QĐND - Suốt chiều dài lịch sử của
Nhà nước cách mạng Việt Nam,
quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của người dân luôn được tôn trọng và bảo
đảm. Hoạt động của các tôn giáo Việt Nam không ngừng được cải thiện và
ngày một tốt đẹp hơn. Đây là thực tế khách quan không thể phủ nhận và được cộng
đồng quốc tế biết đến từ lâu. Tuy nhiên, các cá nhân, tổ chức thiếu thiện chí
với Việt Nam
vẫn rắp tâm bóp méo sự thật này.
Cuối tháng
3, Tòa án nhân dân tỉnh Gia Lai đã công khai mở phiên tòa sơ thẩm xét xử
vụ án Nguyễn Công Chính. Nhân vật đội lốt tôn giáo, vi phạm pháp luật, phá
hoại chính sách đại đoàn kết dân tộc này phải nhận mức án 11 năm tù giam theo
khoản 1 Điều 87 và khoản 2 Điều 46 Bộ luật hình sự là điều không bất ngờ. Trong
thời gian dài, Nguyễn Công Chính đã quan hệ với một số tổ chức phản động, hoạt
động vi phạm pháp luật. Tuy đã được chính quyền địa phương nhắc nhở, giáo dục
nhiều lần song Chính không những không từ bỏ con đường sai trái mà còn ngày
càng lún sâu vào tội lỗi.
Nguyễn Công Chính
đã soạn thảo, phát tán nhiều tài liệu cho cá nhân, tổ chức phản động trong và
ngoài nước; phát biểu xuyên tạc tình hình trong nước, vu cáo chính quyền và lực
lượng vũ trang trên các đài báo nước ngoài. Một số đối tượng hoạt động trong tổ
chức phản động FULRO bị bắt và xử lý theo pháp luật, thì Chính lại cho rằng đó
là số tín đồ sinh hoạt tôn giáo đơn thuần nhưng bị chính quyền vu cáo và xử tù.
Trường hợp Thạch Thanh Nô, người dân tộc Khơ-me ở huyện Trà Cú, tỉnh Trà Vinh
là một Phật tử bị chết do tai nạn giao thông, Nguyễn Công Chính đã chỉ đạo đồng
bọn soạn thảo văn bản và trực tiếp ký “Thông báo khẩn cấp” gửi Tổng lãnh sự
quán Mỹ và các tôn giáo, xuyên tạc Thạch Thanh Nô bị đánh chết khi
đang sinh hoạt tôn giáo.
Trong tổng số 22
đầu tài liệu mà cơ quan điều tra thu được của Nguyễn Công Chính có tới 19 đầu
tài liệu có nội dung tuyên truyền gây chia rẽ giữa chính quyền, lực lượng vũ
trang với tầng lớp nhân dân; chia rẽ Việt Nam với các nước trên thế giới nhằm
chống lại Nhà nước CHXHCN Việt Nam. Hành vi này của Nguyễn Công Chính đã trực
tiếp gây chia rẽ các tầng lớp nhân dân với các tổ chức xã hội. Trước những
chứng cứ cụ thể, rõ ràng, Nguyễn Công Chính không thể chối cãi và phải chấp
nhận án tù.
Một thế giới văn
minh không thể chấp nhận việc lợi dụng tôn giáo để phương hại đến tiến trình
phát triển của xã hội. Nhiều nước, trong đó có Mỹ, đã đặt các phần tử xấu núp
danh thánh thần, tôn giáo cực đoan ra ngoài vòng luật pháp và thậm chí còn coi
là khủng bố. Tại Việt Nam, luật pháp nghiêm cấm việc lợi dụng quyền tự do tín
ngưỡng, tôn giáo để phá hoại hòa bình, độc lập, thống nhất đất nước; kích động
bạo lực hoặc tuyên truyền chiến tranh; chia rẽ nhân dân, chia rẽ các dân tộc,
chia rẽ các tôn giáo; gây rối trật tự công cộng, xâm hại đến tính mạng, sức
khỏe, nhân phẩm, danh dự và tài sản của người khác.
Xuyên tạc sự thật,
ông Giôn Xíp-tơn (John Sifton), Giám đốc vận động cho khu vực châu Á thuộc tổ
chức Human Rights Watch lại nói rằng: “Bản án của mục sư Chính là một ví dụ nữa
cho thấy chính quyền Việt Nam quan tâm đến quyền tự do tôn giáo cỡ nào: Không
một tí nào cả”.
Ý kiến
của ông Giôn Xíp-tơn là hùa theo đánh giá trước đó không lâu của Ủy ban Tự
do Tôn giáo Quốc tế của Mỹ rằng: “Việt Nam là một trong những quốc gia vi
phạm quyền tự do tôn giáo tệ hại nhất trên thế giới”. Tuy nhiên, đối với bất cứ
ai có lương tâm và nhìn nhận về tôn giáo với tinh thần hiểu biết, thì đều thấy
rõ đây là những nhận xét sai lệch, bôi đen bức tranh tôn giáo nhiều sắc màu tươi
đẹp ở Việt Nam.
Đường lối, chính
sách nhất quán của Nhà nước Việt Nam về quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo xuất
phát từ mục tiêu, lý tưởng của Đảng Cộng sản Việt Nam, từ bản chất của chế độ.
Ngay từ những ngày đầu mới ra đời, Nhà nước cách mạng Việt Nam đã đề ra
những chính sách đúng đắn tôn trọng quyền tự do tôn giáo, tín ngưỡng.
Trong phiên họp đầu tiên của Chính phủ lâm thời ngày 3-9-1945, Chủ tịch Hồ Chí
Minh đã nêu 6 vấn đề cấp bách cần giải quyết, trong đó có việc thực hiện
“tín ngưỡng tự do, Lương Giáo đoàn kết”. Đây là quan điểm cơ bản mà sau đó đã
được củng cố, phát triển xuyên suốt qua các bản hiến pháp của Việt Nam sau này.
Hiến pháp năm 1992 của Việt Nam
khẳng định: “Công dân có quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo, theo hoặc không theo
một tôn giáo nào. Các tôn giáo đều bình đẳng trước pháp luật. Những nơi thờ tự
của các tín ngưỡng, tôn giáo được pháp luật bảo hộ. Không ai được xâm phạm tự
do tín ngưỡng, tôn giáo, hoặc lợi dụng tín ngưỡng, tôn giáo để làm trái pháp
luật và chính sách của Nhà nước”. Nhằm tạo điều kiện thuận lợi nhất cho các
hoạt động tôn giáo, năm 2004, Ủy ban Thường vụ Quốc hội khóa XI cũng đã thông
qua Pháp lệnh Tín ngưỡng tôn giáo.
Không chỉ trên giấy
tờ, Nhà nước Việt Nam
liên tục phấn đấu nhằm bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo cho
người dân. Cả nước hiện có khoảng 20 triệu người theo 12 tôn giáo khác nhau và
80% người dân có đời sống tín ngưỡng. Hàng chục nghìn cơ sở thờ tự các tôn giáo
được nâng cấp, xây dựng mới trong những năm qua. Các cơ sở đào tạo chức sắc tôn
giáo với đủ các cấp học như Học viện Phật giáo, Chủng viện Thiên chúa giáo,
Viện Thánh kinh Thần của đạo Tin lành đã và đang hoạt động với sự giúp đỡ của
chính quyền địa phương. Nhiều chức sắc tôn giáo và nhà tu hành Việt Nam được cử đi
đào tạo tại các nước như Mỹ, Pháp, I-ta-li-a, Ấn Độ... Hiện nay, tỷ lệ tăng
giáo dân tương tự như tỷ lệ tăng dân số. Nhiều sự kiện tôn giáo quan trọng
như Đại lễ Phật đản Liên hợp quốc (Vesak) đã được tổ chức thành công tại Việt Nam trong những
năm qua.
Đời sống tôn giáo
sinh động và cởi mở ở Việt Nam đã
được thế giới ca ngợi và đánh giá cao. Trong chuyến thăm Va-ti-căng của
Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng năm 2007, Giáo hoàng Bê-nê-đích XVI đã đánh giá Việt
Nam là hình mẫu về tự do tôn giáo, tín ngưỡng ở châu Á. Năm 2010, tại Diễn đàn tín
ngưỡng toàn cầu, mục sư Bốp Rô-bớt (Bob Roberts), người đứng đầu Nhà thờ Tin
lành Northwood ở bang Tếch-dát (Mỹ) đã coi Việt Nam như một biểu tượng về
tôn trọng tôn giáo. Mới đây nhất trong chuyến thăm và làm việc tại Việt Nam
tháng 2-2012, Thứ trưởng Ngoại giao Tòa thánh Va-ti-căng Ết-tô-re
Ba-lét-xtrê-rô đã ghi nhận việc Nhà nước Việt Nam tiếp tục nỗ lực thực hiện
nhất quán và không ngừng hoàn thiện chính sách tôn trọng và bảo đảm tự do tín
ngưỡng, tự do tôn giáo của người dân.
Đồng bào theo tôn
giáo chân chính luôn là một bộ phận không thể tách rời trong cộng đồng các dân
tộc Việt Nam.
Với phương châm sống “tốt đời, đẹp đạo”, các giáo dân đang góp phần tích cực
vào công cuộc đổi mới, chung tay xây dựng đất nước Việt Nam dân giàu,
nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh. Thực tế hiển nhiên này không thể tranh
cãi, song cũng cần thiết vạch trần các luận điệu bóp méo sự thật bởi ẩn
chứa trong chúng là những động cơ xấu.
Quốc Bảo
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét