điều đó.
Đấu tranh với lịch sử chính thống và bị xuyên tạc về Việt Nam có thể giúp chúng ta trong những nỗ lực ấy và việc này đòi hỏi phải tóm lược những điều căn bản theo tinh thần đẫ nêu. Một trong những quan điểm xuyên tạc lịch sử được thêu dệt trong các bình luận mới đây là chiến tranh được bắt đầu vào tháng 2 năm 1965 khi Bắc Việt và quân đội Hoa Kỳ đụng độ lần đầu tiên, kết quả, họ khẳng định (dĩ nhiên) là cuộc tấn công vô cớ của Bắc Việt. Người ta không biết phải cười hay khóc về sự ngớ ngẩn của khẳng định ấy, hàng chục ngàn – có lẽ là hàng trăm ngàn – người Việt Nam đã chết trong tay Hoa Kỳ vào lúc đó thế mà cuộc chiến tranh vẫn chưa bắt đầu, nhưng đó là sự thiếu trung thực và theo đuôi quyền lực thường thấy trong văn hóa chính trị Hoa Kỳ. 
Thời điểm cuộc xâm lược của Hoa Kỳ ở Việt Nam bắt đầu phụ thuộc vào việc ai đó quyết định cuộc chiến tranh bắt đầu nhưng năm 1945 là thời điểm phù hợp để nắm bắt được những gì diễn ra trong 30 năm sau đó. Đó là mùa hè của cái năm mà lực lượng cách mạng Việt Nam tập hợp quanh Việt Minh đánh bại Nhật Bản, đội quân đế quốc đã xâm lược đất nước của họ bốn năm trước đó. Cũng như nhiều nước khác trên thế giới phải chịu đựng những tổn hại khủng khiếp dưới sự áp bức của chủ nghĩa phát xít và quân phiệt trong Thế Chiến thứ II, người Việt Nam nhận ra rằng chiến thắng của họ là bình mình của ngày mới, Trên tinh thần đó, Hồ Chí Minh, lãnh đạo Việt Minh, đã đọc bản tuyên ngôn được lấy cảm hứng rõ ràng từ Tuyên Ngôn Độc Lập của Hoa Kỳ (nhiều phần được trích dẫn nguyên văn) tại một cuộc mít-ting lớn ở Việt Nam, điều đó cũng trực tiếp truyền tải tới Washington và người dân khắp thế giới. 
Đó là lúc Hoa Kỳ quyết định từ chối lời đề nghị của Hồ và bắt tay với thực dân đã cai trị Việt Nam trong một thời gian dài, là người Pháp. Hầu hết chính quyền thuộc địa và quân đội Pháp đã bỏ chạy khi Nhật Bản xâm lược Việt Nam; những người Pháp còn ở lại thì cộng tác với người Nhật. Mặc dù vậy với sự khôn ngoan đặc biệt của họ, Pháp quyết định họ có quyền tái thuộc địa Việt Nam, điều mà họ đã làm, với sự ủng hộ then chốt về vũ khí, tiền và ngoại giao của Hoa Kỳ. Người Việt Nam, không có gì ngạc nhiên, không dễ chịu với việc bị xâm lược lần nữa và phản kháng như họ đã chống lại thực dân và xâm lược trong nhiều thế kỷ.
Pháp gây ra bạo lực khủng khiếp trong một cố gắng thất bại, việc tái xâm lược kéo dài chín năm, khiến Hoa Kỳ bực dọc ngày càng nhiều hơn về gánh nặng chiến tranh. Khi người Việt Nam giành chiến thắng chung cuộc bằng việc đánh bại Pháp ở Điện Biên Phủ vào năm 1954, một lần nữa họ lại có khả năng giành được độc lập. Mặc dù điều đó không diễn ra. Bị chia rẽ về Việt Nam, Hoa Kỳ, các đế quốc phương Tây khác và Soviet làm trung gian trong Hiệp Định Geneva, một cuộc bầu cử quốc gia thống nhất Việt Nam sẽ được tổ chức trong vòng hai năm. Sự phân chia quốc gia thành miền Bắc, nơi có lực lượng cách mạng chiến thắng hoàn toàn, và miền Nam, ngoại trừ Sài Gòn và khu vực lân cận, nằm trong sự kiểm soát của Việt Minh, bị người Việt Nam coi là một mánh khóe của đế quốc Hoa Kỳ để câu giờ và sự phản bội của Liên Bang Soviet.
Mặc dù không tin rằng Hoa Kỳ sẽ tôn trọng hiệp định nhưng người Việt Nam có ít sự lựa chọn để đi tiếp. Sự lo ngại của họ đã được chứng minh ngay lập tức, khi Hoa Kỳ cho thấy rõ rằng Hiệp Định Geneva chẳng là gì ngoài mảnh giấy lộn có thể xé bỏ thành hàng triệu mảnh nhỏ vô dụng. Kể từ khi Washington biết rằng Hồ sẽ thắng áp đảo trong cuộc bầu cử thì không có bất cứ cuộc bầu cử nào được tổ chức. Cũng như hàng tá trường hợp khác trong hơn 100 năm qua, Hoa Kỳ chống lại dân chủ để phục vụ cho việc xâm lược. Bầu cử là tốt đẹp chỉ khi người mà họ chọn được thắng cử; nếu người khác thắng cử thì kết quả sẽ là súng máy. 
Vào năm 1954, Hoa Kỳ đặt hy vọng vào Ngô Đình Diệm, một kẻ lưu vong sống trong trường dòng ở New Jersey của giám mục phản động Francis Cardinal Spellman, và dựng ông ta lên làm nhà độc tài của cái được gọi là Miền Nam Việt Nam. Suốt 9 năm Diệm nắm quyền, Hoa Kỳ đã chấp nhận cho ông ta tiến hành cuộc chiến tranh khủng bố chống lại người dân miền Nam. Kháng chiến tiếp tục và thậm chí còn phát triển, đó là lúc Hoa Kỳ chuyển sự chú ý khu vực của họ sang nước láng giềng Lào, nơi cũng có lực lượng kháng chiến mạnh chống lại chế độ độc tài do Hoa Kỳ hậu thuẫn. 
Mặc dù vậy, mọi thứ thay đổi dưới thời chính quyền Kenedy, khi Hoa Kỳ mở rộng cuộc xâm lược ở Việt Nam và kháng chiến phát triển nhanh chóng. Mặt Trận Dân Tộc Giải Phóng lãnh đạo kháng chiến, đó là nhóm kế nhiệm Việt Minh và được biết đến dưới cái tên Pháp là NLF, nhưng họ liên kết rộng rãi với các bộ phận trong xã hội Việt Nam, đáng chú ý là một số lớn các tu sĩ đạo Phật. 
Mặc dù Kenedy thường xuyên được mô tả là khao khát hòa bình ở Việt Nam, những người sáng tác chuyện thần thoại Camelot khẳng định rằng nếu ông ta không thực hiện thì sẽ không bị ám sát, sự thật cay đắng cho thấy điều trái ngược. Vào những lúc có thể đạt được hòa bình hoặc giảm leo thang thì Kenedy lựa chọn điều ngược lại: bằng việc ném bom dồn dập, bằng việc sử dụng rộng rãi bom na-pam và vũ khí hóa học, bằng việc tổ chức ấp chiến lược (một giai đoạn lớn, ấp chiến lược; một dạng giống như Auschwitz trốn khỏi quê nhà), và cuối cũng là bằng việc triển khai bộ binh.
Mặc dù là bạo chúa, Diệm tỏ ra là một bạo chúa có chút lương tri, vào năm 1963 khi đã mệt mỏi về cuộc chiến tranh chia rẽ đất nước, ông ta đã đơn phương đàm phán hòa bình với NLF và đàm phán thống nhất với miền Bắc. Đó là quyết định định mệnh, Washington nhanh chóng ra lệnh loại bỏ ông ta, Diệm bị ám sát chỉ ba tuần trước khi Kenedy bị giết. (Đó là kết quả của những sự kiện mà Malcom X vĩ đại đã mô tả là “gà về chuồng”, thúc giục sự đoạn tuyệt của ông với Quốc Gia Hồi Giáo).
Người kế nhiệm Kennedy, Lyndon Johnson, chỉ cần 9 tháng tại vị để ngụy tạo sự kiện Vịnh Bắc Bộ vào tháng 8 năm 1964, một bước ngoặt khác ở Việt Nam.
Cùng lúc đó, Johnson, được một số người (có lẽ là cả ông ta) đề cử giải Hòa Bình, đã cảnh báo quốc gia rằng Barry Goldwater, đối thủ của ông ta trong cuộc bầu cử tổng thống cùng năm, là một kẻ gây chiến cực kỳ nguy hiểm. Bối cảnh đó đã tạo ra khoảnh khắc đáng nhớ nhất của chiến dịch tranh cử, một quảng cáo truyền hình phát đi hình ảnh một bé gái đếm từng cánh hoa bị ngắt ra khỏi bông hoa liên tưởng tới việc đếm lùi của ngày tận thế. 
Khi mà ông ta chắc chắn được tái cử và với sự kiện Vịnh Bắc Bộ làm lá chắn, Johnson mở rộng xâm lược vào đầu năm 1965 ra khắp Việt Nam bằng chiến dịch ném bom hàng loạt ở miền Bắc (đồng thời sự phá hủy hàng loạt của Hoa Kỳ vẫn tiếp diễn ở miền Nam). Thêm vào đó, Johnson ra lệnh xâm lược Cộng Hòa Dominica vào cuối năm để lật đổ nhà cải cách ôn hòa Juan Bosch và cung cấp sự hỗ trợ đáng kể về vũ khí, tiền, ngoại giao cho cuộc đảo chính đẫm máu ở Indonesia nhằm đưa tên đồ tể Suharto lên cầm quyền. Ít nhất 500.000 người đã bị giết hại trong cuộc đảo chính và những rối loạn sau đó; Tổ Chức Ân Xá Quốc Tế, nói chung mù lòa trước những tội ác của Hoa Kỳ và tay sai đã đưa ra con số 1.5 triệu người. Ứng cử viên Hòa Bình, thật đó.
Chuyện đó kéo dài 3 năm ở Việt Nam, leo thang kiểu âm dương và kháng chiến dâng cao, cho đến Tổng Tấn Công Tết vào tháng giêng năm 1968. Trước Tết, Hoa Kỳ hầu như đã lẩn tránh với sự dối trá về tiến triển của cuộc chiến, mặc dù phong trào phản chiến đâm chồi. Sau Tết, chiến thắng được hứa hẹn rõ ràng là ảo tưởng và ngụy tạo. Cho đến lúc này, Tết vẫn là khúc xương khó gặm đối với những người ủng hộ cuồng nhiệt nhất của chiến tranh, những người khẳng định Hoa Kỳ có khả năng đánh bại những người nổi dậy, chỉ là bị truyền thông chống chiến tranh và chính khách Cộng Hòa phá hoại. 
Trên thực tế, Tổng Tấn Công Tết theo chiến lược của NLF không bao giờ lôi kéo Hoa Kỳ vào một cuộc chiến được hiểu theo cách truyền thống. Đó là chiến dịch đánh và rút với mục đích tạo ra thiệt hại lớn, đúng như vậy, ban đầu được thiết kế để thể hiện cho đối thủ và những người khác thấy lực lượng của họ là ghê ghớm và ý chí của con người là không thể khuất phục. Nói ngắn gọn, mục tiêu không phải là thắng trận đánh Tết; mục tiêu là cho những người hoài nghi thấy rằng Hoa Kỳ không thể thắng. Tôi nhớ lại nhiều năm trước đây có một người già Việt Nam, có thể đã chứng kiến cái chết và sự phá hủy như những người khác sống vào thời đó, nói một vài lời về thời gian Tết (tôi trích dẫn): Chúng ta có thể thanh toán ngay lập tức hoặc chúng ta có thể thanh toán trong một ngàn năm nữa. Điều đó phụ thuộc vào người Mỹ.
Một nhóm bị thuyết phục sau Tết rằng người Việt Nam đúng trong đánh giá của họ là cộng đồng kinh doanh Hoa Kỳ. Như mọi khi, quan điểm của họ, không giống quan điểm phổ biến, bị chính sách và các chính khách quốc gia tác động, là chắc chắn và hướng tới dài hạn. Điều mà họ thấy là phí tổn kinh tế khổng lồ, sự quan tâm tới Đông Dương tốt hơn là được đặt vào các đối thủ cạnh tranh toàn cầu trong việc mở rộng thị trường, quân đội ngày càng trở nên e ngại chiến đấu và nổi loạn mở rộng trong nước từ việc phong tỏa các trường đại học tới các điểm trọng yếu về sản xuất, đáng chú ý nhất là Phong Trào Công Đoàn Cách Mạng đang tràn vào ngành công nghiệp ô tô.
Động thái đầu tiên của tầng lớp thượng lưu kinh doanh là đẩy Johnson qua một bên để ủng hộ Eugene McCarthy và Robert Kennedy. Kennedy là một Chiến Binh Lạnh từ lâu hồi tưởng lại những ngày hợp tác với Joe McCarthy và Roy Cohn, người có kế hoạch về Việt Nam, rất giống với anh trai của ông ta, đã kỳ vọng chiến thắng trước và sau đó là hòa bình. Trong khi đó, McCarthy không có liên hệ với phong trào phản chiến trước hay sau sáu tháng nỗ lực mang tính cơ hội của ông ta để kiếm vị trí ứng cử viên Hòa Bình, cuộc bầu cử năm 1968 đóng vai trò như một ví dụ về sự cách biệt giữa người cai trị và bị cai trị: đa số dân chúng đòi hỏi ngưng chiến ngay lập tức phải lựa chọn giữa hai ứng cử viên đều muốn tiếp tục chiến tranh.
Việt Nam hóa chiến tranh của Richard Nixon – đẩy gánh nặng chiến tranh sang quân đội miền Nam Việt Nam – như hành động sai lầm cuối cùng của Washington. Sự giết chóc tiếp tục và chiến tranh được mở rộng sang Lào và Campuchia nhưng Hoa Kỳ vẫn không thể thắng. Trước khi kết thúc vào năm 1973, Hoa Kỳ lừa dối một lần nữa, Nixon vi phạm mọi điều khoản của Hiệp Định Hòa Bình Paris trước khi văn bản kịp ráo mực. Cho đến khi lực lượng cách mạng chiếm được Sài Gòn vào ngày 30 tháng 4 năm 1975, Hoa Kỳ đã can dự vào Việt Nam 30 năm.
Danh mục những cuốn sách phi thường về Việt Nam rất dài và mới chỉ được đề cập gần đây bởi học giả Christian Appy, một trong số các tác giả, đã thu thập nghiêm túc quan điểm của giai cấp lao động về chiến tranh và sự phản kháng trong nước đối với chiến tranh. Đó là cú đòn mới nhất đối với lịch sử chính thống, do tầng lớp thống trị vẫn cho rằng phong trào phản chiến chỉ là ngoại lệ được tạo thành bởi các sinh viên đại học da trắng đặc quyền. Trên thực tế, số lượng đông đảo công nhân và những người cùng khổ đã tham gia phản đối cuộc xâm lược của Hoa Kỳ từ đầu cho đến cuối và không phải bởi vì con cái của giai cấp lao động phải đi chiến đấu ở xa. Trái lại, đa số những người phản đối tự nguyện của giai cấp lao động và các cựu chiến binh mới trở về từ chiến trường nhưng cũng phản đối chiến tranh đã đóng vai trò quyết định tại mặt trận quê nhà.
Dường như mọi người Mỹ hiểu biết một chút về chiến tranh đều biết rằng có 55.000 lính Mỹ đã chết ở chiến trường Việt Nam. Mặc dù vậy, chỉ một số phần trăm rất nhỏ biết về con số chính xác những người Đông Dương đã bị giết hại khi họ được hỏi. Noam Chomsky đã viết về một khảo sát cho thấy người ta thường trả lời là có 200.000 người bị giết hại và liên tưởng điều đó với việc người ta tin rằng có 300.000 người Do Thái bị sát hại trong Holocaust, mặc dù trong cả hai trường hợp thì con số thực tế gấp 20 lần. Sự hiểu lầm tai hại ấy đã cho thấy sự hiệu quả của tầng lớp trí thức trong việc tuyên truyền một cách tự giác, bóp méo sự thật về chiến tranh – những người phải chịu đau khổ, những người phải chết, những người là nhầm người.
Thậm chí con số được chấp nhận phổ biến nhất là 4 triệu người Đông Dương đã chết, có vẻ thấp, cũng thực sự bi thảm, mặc dù sự thật dường như sẽ không bao giờ được biết. Những kẻ được trang bị tốt nhất để tạo ra sự quyết định đó chính là những kẻ phát động chiến tranh hoặc có lợi ích lớn trong việc che giấu sự thật. Như một vị tướng Hoa Kỳ phát biểu trong một thảm họa mới đây đã nhấn mạnh: “Chúng tôi không đếm xác.” Không, không bao giờ, khi người chết là nạn nhân của bạo lực Hoa Kỳ.
Những hậu quả mà người Việt Nam phải gánh chịu về chất độc màu da cam và rối loạn sau chấn thương cũng hoàn toàn bị lờ đi. Hãy lấy sự đau khổ khủng khiếp mà binh lính Hoa Kỳ phải chịu đựng và nhân chúng lên 10.000 lần hay hơn nữa, chúng ta sẽ thấy mức độ tàn phá đối với người Việt Nam. Thêm vào đó, Việt Nam và phần còn lại của Đông Dương (lịch sử chính thống nói chung đã bỏ qua các cuộc chiến tranh ở Lào và Campuchia) đầy những bom đạn chưa nổ, thường xuyên gây ra chết chóc và thương tật cho tận tới ngày nay. Việt Nam và Lào có thể thoát khỏi thảm họa thiếu đói nhưng Campuchia thì không, điều không có gì lạ lùng ở một đất nước nhỏ mà lãnh thổ của họ bị bom đưa về thời đồ đá. Sự phá hủy ở quy mô khủng khiếp kết hợp với lệnh cấm vận tàn bạo do Hoa Kỳ áp đặt sau chiến tranh thực sự đã khiến hàng trăm ngàn người chết đói. Đó là sự thật không mấy dễ chịu; việc lên án những tội lỗi của Khmer Đỏ ở Campuchia sau tháng 4 năm 1975 thì dễ dàng hơn nhiều.
Mặc dù vậy, cả Việt Nam lẫn Lào đều không phải gánh chịu các thảm họa sau chiến tranh như Campuchia, cuộc chiến tàn phá đến mức có thể nói rằng Hoa Kỳ đã thắng theo nghĩa chặn đứng con đường phát triển của những nước này (giống như Nicaragua vào những năm 1980). Hoa Kỳ cho rằng tất cả những xã hội đặt con người lên cao hơn lợi nhuận là mối đe dọa, nhất là khi họ ở phía Nam địa cầu. Đó là cách duy nhất để hiểu hơn 50 năm chiến tranh khủng bố chống lại Cuba, hiện nay là sự gây gổ với Venezuela hay việc tiếp diễn chiến tranh ở Đông Dương vào những năm 1970 ngay cả khi Hoa Kỳ biết rằng họ không thể thắng. Một phần lớn là do quy mô phá hoại, Việt Nam ngày nay đã hội nhập vào kinh tế toàn cầu với những di sản tiêu cực, đầy những xưởng mồ hôi, đầu tư phiêu lưu và sự chênh lệch về của cải và quyền lực.
Thảo luận về Việt Nam trong giới học thuật rất khó khăn; Hoa Kỳ hiện đang điên cuồng khắp toàn cầu và bóp méo lịch sử để tạo sự ủng hộ cho cuộc chiến tranh tiếp theo. Do sự bất đồng sâu sắc giữa những kẻ cai trị và những người bị cai trị về xâm lược của Hoa Kỳ, chúng ta đã thấy Hoa Kỳ lao vào cuộc xâm lược thứ hai ở Iraq năm 2003, phá hủy Lybia, ủng hộ tân phát xít hiếu chiến ở Ukraina, đe dọa Venezuela và tham gia vào cuộc chiến tranh tay sai được tạo ra để phá hủy Syria, tất cả những điều đó bất chấp sự phản đối của đa số công chúng trong mọi cuộc khảo sát. Đơn giản, điều đó có nghĩa là chúng ta phải làm tốt hơn nữa việc xây dựng phong trào phản chiến, chống đế quốc để hướng tới một ngày mà chúng ta có thể sống một cách hòa thuận nhất định với những người khác trên thế giới.
Andy Piascik is a long-time activist and award-winning author who writes for Z, Counterpunch and many other publications and websites. He can be reached at andypiascik@yahoo.com.
http://cunom.blogspot.com/2015/04/nhin-lai-cuoc-chien-tranh-viet-nam.html?utm_source=BP_recent
 

Ngày chiến thắng của quyền tự quyết dân tộc, quyền con người ở Việt Nam


Ngày Chiến thắng 30-4-1975 đã đi vào trang vàng lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc Việt Nam như một mốc son chói lọi nhất. Đây là ngày chiến thắng của quyền tự quyết dân tộc, quyền con người ở Việt Nam.
Ngày 02-9-1945, tại Quảng trường Ba Đình (Hà Nội), Chủ tịch Hồ Chí Minh đã thay mặt toàn thể nhân dân Việt Nam đọc bản Tuyên Ngôn độc lập, trong đó khẳng định: “Tất cả các dân tộc trên thế giới đều sinh ra bình đẳng, dân tộc nào cũng có quyền sống, quyền sung sướng, tự do”. Đây cũng là Tuyên ngôn về nhân quyền của dân tộc Việt Nam. Từ đó, để bảo vệ quyền độc lập, tự do của dân tộc, quyền con người, nhân dân Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản và Chủ tịch Hồ Chí minh tiến hành cuộc đấu tranh kéo dài 30 năm (1945-1975) đánh đuổi thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược.
Trên thế giới, ai cũng biết tự do của cộng đồng và tự do cá nhân có mối quan hệ nội tại, chế định lẫn nhau. Một dân tộc mà chưa giành được độc lập thì mỗi cá nhân trong dân tộc đó không thể có hạnh phúc, tự do. Nhưng nếu, giành được độc lập dân tộc mà mỗi người dân không được hưởng hạnh phúc, tự do, thì độc lập ấy cũng chẳng có ý nghĩa gì. Như vậy, quyền tự quyết của dân tộc, quyền con người luôn có mối quan hệ biện chứng, không tách rời nhau. Đây là điều không thể bác bỏ!
Năm 1858, thực dân Pháp xâm lược Việt Nam. Không cam chịu làm nô lệ, nhân dân Việt Nam đã liên tục đứng lên đấu tranh chống lại ách đô hộ tàn bạo của chúng, nhưng đều bị tất bại. Năm 1930, Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời. Gương cao ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, Đảng Cộng sản Việt Nam đã lãnh đạo toàn dân tộc đứng lên đánh Pháp, đuổi Nhật, giành chính quyền về tay nhân dân. Ngày 02-9-1945, nước Việt Nam dân chủ cộng hòa - nhà nước công nông đầu tiên ở Đông Nam Á - ra đời đã mở ra kỷ nguyên mới - kỷ nguyên dân tộc độc lập, mọi người dân Việt Nam được sống trong hạnh phúc, tự do quyết định cuộc sống của chính mình. Khát vọng về quyền tự quyết dân tộc, quyền con người ở Việt Nam bước đầu đã được thực hiện. Tuy nhiên, với âm mưu xâm lược, xóa bỏ thành tựu về quyền tự quyết dân tộc, quyền con người mà nhân dân Việt Nam mới giành được, thực dân Pháp đã quay lại xâm lược Việt Nam. Nhân dân Việt Nam quyết không chịu! Với tinh thần “không có gì quý hơn độc lập tự do” cả dân tộc Việt Nam, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng Việt Nam đã đứng lên quyết đánh và đánh bại âm mưu của thực dân Pháp.
Trải qua 9 năm kháng chiến trường kỳ (1945-1954), toàn dân, toàn quân ta đã làm nên một chiến thắng Điện Biên Phủ “chấn động địa cầu”, đập tan ý chí cuối cùng của thực dân Pháp, buộc chúng ký Hiệp định Pari về chấm dứt chiến tranh ở Việt Nam. Theo quy định của Hiệp định Pari, năm 1956, ở Việt Nam sẽ tổ chức tổng tuyển cử, thống nhất đất nước. Nhưng, với âm mưu thế chân thực dân Pháp đô hộ Việt Nam, đế quốc Mỹ đã vội vã dựng lên ở miền Nam Việt Nam chính quyền tay sai Ngô Đình Diệm, xóa bỏ Hiệp định Pari, nhằm chia cắt hai miền Nam - Bắc Việt Nam. Sau năm 1954, miền Bắc Việt Nam đã được giải phóng, nhưng nhân dân miền Nam vẫn sống dưới sự áp bức, đô hộ của đế quốc Mỹ và bè lũ tay sai. Quyền tự quyết dân tộc, quyền con người ở Việt Nam bị đế quốc Mỹ ngang nhiên xâm phạm. Nhân dân Việt Nam quyết không chịu, dân tộc Việt Nam là một, đất nước Việt Nam là một, sông có thể cạn, núi có thể mòn nhưng chân lý ấy không bao giờ thay đổi. Nhân dân Việt Nam quyết không để một thế lực hung hãn nào xâm phạm quyền tự quyết dân tộc, quyền con người ở Việt Nam. Trong 21 năm (1954-1975), cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, dân tộc Việt Nam đã đoàn kết đứng lên “quyết đánh, biết đánh và đánh thắng” mọi kiểu chiến lược chiến tranh của đế quốc Mỹ, tiến tới “đánh cho Mỹ cút, đánh cho ngụy nhào”, giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước. Ngày 30-4-1975, đất nước Việt Nam hoàn toàn thống nhất, rợp bóng cờ hoa chiến thắng. Từ đây, dân tộc Việt Nam đã giành được độc lập trọn vẹn, người dân Việt Nam đã giành được tự do thật sự. Quyền tự quyết dân tộc, quyền con người ở Việt Nam đã chiến thắng cuộc chiến tranh phi nghĩa, bạo tàn do đế quốc Mỹ gây ra. Việt Nam đã trở thành biểu tưởng của nhân loại tiến bộ trong cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc, giải phóng con người khỏi mọi áp bức, đau khổ.
40 năm qua, vượt qua mọi nỗi đau, mất mát, nhân dân Việt Nam, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam đã không ngừng phát huy sức mạnh đại đoàn kết dân tộc, đoàn kết quốc tế, đứng lên từng bước hàn gắn những vết thương chiến tranh, xây dựng Tổ quốc Việt Nam “ngày càng đàng hoàng hơn, to đẹp hơn”. Hiện nay, Việt Nam - sau 30 năm đổi mới - đã vượt qua đói, nghèo, trở thành nước có thu nhập trung bình; có quan hệ bình đẳng với các nước, vùng lãnh thổ và các tổ chức quốc tế trên thế giới. Đặc biệt, Việt Nam có quan hệ đối tác chiến lược với Nga, Trung Quốc, Pháp, Anh,… đối tác toàn diện với Mỹ (vốn là cựu thù của dân tộc Việt nam), v.v. Đó là các nước Thường trực Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc. Ngày nay, Việt Nam không chỉ là thành viên Liên hợp quốc, mà còn là thành viên tin cậy, trách nhiệm với các tổ chức chính trị lớn trên thế giới, như: Hội đồng Bảo an, Hội đồng nhân quyền, PAO, UNESCO,…Miền Nam Việt Nam Việt Nam, từ một vùng đất có hạ tầng có sở phục vụ cho chiến tranh xâm lược, phụ thuộc vào đồng đôla viện trợ của Mỹ, nay đã cất cánh trở thành vùng đất “chín rồng” bay cao, vươn xa - động lực phát triển cho nền kinh tế cả nước, mà Thành phố Hồ Chí Minh là đầu tàu. Nền kinh tế Việt đã trở nên năng động, sáng tạo, từng bước tiệm cận với nền kinh tế tri thức, là điểm đến của các dòng vốn đầu tư của các nền kinh tế, các tổ chức kinh tế quốc tế. Quyền con người về kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội của người dân Việt Nam ngày càng đảm bảo tốt hơn. Mọi người dân đều có quyền tự do phát huy sức lực, trí tuệ cá nhân để làm giàu cho cá nhân, gia đình và đất nước. Đây là một thực tế hiển nhiên đã và đang diễn ra hằng ngày ở đất nước Việt Nam đổi mới và phát triển được nhân dân Việt Nam và cả thế giới thừa nhận.
Ấy thế mà, có thế lực, cá nhân với nhiều lý do khác nhau, không chịu nhìn, không chịu nghĩ, không chịu thừa nhận thực tế khách quan đó. Những người dân Việt Nam đều biết đó là thế lực nào, cá nhân nào. Lịch sử đã chứng minh: Sự thất bại của đế quốc Mỹ ở Việt Nam là sự thất bại của thế lực chống cộng hiếu chiến - thế lực luôn tìm mọi cách áp đặt ách đô hộ, bóc lột lên quyền tự quyết dân tộc, quyền con người của nhân dân lao động, trong đó có dân tộc và người dân Việt Nam. Vì thế, chúng ra sức chống phá Việt Nam. Chúng dựng chuyện, xuyên tạc tình hình nhân quyền ở Việt Nam; nói xấu sự lãnh đạo, quản lý xã hội của Đảng Cộng sản và Nhà nước Việt Nam, v.v. Chúng dựng lên những cái gọi là “hội thảo”, “bàn tròn”,… để nêu lên cái gọi là “ngày quốc hận”(!) Đúng! Chúng hận vì không thể “một bàn tay che được mặt trời”. Chúng hận, vì chẳng thể đảo ngược được quy luật: chính nghĩa sẽ tháng phi nghĩ; đạo đức, văn minh chiến thắng mọi bạo tàn, áp đặt. Có lẽ chúng sẽ hận muôn đời, muôn kiếp. 
Nhân dân Việt Nam và nhân loại trên thế giới nhận rõ điều đó và kiên quyết đấu tranh, bác bỏ những luận điệu xằng bậy của chúng!
Lịch sử dân tộc Việt Nam mãi mãi ghi vào trang vàng dựng nước và giữ nước Ngày Chiến thắng 30-4-1975 như là mốc son chói lọi trong công cuộc đấu tranh vì quyền tự quyết dân tộc và quyền con người. Và lịch nhân loại trên con đường đấu tranh cho quyền tự quyết của các dân tộc, quyền tự do của mỗi con người cũng ghi nhận đó là bước tiến vĩ đại của nhân dân cần lao trên thế giới còn nhiều bất công và đau khổ này.
Minh Quân

“MẤT LÒNG TRƯỚC HƠN ĐƯỢC LÒNG SAU”

  Bố Hạ 
                                                                                               
Tục ngữ Việt Nam có câu: “ Mất lòng trước hơn được lòng sau”, với mong muốn không để đạo luật S-219 về cái gọi là “Hành trình đến tự do” do Thượng Nghị Sĩ Ngô Thanh Hải[1] ( “sỹ quan quân đội Việt Nam cộng hòa” gốc Việt bảo trợ) tác động xấu đến quan hệ giữa Việt Nam và Canada.
Mỗi một nhà nước tùy theo thể chế của mình có quyền đưa ra các đạo luật nhằm điều chỉnh những quan hệ nội bộ của mình. Thế nhưng ngày 22/4 vừa qua Quốc hội Canada đã thông qua này trên thực tế đã can thiệp vào công việc nội bộ của Việt Nam, cho dù nội dung của ĐL S-219 là để “ cho dân Canada biết rằng người Việt tị nạn bỏ xứ ra đi sau 30 tháng Tư 1975 khi cộng sản chiếm Miền Nam, đó là ngày chúng ta phải nhớ”. Thiết nghĩ ĐL này có nhiều sai trái về lịch sử và chính trị:
Trước hết, ĐL S-219  đã đi ngược lại lợi ích giữa nhân dân Việt Nam và nhân dân Canada.
Đối với nhân dân Canada, ĐL này đã đã làm tổn thương đến tư tưởng, tình cảm của các thế hệ người dân Canada đã từng ủng hộ nhân dân Việt Nam trong các cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, đế quốc Mỹ xâm lược. Ngày nay, ĐL này đã đi người lại quan hệ chính trị, kinh tế xã hội đang trên đà phát triểm tốt đẹp giữa Việt Nam và Canada. Về DL S-219, tờ Canadian Press cho biết, trong “Thư gửi Ủy ban Nhân quyền Thượng viện Canada, Hội đồng Thương mại Canada-Việt Nam cho rằng, đạo luật này sẽ ảnh hưởng nghiêm trọng tới hợp tác kinh tế, thương mại giữa hai quốc gia vì nó có thể làm chia rẽ cộng đồng người Canada gốc Việt.”
 Thượng nghị sĩ James Cowan đã phát biểu với báo chí Canada ( hôm 9/12/2015), ông nói: ông không thể hiểu được vì sao “ Chính phủ Canada có thể phê chuẩn một dự luật gây tranh cãi như vậy trong lúc chúng ta muốn tăng cường quan hệ kinh tế với châu Á, trong đó có Việt Nam….Chúng ta đang nỗ lực cải thiện quan hệ với Việt Nam. Chúng ta đã ký một biên bản ghi nhớ về tăng cường liên kết thương mại và văn hóa. Tại sao các vị lại muốn khơi lên sự chia rẽ này”. Tất nhiên quan hệ thương mại là lợi ích song phương, làm tổn hại đến đối tác cũng có nghĩa sẽ làm tổn hại đến chính mình.
Thức hai, đối với cộng đồng người Việt ở Canada và nhân dân Việt Nam:
Theo nhiều nguồn thông tin, chỉ có 5% người Việt ở đây đồng quan điểm với ĐL S-219, như vậy có nghĩa ĐL S-219 chỉ đáp ứng của một số nhỏ người Việt ở Canada, trước hết là người bảo trợ cho ĐL- ông Ngô Thanh Hải vốn là sỹ quan quân đội Việt Nam cộng hòa, vẫn bám giữ hận thù với cuộc kháng chiến bảo vệ Tổ quốc.
Trong dịp đón xuân Ất mùi vừa qua, hàng trăm Viết kiều ở Canada đã về nước. Nhiều người đã vui mừng khi chứng kiến đất nước ngày càng phát triển. Một số người đã bầy tỏ mong muốn được trở về quên hương làm ăn, sinh sống đóng góp vào công cuộc xây dựng đất nước. Có người cho rằng ĐL này đã tiếp tục khơi sâu hận thù, “ phớt lờ” lợi ích và tình cảm của lớp trẻ, chỉ vì lợi ích chính trị ích kỷ của ông Ngô Thanh Hải và một số nhỏ người Việt ở Canada.
Trong quan hệ với nhà nước CHXHCN Việt Nam, cho đến nay quan hệ ngoại giáo Việt Nam và Canada đã được thiết lập hơn 40. Năm 1973 Canada tuyên bố đã chính thức thiết lập quan hệ ngoại giao với Việt Nam.  Quan hệ hai nước đã liên tục được củng cố và phát triển, với kim ngạch hai chiều đạt 2,5 tỷ USD (năm 2013).  Việt Nam hiện nằm trong danh sách ưu tiên của chiến lược Hành động thị trường toàn cầu, chiến lược Giáo dục quốc tế và Chương trình phát triển quốc tế của Canada.
Về phần mình, Việt Nam luôn luôn coi trọng quan hệ hữu nghị và hợp tác với Canada, hoàn toàn ủng hộ chính sách chuyển hướng sang khu vực tại châu Á Thái Bình Dương của Canada và hoan nghênh sự đóng góp của Canada cho hòa bình, ổn định và phồn vinh trong khu vực. Như vậy DL S-219 đã đi ngược lại lợi ích của cả hai quốc gia.
Thứ ba, DL S-219 đã đi ngược lại xu hướng chung của thời đại ngày nay. Đó là tất cả các quốc gia đều có quyền dân tộc tự quyết ( về chính trị-về kinh tế và xã hội và văn hóa). Đồng thời các quốc gia, kể cả Liện hợp quốc cũng phải tôn trọng quyền này. ĐL S-219, đã thể hiện rõ sự kỳ thị với chế độ xã hội do nhân dân Việt Nam đã lựa chọn. Tư duy chính trị của ông Ngô Thanh Hải và những người ủng hộ ĐL vẫn còn bám giữ quan điểm đã lỗi thời sau chiến tranh lanh lạnh. Đó là sự kỳ thị với chế độ do Đảng cộng sản Việt Nam lãnh đạo. Họ dường như không chỉ biết đến thông tin qua các trang mạng chống cộng, không biết gì đến Việt Nam đã và đang thực hiện công cuộc đổi mới.
Về quan hệ quốc tế, cho đến nay Việt Nam thiết lập quan hệ hợp tác với hơn 180 quốc gia, trong đó có đầy đủ các thành viên thường trực Hội đồng bảo an Liên hợp quốc. Đường lối đối ngoại của Việt Nam là sẵn sàng phát triển quan hệ với của tất cả các quốc gia, không phận biệt chế độ chính trị, hệ tư tưởng…trên cơ sở tôn trọng độc lập dân tộc, chủ quyền quốc gia, toàn vẹn lãnh thổ của nhau và hai bên cùng có lợi. Tiếc rằng ông Ngô Thanh Hải và những người ủng hộ ĐL S-219 đang đi ngược lại xu hướng chung của nền văn minh nhân loại.


[1] -Tham khảo File: “Ngô Thanh Hải, chủ xướng của S-219 là ai?”

Góc nhìn về hòa hợp dân tộc


Ngày 30 tháng 4 năm 1975 giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước, 40 năm đã qua, hòa hợp dân tộc luôn được xác định như là một tâm nguyện trong những yếu tố cấu thành khối đại đoàn kết dân tộc, mang tới sức mạnh kỳ diệu giúp chúng ta đạt được những thành tựu không thể phủ nhận. Ngày nay, trong thời kỳ mở cửa và hội nhập quốc tế để xây dựng và bảo vệ tổ quốc, hòa hợp dân tộc lại càng được tiếp tục khẳng định để từ đó làm nên sức mạnh tổng hợp toàn dân tộc, nhằm phấn đấu hoàn thành các nhiệm vụ trọng đại của đất nước đặt ra trong thời kỳ mới.
Truyền thống nhân ái, đoàn kết tương trợ, khoan dung, độ lượng của dân tộc Việt Nam đã có từ lâu đời, truyền thống đó đã trở thành nếp nghĩ, hành động của lẽ sống ở mỗi người dân Việt Nam như khi khó khăn thì "lá lành đùm lá rách", lúc hoạn nạn thì "chị ngã em nâng" và những câu nói đã trở thành đạo lý trong thực tiễn cuộc sống: "Thương người như thể thương thân", "Đánh kẻ chạy đi - Không đánh người chạy lại", "Bầu ơi thương lấy bí cùng - Tuy rằng khác giống nhưng chung một giàn", "Người trong một nước phải thương nhau cùng", rồi "Gà cùng một mẹ chớ hoài đá nhau"... điều đó thể hiện rõ tính nhân văn Chân - Thiện - Mỹ của dân tộc ta.
Minh chứng ở trên chỉ là một góc nhỏ trong bản sắc văn hóa truyền thống của dân tộc Việt Nam. Ngay cả khi đã đánh bại các thế lực ngoại xâm, cha ông chúng ta vẫn có những việc làm mang đậm tinh thần nhân văn cao cả nhằm "Sửa hòa hiếu cho hai nước - Tắt muôn đời chiến tranh". Kế tục truyền thống đó, Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng Cộng sản Việt Nam đã phát huy nhằm tới một quan điểm chiến lược để xây dựng, củng cố khối đại đoàn kết toàn dân tộc, tạo nên sức mạnh tổng hợp trong sự nghiệp đấu tranh giành độc lập cho dân tộc. Đặc biệt trong thể hiện quan điểm đó, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ rõ "Tôi khuyên đồng bào đoàn kết chặt chẽ và rộng rãi. Năm ngón tay cũng có ngón ngắn ngón dài. Nhưng ngắn dài đều họp nhau lại nơi bàn tay. Trong mấy triệu người cũng có người thế này thế khác, nhưng thế này hay thế khác đều dòng dõi của tổ tiên ta. Vậy nên ta phải khoan hồng đại độ. Ta phải nhận rằng đã là con Lạc cháu Hồng thì ai cũng có ít hay nhiều lòng ái quốc. Đối với những đồng bào lạc lối lầm đường, ta phải lấy tình thân ái mà cảm hóa họ. Có như thế mới thành đại đoàn kết, có đại đoàn kết thì tương lai chắc sẽ vẻ vang"
Qua 40 năm, chúng ta thực hiện hòa hợp dân tộc vì đó là một yếu tố bảo đảm cho hiện tại và tương lai của đất nước, huy động và phát huy được mọi nguồn lực để xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, vì một nước Việt Nam "dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh" và góp phần kiến tạo, bảo vệ sự ổn định, hòa bình, thịnh vượng của khu vực và trên thế giới. Chúng ta luôn xác định quan điểm, triển khai các chủ trương, hành động thiện chí để mọi cá nhân, nhóm xã hội vốn từng hiểu lầm hoặc khác biệt chính kiến vẫn có thể cùng hướng tới mục tiêu chung có lợi cho đất nước. Do đó, bất kỳ cá nhân, nhóm xã hội nào nếu thật sự có niềm tin vào mục tiêu chung thì khi hòa hợp sẽ không đưa ra điều kiện ràng buộc, không đòi hỏi bên kia phải thay đổi theo ý muốn của mình.
Đối với người Việt Nam ở nước ngoài, Nhà nước Việt Nam chủ động triển khai nhiều chính sách phù hợp, tiến hành các bước đi thiết thực, chân thành tạo điều kiện để mọi người Việt Nam ở nước ngoài có thể hòa hợp cùng dân tộc. Mặc dù ra đi vì các lý do khác nhau nhưng người Việt Nam ở nước ngoài vẫn được tạo điều kiện trở về quê cha đất tổ, thăm nom, giúp đỡ người thân, đóng góp với đồng bào trong nước xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Hằng năm, có hàng triệu lượt người Việt Nam ở nước ngoài về thăm quê hương đây là biểu sinh động cụ thể cho tinh thần hòa hợp mà dân tộc ta đang hướng tới. Nhưng trong thực tế hiện nay vẫn còn một bộ phận người gốc Việt còn nuôi mối hận thù với Đảng, Nhà nước Việt Nam. Họ thường xuyên xuyên tạc tinh thần hòa hợp dân tộc, cản trở người lương thiện trở về quê hương, nhẫn tâm chống phá, xâm hại đất nước đã sinh ra và phần nào nuôi dưỡng họ. Tức là họ tiếp tục nối dài các lỗi lầm. Với những con người đó, tổ quốc không ruồng bỏ họ, mà chính họ tự loại mình khỏi dân tộc, tự đứng vào thế đối lập với dân tộc. Đó là điều không thể chấp nhận, vì chúng ta chỉ có thể hòa hợp với người thiện chí, chứ không thể hòa hợp với người lấy đối đầu và mặc cả làm điều kiện hòa hợp. Trong số họ cũng có những người do thiếu thông tin, chưa được chứng kiến những đổi thay của đất nước, họ bị lầm tưởng, mơ hồ và thường xuyên bị các luồng thông tin bóp méo, bịa đặt, nhào nặn làm mất lý trí, chúng ta thật sự thông cảm và chia sẻ, chỉ mong họ trở về để chứng kiến những hiện thực đang diễn ra trên quê hương, để họ có cái nhìn khách quan, đó là minh chứng cụ thể nhất.
Suy cho cùng, những đau thương mất mát của dân tộc, nguyên nhân chính là do các thế lực thực dân, đế quốc gây ra, chứ nào dân tộc ta muốn thế. Khoan dung, độ lượng, tối lửa tắt đèn có nhau… đó mới là bản chất của dân tộc ta. Đoàn kết, hòa hợp dân tộc là điều kiện cần thiết cho sự ổn định và phát triển của mọi quốc gia. Đó cũng là truyền thống, đạo lý của dân tộc Việt Nam, được nhân dân ta xây đắp, gìn giữ từ ngàn đời và hiện nay đang được tiếp tục phát huy trong công cuộc đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Đó là xu thế không thể làm thay đổi, đảo ngược. Hòa bình và đoàn kết để xây dựng và bảo vệ Tổ quốc đang là khát vọng của mọi người dân Việt Nam, mong muốn dân tộc cường thịnh, nhân dân hạnh phúc, chủ quyền lãnh thổ của Tổ quốc được giữ vững.

Trung Dũng