QĐND - Quyền con
người (QCN) là thành quả của nền văn minh nhân loại, là giá trị lớn lao mà các
quốc gia dân tộc có thể chia sẻ. Cách mạng Việt Nam do Đảng ta và Chủ tịch Hồ
Chí Minh lãnh đạo đã có những đóng góp lớn lao, mang tính đột phá, tính thời
đại về nhân quyền. Điều này thể hiện tập trung ở Tư tưởng Hồ Chí Minh và
thực tiễn Cách mạng Việt Nam.
1- Sự ra đời của
khái niệm QCN gắn liền với các cuộc cách mạng dân chủ tư sản lật đổ chế độ
phong kiến, xã hội thần dân thế kỷ XVII, XVIII. Ở Anh, khái niệm đó nằm trong
Luật về các quyền (1689); ở Mỹ, nằm trong Tuyên ngôn Độc lập (1776) và Hiến
pháp (bổ sung, 1789); ở Pháp, nằm trong Tuyên ngôn Nhân quyền và dân quyền
(1789). Khái niệm QCN hiện đại ra đời trong thế kỷ XX, gắn với sự ra đời của
Liên hợp quốc, năm 1945, trong Hiến chương Liên hợp quốc và trong Tuyên ngôn
Thế giới về QCN, năm 1948.
Quyền con
người được hiểu trên hai bình diện: Bình diện nhân văn và bình diện pháp
lý. Trên bình diện nhân văn, QCN được xem là một phạm trù đạo đức. Hạt nhân của
quan niệm này là sự tôn trọng nhân phẩm, là giá trị vốn có và bình đẳng đối với
tất cả mọi người; là tinh thần nhân đạo, khoan dung đối với con người. Trên
bình diện pháp lý, QCN là quyền của tất cả mọi người. Đó là nhân phẩm, nhu cầu,
lợi ích (vật chất, tinh thần) của con người được thể chế hóa trong quy định
pháp luật, được Nhà nước tôn trọng, bảo vệ và thực hiện. Quyền con người trong
pháp luật quốc gia vừa mang tính phổ quát vừa mang tính đặc thù về lịch sử, văn
hóa và chế độ xã hội.
Khác với quyền công
dân, QCN là quyền của mọi thành viên trong cộng đồng nhân loại. Đây chính là cơ
sở lý luận và pháp lý mà các thế lực đế quốc và tay sai của chúng lợi dụng để
can thiệp vào công việc của các quốc gia.
Trên phạm vi quốc
tế, Chiến lược “Diễn biến hòa bình” (DBHB), lợi dụng vấn đề dân chủ, nhân quyền
của chủ nghĩa đế quốc diễn ra song song với cuộc đấu tranh vũ trang ngay từ khi
nhà nước công nông đầu tiên ra đời (năm 1917). Từ giữa thập kỷ 80 (thế kỷ XX),
lợi dụng cải tổ, cải cách, đổi mới, chủ nghĩa đế quốc đã đẩy mạnh chiến lược
này, kết hợp với bạo loạn, lật đổ hòng làm thay đổi chế độ xã hội ở các nước
XHCN. Có thể nói, các cuộc “cách mạng màu” ở Đông Âu, “cách mạng hoa nhài” ở
Trung Đông, Bắc Phi là những biến thể của Chiến lược “Diễn biến hòa bình”.
Chẳng thế mà ngày nay, các thế lực thù địch đang mơ sẽ có “cách mạng hoa sen” ở
Việt Nam.
2- Ở Việt Nam, hơn
80 năm áp đặt chế độ thống trị, thực dân Pháp vẫn duy trì chế độ phong kiến
thối nát; dân tộc ta không có Hiến pháp, không có quyền công dân, quyền con
người. "Thành tựu" nhân quyền mà chủ nghĩa đế quốc, thực dân và
phát-xít đã đem lại cho dân tộc Việt Nam là sự kiện hơn 2 triệu người ở Bắc Bộ
chết đói vào năm 1945 (chiếm gần 1/10 dân số lúc đó), là cuộc chiến tranh mang
tính hủy diệt của đế quốc Mỹ kéo dài 30 năm, cho đến nay nhiều người Mỹ vẫn còn
ân hận. Đây là một bằng chứng lịch sử không ai có thể phủ nhận được.
Thế là, hơn
150 năm, kể từ khi có Tuyên ngôn Độc lập của nước Mỹ, Tuyên ngôn Nhân
quyền và dân quyền của Pháp, ở các nước thuộc địa, người dân vẫn phải sống kiếp
nô lệ. Không phải ngẫu nhiên người ta nghĩ rằng, khái niệm nhân quyền không
phải bao giờ cũng được sử dụng với nguyên nghĩa tốt đẹp của nó, mà đằng sau đó
còn chứa đựng những ý đồ chính trị đen tối của các thế lực đế quốc, thực dân và
của những kẻ tay sai của chúng.
3- Không phủ nhận
rằng, QCN mang tính phổ quát, nhưng do những đặc thù về lịch sử, văn hóa và chế
độ xã hội, nội dung, phương thức, cơ chế bảo đảm QCN ở mỗi quốc gia luôn có sự
khác nhau. Trong Cách mạng Việt Nam, QCN do nhân dân ta đứng lên đấu tranh tự
giành lấy. Tuyên ngôn Độc lập 1945 và Hiến pháp 1946 đã ghi nhận các quyền công
dân và QCN của nhân dân ta, trước khi có Bản Tuyên ngôn Nhân quyền Thế giới
1948.
Việc bảo đảm QCN
của nhân dân ta ngày nay không chỉ là việc chăm lo cho đời sống của nhân dân mà
còn phải đấu tranh với các thế lực thù địch và tay sai của chúng, bảo vệ chế độ
và thành quả của cách mạng đã giành được.
Trong lịch sử Cách
mạng Việt Nam, đổi mới là một thời kỳ đặc biệt. Đó là thời kỳ Đảng ta sửa chữa
sai lầm, khuyết điểm, nhận thức lại CNXH và con đường đi lên CNXH. Bản lĩnh của
Đảng ta đã thể hiện rõ trong bước ngoặt lịch sử này. Đảng ta chủ trương chọn
lọc, kế thừa các giá trị của nền văn minh nhân loại, trong đó có kinh tế thị
trường, nhà nước pháp quyền, dân chủ và quyền con người. Tuy nhiên, Đảng ta
quán triệt nguyên tắc: Đổi mới phải dựa trên chủ nghĩa Mác - Lê nin, Tư
tưởng Hồ Chí Minh, giữ vững định hướng XHCN, giữ vững vai trò lãnh đạo của
Đảng và quyền làm chủ của nhân dân.
Thời kỳ đầu những
năm đổi mới, Đảng ta đã chỉ ra những sai lầm khuyết điểm trên lĩnh vực dân chủ
và QCN như: "Hệ thống pháp luật chưa hoàn chỉnh”, "tình trạng một số
cơ quan nhà nước và người thi hành công vụ làm trái pháp luật..., có trường hợp
vi phạm nghiêm trọng quyền công dân”... Đồng thời, Đảng ta cũng đã sớm chỉ ra
rằng, “Đối với chúng ta, vấn đề QCN được đặt ra xuất phát từ mục tiêu của
CNXH... bao quát rộng rãi nhiều lĩnh vực từ chính trị, tư tưởng, văn hóa đến
kinh tế, xã hội, an ninh, quốc phòng, pháp chế” (1).
Trên một số lĩnh
vực nhạy cảm về dân chủ và QCN, khi chưa có sự thống nhất về mặt nhận thức
trong Đảng và xã hội, Đảng ta đã có sự chỉ đạo trực tiếp trong nội bộ Đảng và
trong cả hệ thống chính trị. Có thể lấy một số văn kiện của Ban Chấp hành Trung
ương, của Ban Bí thư và Bộ Chính trị làm ví dụ: Chỉ thị của BCH
Trung ương về “Xây dựng và thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở” (1998),
trong đó Đảng ta thể hiện rõ quan điểm “dân biết, dân bàn, dân kiểm tra, dân
quyết định”; Nghị quyết Trung ương 3, khóa X về “Tăng cường sự lãnh đạo của
Đảng đối với công tác phòng, chống tham nhũng, lãng phí” (2006); Nghị
quyết Trung ương 7 khóa IX (2003) “Về phát huy sức mạnh đại đoàn
kết dân tộc”, trong đó Đảng ta xác định: "Xóa bỏ mặc cảm định kiến, phân
biệt đối xử về quá khứ, thành phần, giai cấp, xây dựng tinh thần cởi mở, tin
cậy lẫn nhau...”; Nghị quyết về “Công tác dân tộc”, Đảng ta tái khẳng định quan
điểm: "Các dân tộc bình đẳng, đoàn kết, tương trợ, giúp đỡ lẫn nhau”, “ưu
tiên đầu tư phát triển kinh tế - xã hội vùng dân tộc và miền núi”. Nghị quyết
về “Công tác tôn giáo”, Đảng ta xác định "Tín ngưỡng, tôn giáo là nhu cầu
tinh thần của một bộ phận nhân dân. Đạo đức tôn giáo có nhiều điểm phù hợp với
công cuộc xây dựng xã hội mới”...
Nhằm khắc phục nhận
thức của xã hội không đúng về HIV/AIDS, đặc biệt là sự kỳ thị với người nhiễm
HIV, Ban Bí thư Trung ương Đảng đã có Chỉ thị 54, năm 2005
về “Tăng cường lãnh đạo công tác phòng, chống HIV/AIDS trong tình hình mới”,
trong đó yêu cầu Nhà nước sớm “xây dựng và hoàn thiện hệ thống văn bản pháp
luật đồng bộ tạo môi trường pháp lý... cho công tác phòng, chống HIV/AIDS”...
Trong hơn 20 năm đổi mới, sở dĩ cách mạng Việt Nam đã giành được những thành
tựu to lớn, trong đó chính trị ổn định; kinh tế vượt qua khủng hoảng, giữ được
tăng trưởng khá cao trong nhiều năm; vị thế của đất nước được nâng cao... là
nhờ Đảng ta không chấp nhận mô hình dân chủ, nhân quyền của phương Tây, không
sao chép mô hình “dân chủ công khai”, “đa nguyên, đa đảng” của cải tổ.
Để bảo vệ QCN của
nhân dân ta hiện nay, không thể không đấu tranh chống lại âm mưu thủ đoạn
của các thế lực thù địch thực hiện Chiến lược “Diễn biến hòa bình”, gây bạo
loạn lật đổ, sử dụng chiêu bài “dân chủ”, “nhân quyền” hòng thay đổi chế độ
chính trị ở nước ta”(2).
Hiện nay, các thế
lực thù địch sử dụng chiêu bài đòi “đổi mới triệt để”, đòi cải cách thể chế
chính trị, xóa bỏ Điều 4 Hiến pháp quy định về vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng
sản Việt Nam, hạn chế sự lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước và xã hội, đòi “đa
nguyên chính trị, đa đảng đối lập”, đòi thực hiện “tam quyền phân lập ”… nhằm
từng bước làm thay đổi tính chất chế độ xã hội ta.
Không phủ nhận
rằng, chúng ta đang đối mặt với một thực tế là tình trạng “tự diễn biến”, “tự
chuyển hóa” ,“suy thoái về chính trị, tư tưởng, đạo đức, lối sống của một bộ
phận không nhỏ cán bộ, đảng viên”(3); tình trạng phân hóa giàu-nghèo; những bất
cập trong lĩnh vực y tế, giáo dục; tai nạn giao thông, ô nhiễm môi trường, cơ
chế “xin-cho”, “lợi ích nhóm”…, song không vì thế mà có thể phủ nhận đường lối
chính sách của Đảng, Nhà nước ta nhất quán tôn trọng và bảo vệ QCN.
TS Cao Đức
Thái, nguyên Viện trưởng, Chủ tịch Hội đồng Khoa học Viện Nghiên cứu quyền
con người, Học viện Chính trị - Hành chính Quốc gia Hồ Chí Minh.
(1) - Tài liệu của Viện Nghiên cứu quyền con người , Học viện CT-HC Quốc gia Hồ Chí Minh.
(2)- Đảng Cộng sản
Việt Nam, Văn kiện Đại hội XI, Nxb CTQG.HN, 2011, tr 29.
(3) - Đảng Cộng sản
Việt Nam, Văn kiện Đại hội XI, Nxb CTQG.HN, 2011, tr 29.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét