Thứ Hai, 25 tháng 6, 2018

MỌI XUYÊN TẠC VỀ ĐẠI THẮNG MÙA XUÂN 30-4-1975 ĐỀU LỐ BỊCH






Đại thắng mùa Xuân 30-4-1975 đã qua đi 43 năm. Nhưng ý nghĩa, giá trị to lớn của nó vẫn tồn tại mãi với thời gian, nhất là đối với các dân tộc đã và đang nỗ lực đấu tranh vì sự tiến bộ, văn minh, hạnh phúc. Thắng lợi của nhân dân Việt Nam trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, đỉnh cao là Đại thắng mùa Xuân 1975 “... mãi mãi được ghi vào lịch sử dân tộc ta như một trong những trang chói lọi nhất, một biểu tượng sáng ngời về sự toàn thắng của chủ nghĩa anh hùng cách mạng và trí tuệ con người, và đi vào lịch sử thế giới như một chiến công vĩ đại của thế kỷ XX, một sự kiện có tầm quan trọng quốc tế to lớn và có tính thời đại sâu sắc”[1]. Nhân dân thế giới hết lời ca ngợi chiến thắng của nhân dân Việt Nam, coi đó là thắng lợi vĩ đại của “chính nghĩa, lòng nhân đạo và chủ nghĩa anh hùng; là chiến thắng tạo nên dư chấn rung động địa cầu”, “gây tiếng vang lớn trên trường quốc tế về một dân tộc không chịu khuất phục trước quân thù”; chứng minh thời mà các nước lớn dùng sức mạnh để bóp nghẹt chủ nghĩa dân tộc đã chấm dứt”; thắng lợi đó chứng tỏ không một sức mạnh nào có thể khuất phục được một dân tộc anh hùng; đó là thắng lợi mãi mãi ghi vào sử sách”, v.v. Nhưng nực cười thay, bên cạnh sự đánh giá khách quan, trung thực đó, vẫn còn những tiếng nói lạc lõng cố tình phủ định sự thật lịch sử với động cơ, mục đích đen tối, định kiến, thù địch. Không những tìm cách cào bằng vai trò của các bên tham chiến, họ còn trắng trợn ngụy biện, đổi trắng thay đen giữa kẻ đi xâm lược đã từng gây vô vàn tội ác cho dân tộc Việt Nam với những người đã không tiếc máu xương hy sinh vì hòa bình, độc lập, tự do và thống nhất đất nước.
Chiến tranh đã lùi xa, sự phân định giữa chính nghĩa và phi nghĩa, giữa chiến thắng và thất bại đã rõ ràng. Với tinh thần khép lại quá khứ, hướng tới tương lai, Việt Nam đã trở thành đối tác chiến lược, đối tác toàn diện của nhiều quốc gia; trong đó, có các quốc gia từng trực tiếp hoặc tham gia chiến tranh xâm lược ngày đó, nay cùng hợp tác, phát triển. Thế nhưng, ở nơi này hay nơi khác, một số người cứ mỗi khi đến dịp 30-4, lại tìm cách khuấy đảo lên sự thù hận với các lý lẽ, luận điệu hoàn toàn phi lý. Họ cố tình ngụy biện, sống sượng xung quanh vấn đề tính chất cuộc chiến tranh. Họ cho rằng: sự can thiệp trắng trợn, vô nhân đạo của đế quốc Mỹ vào chủ quyền của Việt Nam được coi là một hành động để bảo vệ nền dân chủ. Những người theo chân Mỹ chia cắt đất nước, tàn sát đồng bào mình được coi là một “sự lựa chọn chính trị khác”, vì một “lý tưởng khác”. Họ còn đặt điều lấp liếm hành động xâm lược, rằng: miền Bắc xâm lược miền Nam hay cuộc chiến tranh ở Việt Nam từ 1954 đến 1975 chỉ là nội chiến. Có người vì “thương xót” cho hàng triệu sinh linh đã ngã xuống trong chiến tranh thì cho rằng: làm gì phải phát động chiến tranh, chỉ cần đợi đến lúc nào đó “người ta” (đế quốc Mỹ) rồi cũng trả lại chủ quyền đất nước, v.v. Thật lố bịch! Sự ngụy biện tùy tiện, đổi trắng thay đen còn diễn ra ở một số người tự xưng là “có tâm với nước, với dân”, tuy nhiên chân lý chỉ có một. Lịch sử và sự kiểm nghiệm lịch sử là thước đo chân lý chuẩn xác nhất, bác bỏ mọi xuyên tạc.
Ngược dòng lịch sử sẽ thấy, một sự thật hiển nhiên là cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam do Mỹ khởi xướng, với sự tiếp tay, phản bội dân tộc của ngụy quyền Sài Gòn đã thất bại thảm hại vào tháng 4-1975 là một tất yếu không tránh khỏi. Nguyên nhân cơ bản, sâu xa nhất dẫn tới thất bại, trước hết, đó là một cuộc chiến tranh phi nghĩa, vô cùng tàn bạo. Như đã biết, thực hiện Hiệp định Giơ-ne-vơ về lập lại hòa bình ở Việt Nam và Đông dương, trong khi Chính phủ Việt Nam dân chủ cộng hòa cố gắng theo đuổi các giải pháp hòa bình, thì ngay từ đầu, Mỹ và chế độ Ngô Đình Diệm, sau đó là chế độ Nguyễn Văn Thiệu, đã rắp tâm tìm mọi cách chia cắt, phá hoại công cuộc hòa bình, thống nhất đất nước. Các yêu cầu đàm phán, tiến tới Tổng tuyển cử, thống nhất hai miền Nam - Bắc, liên tiếp được Chính phủ Việt Nam dân chủ cộng hòa đưa ra và đều bị từ chối vào tháng 6, tháng 7-1957, tháng 3, tháng 12-1959 và  tháng 7-1960. Thay vào đó là các chiến dịch lê máy chém khắp miền Nam, đàn áp khốc liệt những đảng viên Cộng sản, những ai mong muốn thống nhất đất nước. Tiếp đó là các chiến lược: “Chiến tranh đặc biệt” (1961 – 1965), “Chiến tranh cục bộ” (1965 – 1966) và “Việt Nam hóa chiến tranh (1969 – 1973) tàn phá miền Nam, tiêu diệt phong trào đấu tranh của quần chúng nhân dân. Mỹ còn dựng lên sự kiện “Vịnh Bắc Bộ” để leo thang đánh phá xâm lược miền Bắc, nhằm “đưa Việt Nam trở về thời kỳ đồ đá”, v.v.
Đã từng phải chịu đựng những thử thách, hy sinh bởi chiến tranh, chia rẽ vùng miền và sự thống trị của ngoại bang, nên hơn ai hết, người dân Việt Nam thấu hiểu giá trị của hòa bình, độc lập và thống nhất đất nước. Nhân dân và chính phủ Việt Nam đã tranh thủ mọi thời cơ để gìn giữ, bảo vệ những giá trị đó, nhưng Mỹ và ngụy quyền Sài Gòn đã chà đạp, phá hoại những nguyện vọng thiêng liêng chính đáng của mình, buộc chúng ta không còn lựa chọn nào khác phải tiếp tục chiến đấu để giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước. Ý chí “Không có gì quý hơn độc lập tự do”, khát vọng hòa bình và thống nhất Tổ quốc của nhân dân Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam là động lực quan trọng và quyết định đem đến chiến thắng Đại thắng mùa Xuân 1975, giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, ý chí và khát vọng đó được kết tinh, biến thành sức mạnh vật chất và tinh thần to lớn của cả dân tộc, tạo sức mạnh giành thắng lợi trong cuộc kháng chiến, làm nên Đại thắng mùa Xuân 1975.
Lý giải nguyên nhân thất bại của Mỹ ở Việt Nam có nhiều, song, lý giải được đề cập nhiều nhất là do tính chất phi nghĩa của cuộc chiến tranh mà họ tiến hành. Giáo sư Trần Trung Ngọc, một Việt kiều sinh sống tại Mỹ trong bài “Nhìn lại hai cuộc chiến ở Việt Nam” đã cho rằng: “Mỹ không có bất cứ lý do chính đáng nào để can thiệp vào Việt Nam, một nước nhỏ, nghèo, chưa phát triển và không có bất cứ khả năng nào có thể gây hại cho nước Mỹ. Do đó, việc Mỹ can thiệp vào Việt Nam là bất chấp dư luận, bất chấp cả công pháp quốc tế, nghĩa là: “dùng cường quyền thắng công lý” của một cường quốc tự cho mình có quyền can thiệp vào bất cứ đâu mà Mỹ muốn”. Ngay cả Mắc Na-ma-ra, nguyên Bộ trưởng Bộ Quốc phòng Mỹ cũng đã cay đắng thừa nhận: “Chúng ta đánh giá thấp sức mạnh tinh thần dân tộc của họ (Việt Nam)”; đồng thời, bày tỏ sự thất vọng về “sự dốt nát sâu sắc” của Mỹ về lịch sử, văn hoá và chính trị của nhân dân Việt Nam. Theo Frances Fitzgerald: “Chiến thắng của họ là chiến thắng của dân tộc Việt Nam - người Bắc cũng như người Nam. Khác xa với một cuộc nội chiến, cuộc đấu tranh của Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam, là sự khẳng định nguyên tắc thống nhất dân tộc mà chính quyền Sài Gòn đã tuyên bố ủng hộ rồi phản bội”.
Cuộc chiến tranh do Mỹ và tay sai tiến hành ở Việt Nam được cho là phi nghĩa, trái đạo lý, bị lên án còn bởi nó đã thể hiện rõ tính chất tàn bạo, vô nhân tính. Đó là một trong các cuộc chiến tranh tổn hại nhất trong lịch sử nước Mỹ, với tổng chi phí lên tới 686 tỉ đô la (tính theo thời giá năm 2008). Đó là khoản tiền lớn nhất mà Mỹ đã chi cho chiến tranh, chỉ sau đại chiến Thế giới thứ 2. Theo ông Nguyễn Tiến Hưng - Tổng trưởng kế hoạch của Việt Nam Cộng hòa (giai đoạn 1973 - 1975): làn sóng viện trợ Mỹ trút vào miền Nam Việt Nam thời điểm dâng cao nhất kéo dài từ năm 1966 đến năm 1970 lên tới 25 tỉ đô la mỗi năm. Các chính sách của chế độ Sài Gòn đưa ra thường hay được tính toán dựa theo dự phỏng xem số tiền đô la được Mỹ sẽ bơm vào nền kinh tế là bao nhiêu, sự lệ thuộc của chế độ Sài Gòn vào Mỹ ở mức độ nào. Cùng với Quân đội Mỹ và ngụy quyền Sài Gòn, có thời điểm còn có sự tham gia của quân đội 5 nước đồng minh trực tiếp và 29 nước khác gián tiếp với khoảng 6 triệu lượt binh sĩ tham chiến. Trong khoảng thời gian đó, Việt Nam đã trở thành bãi chiến trường để Mỹ phô diễn, thử nghiệm hầu hết các loại phương tiện, vũ khí chiến tranh; trong đó, có nhiều loại hiện đại, tối tân lần đầu tiên được sử dụng. Máy bay Mỹ đã ném xuống Việt Nam khoảng 7,85 triệu tấn bom, gấp 3 lần số bom sử dụng trong chiến tranh Thế giới 2; rải xuống khắp miền Nam Việt Nam khoảng 75 triệu lít chất độc hóa học đi-ô-xin, v.v. Cuộc chiến tranh đã cướp đi nhiều triệu sinh mạng, nhưng số người thương vong, tàn tật, chịu di chứng trên nhiều mặt ở các bên tham chiến còn nhiều hơn gấp bội. Mỹ còn áp dụng cả những biện pháp tàn bạo mà các chuẩn mực chiến tranh thông thường không cho phép, như: sử dụng chất độc da cam/đi-ô-xin, dùng máy bay B52 ném bom dải thảm hủy diệt các khu dân cư tập trung, v.v. Bên cạnh sinh mạng con người, hậu quả nghiêm trọng về chính trị, kinh tế, môi trường, phải mất nhiều thời gian, công sức mới khôi phục được. Điều đáng nói nhất là những di chứng về mặt xã hội đã gây ra sự chia rẽ sâu sắc, lâu dài trong lòng dân tộc Việt Nam và ngay cả trong lòng nước Mỹ. Sự hận thù, lòng tự ti, mặc cảm là những cản trở lớn cho sự hòa hợp dân tộc sau chiến tranh và cả những giọt nước mắt muộn màng về những tội ác của mình gây ra đối với đồng bào, dân tộc mình. Tất cả những điều đó là hậu quả của cuộc chiến tranh phi nghĩa mà Mỹ gây ra.
Đại thắng mùa Xuân 30-4-1975 cho thấy một chân lý: không phải bao giờ sức mạnh của cường quyền bạo lực và đồng tiền cũng đè bẹp được chính nghĩa. Đấu tranh cho hòa bình, độc lập, thống nhất đất nước, Việt Nam là đại diện chân chính cho chính nghĩa, cho nên trong suốt cuộc chiến tranh chống Mỹ, cứu nước, nhân dân ta đã nhận được sự đồng tình ủng hộ to lớn cả về vật chất và tinh thần của bạn bè quốc tế và lực lượng tiến bộ, yêu chuộng hòa bình trên toàn thế giới. Tính chất phi nghĩa, tàn bạo của Mỹ và ngụy quyền Sài Gòn bộc lộ rõ trong chiến tranh, đã ngày càng bị thế giới, trong đó có cả nhân dân tiến bộ Mỹ lên án, phản đối. Trong thời gian xảy ra chiến tranh, ở Mỹ đã có hơn 200 tổ chức chống chiến tranh, có 16 triệu trong tổng số 27 triệu thanh niên Mỹ đến tuổi quân dịch đã chống lệnh quân dịch, 75.000 người Mỹ bỏ ra nước ngoài vì, chống chiến tranh ở Việt Nam, không chịu nhập ngũ. Bản chất phụ thuộc theo đuôi Mỹ của chế độ Sài Gòn và mối quan hệ giữa họ cũng ngày càng được phơi bày. Nguyễn Văn Thiệu - người đứng đầu chế độ Sài Gòn - khi còn đương nhiệm đã công khai “lý tưởng” của chính quyền ông ta: “Mỹ còn viện trợ thì chúng ta còn chống Cộng”, “nếu Hoa Kỳ không viện trợ cho chúng tôi nữa thì không phải là một ngày, một tháng hay một năm mà chỉ sau 3 giờ chúng tôi sẽ rời khỏi Dinh Độc lập”. Trước đó, để ép chính quyền Thiệu phải ký hiệp định Pa-ri (tháng 01-1973), R. Ních-xơn, Tổng thống Mỹ cũng từng trao đổi với thuộc cấp của mình rằng: “Tôi không biết sự đe dọa của chúng ta có đi quá xa không, nhưng tôi sẽ làm bất cứ điều gì, kể cả những điều không hay ho gì như cắt cái đầu của Thiệu”. Trong diễn văn từ chức vào thời điểm không thể cứu vãn nổi sự sụp đổ (ngày 21-4-1975), Nguyễn Văn Thiệu đã không tiếc lời chỉ trích Mỹ: “là một đồng minh thất hứa, thiếu công bằng, thiếu tín nghĩa, vô nhân đạo, trốn tránh trách nhiệm,...”. Những điều đó, thật khác xa với những gì mà trước đó họ thường rêu rao, tâng bốc nhau, mà không ít người lầm tưởng như họ là “đồng minh”, là đại diện của “chính nghĩa, quốc gia, dân tộc”.
Sự thật và chân lý đã được lịch sử kiểm nghiệm, ánh sáng soi rọi. Những sự ngụy biện, xuyên tạc thực tế, nhằm phục vụ cho một mưu đồ nào đó, không những chỉ là ảo tưởng, mà còn là tội lỗi với lịch sử, với các thế hệ ông cha đã không tiếc máu xương hy sinh cho sự yên bình và hạnh phúc của đất nước này. Bất cứ dân tộc nào có tự trọng trên thế giới, đều có quyền tự hào về truyền thống lịch sử đánh giặc ngoại xâm, gìn giữ, bảo vệ Tổ quốc của mình. Đại thắng mùa Xuân 30-4-1975 đã kết thúc sự chia rẽ Bắc - Nam, chấm dứt vĩnh viễn ách thống trị kéo dài trên 100 năm của thực dân, đế quốc trên đất nước ta, nước nhà độc lập, non sông thu về một mối, đã trở thành một trang vàng chói lọi trong lịch sử hào hùng của dân tộc. Đó là thắng lợi của chính nghĩa trước bạo lực, cường quyền; là biểu tượng sáng ngời về ý chí bất khuất, khát vọng hòa bình, tự do của dân tộc Việt Nam và nhân loại tiến bộ. Đó là lịch sử, mà lịch sử chỉ hiện hữu sự thật, không thể xuyên tạc. Mọi thủ đoạn ngụy biện hòng xuyên tạc đều là lố bịch!
 PhNg


[1]- ĐCSVN -  Văn kiện Đảng toàn tập, Tập 37, Nxb CTQG, H. 2004, tr. 471.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét