Thứ Tư, 19 tháng 12, 2018

SỰ PHI LÝ, PHIẾN DIỆN CỦA LUẬN ĐIỂM “NHỮNG NGƯỜI CỘNG SẢN SÍNH DÙNG BẠO LỰC”




 Như đã thành thông lệ, hằng năm cứ vào dịp nước ta kỷ niệm Cách mạng Tháng Tám và Quốc khánh 2-9, trên các trang mạng, các thế lực thù địch lại tung ra nhiều luận điệu xuyên tạc ý nghĩa của sự kiện quan trọng này. Chúng trắng trợn và lố bịch đưa ra luận điệu: “Hồ Chí Minh và những người Cộng sản sính dùng bạo lực” nên đã đưa dân tộc vào “thảm họa” với hai cuộc chiến tranh (1945 - 1954 và 1954 - 1975), làm cho đất nước bị tàn phá, dân tộc bị phân ly và ngày nay vẫn nghèo nàn, đói khổ, v.v. Theo họ, giá như không đi theo con đường những người Cộng sản vạch ra mà bằng cách xin “chính quốc” trao trả độc lập thì nước ta vẫn có độc lập, tránh được chiến tranh, đi theo con đường của các nước tư bản để tới phồn vinh (!) Thực chất những luận điểm trên là nhằm phủ nhận vai trò lãnh đạo của Đảng, Chủ tịch Hồ Chí Minh và thành quả cách mạng to lớn của nhân dân ta.
Không thể nói Hồ Chí Minh và những người Cộng sản sính dùng bạo lực? Nhân dân Việt Nam yêu chuộc hòa bình, khát khao có cuộc sống hòa bình, hòa bình trong độc lập, tự do. Để đạt được, nhân dân Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng, không sợ hy sinh, gian khổ, kiên quyết đấu tranh giành lấy hòa bình thật sự trong độc lập, tự do. Đó là sự thật!
Thực tiễn minh chứng, ngay từ khi vừa ra đời, Đảng ta đã phát động, lãnh đạo cao trào cách mạng 1930-1931 và 1936-1939. Đó là những cuộc tổng diễn tập, chuẩn bị tiền đề cho Tổng khởi nghĩa giành chính quyền. Tháng 9-1939, Chiến tranh thế giới lần thứ 2 nổ ra, tình hình thế giới và ở Đông Dương biến chuyển căn bản. Đảng ta nhận định và chuyển hướng chỉ đạo chiến lược, đặt nhiệm vụ giải phóng dân tộc lên hàng đầu và phát động cao trào đấu tranh mới tiến tới Tổng khởi nghĩa giành chính quyền. Tại Hội nghị Trung ương lần thứ 8 (tháng 5-1941), Đảng ta xác định: “Trong lúc này nếu không giải quyết được vấn đề dân tộc giải phóng, không đòi được độc lập, tự do cho toàn thể dân tộc, thì chẳng những toàn thể quốc gia dân tộc còn chịu mãi kiếp ngựa trâu, mà quyền lợi của bộ phận, giai cấp đến vạn năm cũng không đòi lại được”[1]. Ngày 09-3-1945, phát-xít Nhật tiến hành đảo chính lật đổ chính quyền Pháp, thực dân Pháp đã đầu hàng quân Nhật và bỏ chạy. Ngay tối hôm đó, Ban Thường vụ Trung ương Đảng đã triệu tập hội nghị mở rộng và ngày 12-3-1945 ra bản Chỉ thị “Nhật - Pháp bắn nhau và hành động của chúng ta”. Hội nghị quyết định phát động cao trào chống Nhật, cứu nước trong toàn quốc, làm tiền đề cho cuộc tổng khởi nghĩa. Cả dân tộc ta gấp rút chuẩn bị những công việc cuối cùng, tạo và đón lấy thời cơ để vùng lên Tổng khởi nghĩa giành chính quyền trong cả nước. Ngày 14-8-1945, Nhật Hoàng tuyên bố đầu hàng Đồng minh vô điều kiện. Ở Việt Nam, bọn tay sai của chúng đã hoang mang đến cực độ. Trung ương Đảng triệu tập Hội nghị toàn quốc, nhận định điều kiện khởi nghĩa đã chín muồi và cử ra Ủy ban khởi nghĩa toàn quốc. Ngay đêm 13-8, Ủy ban khởi nghĩa toàn quốc ra Lệnh khởi nghĩa. Ngày 16-8-1945, Đại hội quốc dân họp, quyết định thành lập Ủy ban giải phóng dân tộc Việt Nam (tức Chính phủ lâm thời) do lãnh tụ Hồ Chí Minh làm Chủ tịch. Ngay trong ngày 16-8-1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã gửi thư kêu gọi đồng bào cả nước: “Giờ quyết định cho vận mệnh dân tộc đã đến. Toàn quốc đồng bào hãy đứng dậy đem sức ta mà tự giải phóng cho ta”[2]. Hưởng ứng lời kêu gọi đó, nhân dân cả nước đã nhất tề vùng lên, chỉ trong vòng chưa đầy nửa tháng, cuộc Tổng khởi nghĩa của nhân dân ta đã thành công, lật đổ bộ máy thống trị phát-xít cùng triều đình phong kiến, thiết lập chính quyền cách mạng trên cả nước. Cách mạng Tháng Tám thành công, ngày 02-9-1945, tại Quảng trường Ba Đình lịch sử, Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc Tuyên ngôn Độc lập, tuyên bố nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ra đời, mở ra con đường phát triển của dân tộc. Như vậy, Cách mạng Tháng Tám nổ ra và giành thắng lợi nhanh chóng là nhờ sự tài tình của Đảng và Bác Hồ trong nghệ thuật chỉ đạo và lãnh đạo cách mạng; sự chuẩn bị chu đáo về đường lối, lực lượng,… nhất là, việc dự báo, chớp lấy thời cơ lịch sử “ngàn năm có một” để lãnh đạo nhân dân Việt Nam đứng lên tự giải phóng mình, chứ không hề ngồi yên trông mong, chờ và càng không bao giờ ngồi chờ “trao trả độc lập”.
Hiện thực lịch sử thế giới cho thấy: chưa ở đâu, nơi nào trên thế giới mà giai cấp tư sản, chủ nô bóc lột lại tự giác từ bỏ vai trò thống trị để trao quyền cho giai cấp công nhân và nhân dân lao động. Chỉ ở đâu, nơi nào, giai cấp công nhân, nhân dân lao động bị áp bức bóc lột, dưới sự lãnh đạo của một đảng cách mạng chân chính lãnh đạo, nhất tề đứng lên đấu tranh bằng phương pháp: bạo lực cách mạng mới giành thắng lợi.
Một dân tộc có truyền thống văn hiến, yêu chuộng hòa bình, luôn dũng cảm đứng lên đấu tranh cho quyền lợi của dân tộc và sự tiến bộ, văn minh của nhân dân thế giới. Dưới sự lãnh đạo của Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng Cộng sản Việt Nam, cả dân tộc Việt Nam đã gan góc chống ách nô lệ của Pháp hơn 80 năm. Dân tộc Việt Nam cũng đã gan góc đứng về phe Đồng minh chống phát xít Nhật. Sự chiến đấu bền bỉ, gian khổ và hy sinh đó đã giành được quyền thiêng liêng là độc lập, tự do cho dân tộc. Đây là quyền tự nhiên, thiêng liêng và bất khả xâm phạm.
Sự thật sinh động của những ngày tháng Tám năm 1945 lịch sử khẳng định rằng: Cách mạng Tháng Tám thành công không phải là “sự ăn may” như ai đó từng hồ đồ tuyên bố; cũng không phải Hồ Chí Minh và những người Cộng sản sính dùng bạo lực! Mà đó là phương pháp dùng bạo lực cách mạng để đập tan bạo lực phản cách mạng. Một sự thật lịch sử không thể phủ nhận, bác bỏ là: ngay sau khi phe phát-xít Đức - Ý - Nhật thua trận đầu hàng, thì lập tức thực dân Pháp núp dưới bóng quân Đồng minh lại rắp tâm cướp nước ta một lần nữa, buộc nhân dân ta phải bước vào cuộc chiến đấu chín năm kháng chiến trường kỳ. Thực dân Pháp chỉ đầu hàng vô điều kiện khi bị quân và dân ta giáng cho một đòn đích đáng bằng Chiến thắng Điện Biên Phủ lừng nẫy Năm châu, chấn động địa cầu (năm 1954).
Giá trị lịch sử và ý nghĩa thời đại của Cách mạng Tháng Tám là không thể phủ định. Chỉ có những kẻ vì những đồng đô-la được bố thí mà vẫn cố tình xuyên tạc sự thật lịch sử, đổi trắng thay đen, tiếp tay cho các thế lực thù địch, điên cuồng chống phá Cách mạng Việt Nam. Mọi luận điệu xuyên tạc họ đưa ra thật nực cười và cám cảnh thay!

Nguyen         


[1] - ĐCSVN - Văn kiện Đảng toàn tập, Tập 7, Nxb CTQG, H. 2000, tr.113.
[2] - Hồ Chí Minh - Toàn tập, Tập 3, Nxb CTQG, H. 2011, tr. 596.

2 nhận xét:

  1. Nhận xét này đã bị tác giả xóa.

    Trả lờiXóa
  2. Như các bạn đã biết Việt Nam là một dân tộc yêu chuộng hòa bình, khát khao có cuộc sống hòa bình, hòa bình trong độc lập, tự do. Để đạt được, nhân dân Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng, không sợ hy sinh, gian khổ, kiên quyết đấu tranh giành lấy hòa bình thật sự trong độc lập, tự do. Đó là sự thật. Thế mà các thế lực thù địch lại tung ra nhiều luận điệu xuyên tạc “NHỮNG NGƯỜI CỘNG SẢN SÍNH DÙNG BẠO LỰC” thật là phi lí và không thể chấp nhận được.

    Trả lờiXóa