(Tiếp theo
và hết)
QĐND - Về giá trị
pháp lý, mặc dù Tuyên ngôn là một tuyên bố chính trị nhưng cho đến nay các quốc
gia, dân tộc vẫn xem văn kiện này như là luật tập quán quốc tế, được viện dẫn
trong nhiều hiến pháp và pháp luật quốc gia.
Ý nghĩa pháp lý
quan trọng nhất của Tuyên ngôn là ở chỗ: Văn kiện này là cơ sở chính trị trong
việc hình thành tổ chức và các thủ tục giám sát quốc tế trên lĩnh vực quyền con
người. Đồng thời với 29 Điều quy định trong Tuyên ngôn về các quyền dân sự,
chính trị, kinh tế, xã hội và văn hóa, Liên hợp quốc đã cho soạn thảo và thông
qua hai công ước cơ bản - “Công ước quốc tế về các quyền dân sự, chính trị”, “
Công ước quốc tế về các quyền kinh tế, xã hội và văn hóa”, năm 1966 và trên
dưới 30 công ước nhân quyền chuyên biệt khác. Đây là nguồn cơ bản trong việc
xây dựng và hoàn thiện pháp luật quốc gia nhằm bảo về quyền công dân và quyền
con người.
Đối với dân tộc ta,
những tư tưởng nhân đạo, khoan dung, bảo vệ con người trong Tuyên ngôn không
phải là xa lạ. Đó là một phần trong các giá trị truyền thống của nhân dân ta.
Có thể xem tư tưởng “Thương người như thể thương thân” trong văn học dân gian;
tư tưởng “Khoan sức dân” của Trần Quốc Tuấn, tư tưởng “Lấy nhân nghĩa để thắng
hung tàn, lấy chí nhân để thay cường bạo” của Lê Lợi - Nguyễn Trãi và
nhiều quy định bảo vệ lợi ích của phụ nữ, trẻ em... trong Bộ luật Hồng Đức thời
Lê Thánh Tông, năm 1449... là những minh chứng.
Từ giữa thế kỷ thứ
XIX, thực dân Pháp xâm lược nước ta. Mặc dù cuộc Cách mạng Dân chủ tư sản
Pháp năm 1789 đã giương cao ngọn cờ Tự do, Bình đẳng, Bác ái, tôn trọng và bảo
vệ QCN, song ở Việt Nam cũng như các thuộc địa khác, chủ nghĩa thực dân vẫn
không hề chia sẻ những thành quả dân chủ, nhân quyền với các thuộc địa. Trái
lại, chúng đã câu kết với bè lũ tay sai, duy trì chế độ phong kiến, vương
quyền, tạo thành một chế độ lai tạp – thực dân – phong kiến tàn bạo, thối nát.
Cuộc Cách mạng
Tháng Tám năm 1945 do Đảng Cộng sản Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh lãnh đạo
giành được thắng lợi, nước Việt Nam dân chủ cộng hòa - nay là nước CHXHCN Việt
Nam được thành lập, Hiến pháp 1946 - Hiến pháp đầu tiên của Việt Nam được
thông qua - đã mở ra một kỷ nguyên mới cho dân tộc ta – kỷ nguyên độc lập
dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội. Ở nước ta, đây là lần đầu tiên các quyền
công dân và quyền con người được tôn trọng và bảo vệ.
Trong bản Tuyên
ngôn Độc lập, do Chủ tịch Hồ Chí Minh soạn thảo và Tuyên bố trước Quốc dân và
nhân dân thế giới ngày mồng 2 tháng 9 năm 1945, Người đã nhắc lại những tư
tưởng bảo vệ QCN trong bản Tuyên ngôn Độc lập của Mỹ, năm 1776, trong bản Tuyên
ngôn Dân quyền và Nhân quyền của Pháp, năm 1789 và nhấn mạnh: “Đó là những lời
bất hủ” là “lẽ phải không ai chối cãi được”. Dựa trên những tư tưởng đó Người
khẳng định: “Tất cả các dân tộc trên thế giới đều sinh ra bình đẳng; dân tộc
nào cũng có quyền sống, quyền sung sướng và quyền tự do”[1]. Tư tưởng Hồ Chí
Minh về giải phóng dân tộc, giải phóng xã hội làm tiền đề cho giải phóng con
người, cho việc bảo đảm QCN ở các thuộc địa đã trở thành một đóng góp lý luận
và thực tiễn có ý nghĩa thời đại của Chủ tịch Hồ Chí Minh và của Cách mạng Việt
Nam đối với sự phát triển quyền con người của nhân loại trong thế kỷ XX.
Trong hai cuộc
kháng chiến đầy hy sinh, gian khổ, kéo dài 30 năm, không lúc nào Đảng và
Nhà nước ta không quan tâm đến xây dựng nhà nước, chính quyền của nhân dân và
chăm lo cải thiện đời sống của người lao động.
Đổi mới là một thời
kỳ đặc biệt của cách mạng Việt Nam trong thế kỷ XX. Đó là thời kỳ Đảng ta sửa
chữa sai lầm, khuyết điểm, nhận thức lại CNXH và con đường đi lên CNXH. Bản
lĩnh của Đảng ta đã thể hiện rõ trong bước ngoặt lịch sử này. Đảng ta chủ
trương chọn lọc - kế thừa các giá trị của nền văn minh nhân loại, trong đó kinh
tế thị trường, nhà nước pháp quyền, dân chủ và quyền con người. Tuy nhiên Đảng
ta đã quán triệt nguyên tắc: Đổi mới phải dựa trên chủ nghĩa Mác - Lê-nin, giữ
vững định hướng XHCN, giữ vững vai trò lãnh đạo của Đảng và quyền làm chủ của
nhân dân. Việt Nam không chấp nhận mô hình dân chủ, nhân quyền của phương Tây,
không sao chép mô hình “dân chủ, công khai”, “đa nguyên, đa đảng” của cải tổ.
Nhờ sự lãnh đạo vững vàng, sáng suốt của Đảng Cộng sản Việt Nam, đất nước ta đã
vượt qua khủng hoảng kinh tế – xã hội, từng bước vươn lên đạt được những thành
tựu to lớn về nhiều mặt: Chính trị ổn định; kinh tế – tuy đang phải đối diện
với khó khăn song vẫn giữ được tăng trưởng dương, Việt Nam vẫn là quốc gia có
sức hấp dẫn lớn các nhà đầu tư; xã hội cởi mở, đoàn kết; giá trị văn hóa của
các dân tộc đang được khôi phục và phát triển; quan hệ quốc tế rộng mở, vị
thế của đất nước được nâng cao – Việt Nam đã từng là Ủy viên của Ủy
ban Nhân quyền, nay là Hội đồng Nhân quyền của Liên hợp quốc, từng là Ủy
viên không thường trực Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc.
Trên lĩnh vực quyền
con người, thuật ngữ quyền con người không chỉ được ghi nhận trong Hiến
pháp (1992), pháp luật mà đã được đưa vào Cương lĩnh của Đảng (Cương lĩnh năm
1991 và Cương lĩnh 2011).
Cho đến nay, Việt
Nam đã ký kết, phê chuẩn hầu hết các công ước quốc tế cơ bản về quyền con
người. Những quy định của pháp luật Việt Nam bao quát đầy đủ các quyền dân sự,
chính trị, kinh tế, xã hội, văn hóa và tương thích với các công ước quốc tế về
quyền con người mà Việt Nam đã tham gia.
Không phủ nhận
rằn,g hiện nay Việt Nam đang phải đối diện với không ít những vấn đề về quyền
con người, như sự phân hóa giàu nghèo; tình trạng quan liêu tham nhũng; tình
trạng người dân không được hưởng các hàng hóa, dịch vụ tương xứng với chất
lượng và giá cả… Tuy nhiên, với việc nhận thức đúng đắn hơn, đầy đủ hơn về CNXH
và con đường đi lên CNXH - hoàn thiện nền Dân chủ XHCN; xây dựng nhà nước pháp quyền
của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân; phát triển nền kinh tế thị trường
định hướng XHCN; xây dựng và phát huy vai trò của các Mặt trận Tổ Quốc, của các
tổ chức đoàn thể xã hội, các quyền và tự do cơ bản của con người trên đất nước
ta nhất định sẽ được bảo đảm ngày càng tốt hơn./.
TS Cao Đức Thái
(Giảng viên cao
cấp, Nguyên Viện trưởng, Chủ tịch HĐKH Viện Nghiên cứu quyền con người, Học
viện Chính trị-Hành chính Quốc gia Hồ Chí Minh)
[1] - Hồ Chí Minh,
Toàn tập 4, Nxb CTQG, HN, 1995, trang 1.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét