Thứ Tư, 19 tháng 12, 2018

Bác bỏ luận điệu “thể chế chính trị là căn nguyên gây ra sự tụt hậu của nền giáo dục Việt Nam”



                                                                               
Thời gian gần đây, thông qua internet và mạng xã hội, các thế lực thù địch đã đăng tải nhiều tin, bài viết xuyên tạc nền giáo dục ở nước ta; trong đó, chúng cho rằng: “thể chế chính trị là căn nguyên gây ra sự tụt hậu của nền giáo dục Việt Nam”. Đó vẫn chỉ là luận điệu xuyên tạc trắng trợn cũ rích về nền giáo dục ở Việt Nam, nhằm mục đích “bôi lem” chế độ xã hội ta, hòng hạ thấp uy tín của Việt Nam trên trường quốc tế.
Quyền được giáo dục là một trong những quyền quan trọng nhất của con người. Trong suốt quá trình lãnh đạo, Đảng, Nhà nước Việt Nam luôn khẳng định chính sách nhất quán tôn trọng, ghi nhận và đảm bảo quyền được giáo dục được thực hiện trong thực tế; coi đó là động lực quan trọng thúc đẩy công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Thực tiễn đảm bảo quyền được giáo dục ở nước ta thời gian qua là minh chứng sinh động phản bác các luận điệu xuyên tạc về vấn đề này đối với nước ta.
Cũng như các quyền và tự do cơ bản khác của con người, trên bình diện quốc tế, quyền được học tập được quy định cụ thể trong luật pháp quốc tế. Điều 26, Tuyên ngôn Nhân quyền của Liên Hợp quốc đã khẳng định: “1.Ai cũng có quyền được hưởng giáo dục. Giáo dục phải được miễn phí ít nhất ở cấp sơ đẳng và căn bản. Giáo dục sơ đẳng có tính cách cưỡng bách. Giáo dục kỹ thuật và chuyên nghiệp phải được phổ cập. Giáo dục cao đẳng phải được phổ cập cho mọi sinh viên trên căn bản bình đẳng, lấy thành tích làm tiêu chuẩn. 2. Giáo dục phải nhằm phát huy đầy đủ nhân cách, tăng cường sự tôn trọng nhân quyền và những quyền tự do căn bản; phải đề cao sự thông cảm, bao dung và hữu nghị giữa các quốc gia, các cộng đồng sắc tộc hay tôn giáo, đồng thời yểm trợ những hoạt động của Liên Hợp quốc trong việc duy trì hoà bình. Công ước Quốc tế về các Quyền Kinh tế, Xã hội và Văn hóa năm 1966 (ICESCR) đã nhấn mạnh: Các quốc gia thành viên Công ước thừa nhận quyền được học tập của mọi người; giáo dục phải hướng vào việc phát triển đầy đủ nhân cách và ý thức về nhân phẩm, phải nhằm tăng cường sự tôn trọng các quyền và tự do cơ bản của con người; giúp mọi người tham gia hiệu quả vào xã hội tự do, thúc đẩy sự hiểu biết, khoan dung và tình hữu nghị giữa các dân tộc, v.v.
Ở nước ta, Đảng, Nhà nước Việt Nam khẳng định luôn tôn trọng, bảo vệ quyền con người, trong đó có quyền được giáo dục, học tập của người dân. Nghị quyết 04-NQ/HNTW, ngày 14-01-1993 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa VII) đã nêu rõ: Cùng với khoa học và công nghệ, giáo dục và đào tạo là quốc sách hàng đầu, là động lực thúc đẩy, là điều kiện cơ bản đảm bảo và thực hiện các mục tiêu kinh tế - xã hội, xây dựng và bảo vệ đất nước. Giáo dục phải vừa gắn chặt với yêu cầu phát triển đất nước, vừa phù hợp với xu thế tiến bộ của thời đại. Nghị quyết  29-NQ/TW, ngày 04-11-2013 Hội nghị Trung ương 8 (khoá XI) một lần nữa khẳng định: “Giáo dục và đào tạo là quốc sách hàng đầu, là sự nghiệp của Đảng, Nhà nước và của toàn dân”. Điều này tiếp tục được khẳng định tại Đại hội Đảng (khóa XII): Đổi mới căn bản và toàn diện giáo dục, đào tạo, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực nhằm đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa, mở cửa và hội nhập quốc tế. Hiến pháp năm 2013, nêu rõ: “Công dân có quyền và nghĩa vụ học tập” (Điều 39); “Phát triển giáo dục là quốc sách hàng đầu nhằm nâng cao dân trí, phát triển nguồn nhân lực, bồi dưỡng nhân tài, Nhà nước ưu tiên đầu tư và thu hút nguồn đầu tư khác cho giáo dục; từng bước phổ cập giáo dục trung học; phát triển giáo dục đại học, giáo dục chuyên nghiệp; thực hiện chính sách học bổng, học phí hợp lý. Nhà nước ưu tiên phát triển giáo dục vùng miền núi, hải đảo, vùng đồng bào dân tộc thiểu số và vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn” (Điều 61). Nội dung này đã được thể chế trong nhiều văn bản pháp luật khác như: Luật Phổ cập giáo dục tiểu học, Luật Bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em, Luật giáo dục, Luật Dạy nghề, v.v.
Nhằm bảo đảm điều kiện tốt nhất cho giáo dục, đào tạo, những năm qua, dù nguồn ngân sách còn hạn chế, Nhà nước vẫn ưu tiên duy trì mức chi khoảng 20% tổng ngân sách nhà nước cho giáo dục, đào tạo. Nhờ đó, nước ta đã xây dựng được một hệ thống giáo dục đầy đủ các cấp học ở mọi vùng, miền với các loại hình trường lớp đảm bảo nhu cầu học tập cho học sinh các cấp đúng độ tuổi. Hiện toàn quốc có 14.203 trường mầm non, 15.227 trường tiểu học, 10.878 trường trung học cơ sở, 2.767 trường trung học phổ thông, 308 trường phổ thông dân tộc nội trú và 876 trường phổ thông dân tộc bán trú, 703 trung tâm giáo dục thường xuyên, 574 cơ sở đào tạo trung cấp chuyên nghiệp và 436 trường đại học, cao đẳng (năm 2015)[1]. Tất cả các xã, phường, thị trấn trên toàn quốc đều có trường tiểu học, trung học cơ sở hoặc trường trung học phổ thông; mỗi quận, huyện, thị xã,… có từ 2 trường trung học phổ thông hoặc trường trung học cơ sở trở lên, đáp ứng nhu cầu học tập của trẻ em trong độ tuổi; tạo thuận lợi để các em học sinh được tiếp cận môi trường học tập tốt nhất và có cơ hội phát triển tư duy, trí tuệ của các học sinh. Tất cả các tỉnh có đồng bào dân tộc thiểu số sinh sống đều có trường trung học chuyên nghiệp, cao đẳng, trường phổ thông dân tộc bán trú. Nhà nước ta đã thực hiện nhiều chính sách công bằng trong tiếp cận giáo dục, đặc biệt đối với học sinh, sinh viên nghèo, trẻ em người dân tộc thiểu số, vùng sâu, vùng xa, vùng miền núi nhằm đảm bảo cho các em được học tập, như: chính sách miễn, giảm học phí và hỗ trợ chi phí cho học sinh nghèo; hỗ trợ phát triển giáo dục đối với con em dân tộc thiểu số, vùng sâu, vùng xa, người khuyết tật. Chỉ riêng năm 2015, đã có 1,3 triệu hộ gia đình và 1,5 triệu học sinh, sinh viên được vay vốn học tập và lập nghiệp với số tiền là 26.948 tỷ đồng, đã giúp học sinh thuộc nhóm này được học tập, đào tạo. Đối với học sinh người dân tộc thiểu số, Nhà nước luôn quan tâm, tạo điều kiện cho các em được học tập trong môi trường giáo dục tốt nhất. Bên cạnh chương trình đào tạo theo chuẩn kiến thức, kỹ năng của chương trình giáo dục phổ thông, học sinh người dân tộc thiểu số còn được tham gia các hoạt động giáo dục chuyên biệt, như: giáo dục kỹ năng sống, hướng nghiệp, dạy nghề,... được chăm sóc sức khỏe nhằm mục tiêu phát triển toàn diện. Kể từ khi thực hiện Nghị quyết 29-NQ/TW đến nay, việc triển khai chương trình giáo dục phổ thông đã đi đúng lộ trình, chất lượng giáo dục mũi nhọn tiếp tục được giữ vững. Nổi bật là, các đoàn học sinh Việt Nam dự Olympic khu vực và quốc tế hàng năm đều đạt giải cao. Ngành giáo dục đã, đang tập trung vào nâng cao chất lượng, đặc biệt là giáo dục đạo đức, lối sống, năng lực sáng tạo, kỹ năng thực hành để vừa đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội và nhu cầu ngày càng cao của thị trường lao động trong nước và thế giới. Đồng thời, phát huy những mặt tích cực, hạn chế tiêu cực của cơ chế thị trường, chống khuynh hướng thương mại hóa trong giáo dục.
Với những thành tựu đạt được trong bảo vệ và thúc đẩy quyền được giáo dục những năm qua, Việt Nam đã thể hiện là một thành viên tích cực, có trách nhiệm của cộng đồng quốc tế, được cộng đồng quốc tế ghi nhận đánh giá cao. Việt Nam đã hoàn thành phổ cập tiểu học, vượt trước 15 năm so với thời hạn của Mục tiêu Thiên niên kỷ (năm 2000). Hiện nay, tất cả các tỉnh, thành phố đều đạt phổ cập trung học cơ sở và đạt chuẩn phổ cập giáo dục tiểu học đúng độ tuổi; được UNESCO xếp 64/127 nước về phát triển giáo dục. Theo Báo cáo phát triển con người Việt Nam năm 2015 của Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam phối hợp với Chương trình Phát triển Liên Hợp quốc (UNDP) công bố, chỉ số phát triển con người (HDI) của Việt Nam liên tục tăng trong hơn 20 năm qua. Còn theo báo cáo của Ngân hàng thế giới công bố ngày 15-3-2018, Việt Nam trong tốp 10 nước có hệ thống giáo dục hàng đầu thế giới ở khu vực Đông Á – Thái Bình Dương tiên phong trong đổi mới giáo dục.
Tuy nhiên, cũng cần phải thẳng thắn nhìn nhận rằng, việc thực hiện quyền được giáo dục ở Việt Nam còn những hạn chế nhất định, như: sự bất bình đẳng trong tiếp cận giáo dục, còn tồn tại khoảng cách về chất lượng giáo dục giữa thành thị và nông thôn, vùng dân tộc thiểu số. Khuôn khổ pháp luật Việt Nam về thực hiện quyền được giáo dục mặc dù đã từng bước được hoàn thiện nhưng vẫn chưa đồng bộ. Nguồn lực đầu tư cho giáo dục có hạn, chưa đáp ứng được yêu cầu bảo đảm chất lượng giáo dục trong quá trình xây dựng, phát triển đất nước, hội nhập quốc tế. Việc giáo dục tư tưởng, đạo đức, lối sống cho học sinh chưa được chú ý đúng mức cả về nội dung và phương pháp. Giáo dục phổ thông mới quan tâm nhiều đến “dạy chữ”, chưa quan tâm đúng mức đến kỹ năng sống, đến “dạy người” và “dạy nghề”; việc thi cử còn nặng về điểm số dẫn đến gây áp lực cho học sinh, sinh viên, v.v.
Để bảo đảm thực hiện ngày càng tốt hơn quyền được giáo dục ở Việt Nam, trong thời gian tới, dưới sự lãnh đạo của Đảng, Nhà nước, các cơ quan chức năng tiếp tục đẩy mạnh xây dựng, hoàn thiện hệ thống pháp luật nhằm bảo đảm thực hiện tốt hơn quyền được giáo dục ở nước ta, như sớm hoàn thiện trình Quốc hội thông qua dự Luật Giáo dục (sửa đổi) và dự Luật giáo dục đại học (sửa đổi), v.v. Tiếp tục đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục theo hướng chuyển mạnh từ đào tạo, bồi dưỡng kiến thức sang phát triển toàn diện năng lực và phẩm chất của người học. Xây dựng nền giáo dục mở, thực học, thực nghiệp; bảo đảm các điều kiện nâng cao chất lượng giáo dục; chuẩn hóa, hiện đại hóa, xã hội hóa và hội nhập quốc tế đối với nền giáo dục. Nâng cao hơn nữa chất lượng giáo dục, chú trọng cả ba mặt: dạy làm người, dạy chữ, dạy nghề; đặc biệt chú trọng giáo dục lý tưởng, nhân cách, đạo đức, lối sống, tri thức pháp luật và khát vọng mãnh liệt về xây dựng đất nước giàu mạnh cho học sinh, sinh viên. Tiếp tục chấn chỉnh, sắp xếp lại hệ thống các trường đại học, cao đẳng,… không để tồn tại các trường chất lượng kém, phấn đấu đạt chuẩn khu vực và quốc tế. Tăng cường đầu tư xây dựng, nâng cấp cơ sở vật chất, thiết bị giáo dục, có chính sách huy động, khuyến khích các nguồn lực xã hội đầu tư cho phát triển giáo dục, đào tạo. Ưu tiên tập trung đầu tư cho các vùng khó khăn, vùng có đông đồng bào dân tộc thiểu số, từng bước giảm sự chênh lệch về phát triển giáo dục giữa các vùng, miền, thực hiện tốt các chính sách ưu tiên, hỗ trợ cho học sinh dân tộc thiểu số, gia đình chính sách, các hộ nghèo, v.v. Đồng thời, xây dựng đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục đủ về số lượng, đáp ứng yêu cầu về chất lượng của thời kỳ hội nhập quốc tế. Tiếp tục đẩy mạnh cải cách hành chính, nâng cao chất lượng và hiệu quả công tác quản lý giáo dục và nghiên cứu khoa học giáo dục, giải quyết tốt vấn đề lý luận và thực tiễn trong quá trình đổi mới giáo dục.
Thực tiễn trên khẳng định, dưới sự lãnh đạo của Đảng, với sự nỗ lực của cả hệ thống chính trị, những năm qua Việt Nam đã đạt được những thành tựu quan trọng trong việc đảm bảo quyền được giáo dục của mọi công dân. Đây là kết quả của sự kết hợp giữa bản chất ưu việt của chế độ xã hội mà chúng ta đang xây dựng với bề dày truyền thống văn hóa lâu đời của dân tộc ta. Đó là minh chứng sinh động  nhất bác các luận điệu xuyên tạc, thù địch về vấn đề này đối với Việt Nam.





[1] - Nguyễn Hà My, Quyền được giáo dục ở Việt Nam được coi trọng, Báo Quân đội Nhân dân số ra ngày 17/12/2017.

1 nhận xét:

  1. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, với sự nỗ lực của cả hệ thống chính trị, những năm qua Việt Nam đã đạt được những thành tựu quan trọng trong việc đảm bảo quyền được giáo dục của mọi công dân. Tuy nhiên, cũng cần phải thẳng thắn nhìn nhận rằng, việc thực hiện quyền được giáo dục ở Việt Nam còn những hạn chế nhất định, như: sự bất bình đẳng trong tiếp cận giáo dục, còn tồn tại khoảng cách về chất lượng giáo dục giữa thành thị và nông thôn, vùng dân tộc thiểu số.iệc giáo dục tư tưởng, đạo đức, lối sống cho học sinh chưa được chú ý đúng mức cả về nội dung và phương pháp. Giáo dục phổ thông mới quan tâm nhiều đến “dạy chữ”, chưa quan tâm đúng mức đến kỹ năng sống, đến “dạy người” và “dạy nghề”; việc thi cử còn nặng về điểm số dẫn đến gây áp lực cho học sinh, sinh viên, v.v. Qua đó theo tôi thấy ngành giáo dục nước ta phải xây dựng đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục đủ về số lượng, đáp ứng yêu cầu về chất lượng của thời kỳ hội nhập quốc tế. Tiếp tục đẩy mạnh cải cách hành chính, nâng cao chất lượng và hiệu quả công tác quản lý giáo dục và nghiên cứu khoa học giáo dục, giải quyết tốt vấn đề lý luận và thực tiễn trong quá trình đổi mới giáo dục. Thì các thế lực thù địch mới không có cơ hội xuyên tạc về vấn đề này đối với Việt Nam

    Trả lờiXóa